Sau ngày 30-4-1975, đảng và nhà nước CSVN đã áp dụng chính sách “Đốt sách và tù đầy quân cán chính miền Nam”. Nhưng sự tiêu diệt văn hóa miền Nam không xẩy ra nhẹ nhàng như họ đã làm tại miền Bắc sau năm 1954. Tại miền Nam, chính sách này được thực hiện một cách vội vàng, không phải là sự hăng hái của kẻ hoàn toàn chiến thắng. Hành động đóng cửa các cơ sở báo chí, nhà in và nhà phát hành cũng như chiến dịch tịch thu toàn bộ văn hóa phẩm, chứng tỏ một sự bất ổn khi đối diện với kho tàng văn học miền Nam, mà chính quyền Hà Nội đánh giá là có nguy hại cho chế độ.
Nhà xuất bản Văn Hóa Hà Nội có nhận
định: “Cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hóa, tư tưởng không ác liệt như mặt
trận quân sự, nhưng đó là một cuộc đấu tranh vô cùng cam go nguy hiểm.”
Trên thực
tế, nhạc vàng đã là món ăn tinh thần không thể thiếu, đáp ứng nhu cầu của một
dân tộc vốn nặng về tình cảm. Và chính dòng nhạc này, vì được người “tù
cải tạo” miền Nam dàn trải trên khắp các nẻo đường đất nước, đã ảnh hưởng sâu
đậm và chuyển đổi tâm tư của cán bộ tại các "trại cải tạo" miền Bắc cũng
như gia đình của họ.
Nhiều
người đặt câu hỏi: “Sau nhiều năm dài bị đầy ải, áp bức trong ngục tù cộng sản,
nhờ phép mầu nào mà người “tù cải tạo” miền Nam không bị điên loạn, giữ được
mạng sống để trở về?” Thật khó có một câu trả lời trọn vẹn, bao quát cuộc
sống tăm tối của một kiếp người. Liệu đó có phải là một cơ may, nhất là
tù nhân luôn luôn bị ám ảnh không có ngày về. Có lẽ do bản năng sinh tồn,
dù dưới bất cứ hoàn cảnh nào, con người vẫn phải phấn đấu để sống còn. Và
chính những giây phút đen tối nhất của cuộc sống, người “tù cải tạo” đã gần gũi
với âm nhạc. Những bài ca phát xuất tự đáy lòng hàm chứa những cảm súc
của đời sống hiện tại, “đã là một lối thoát cho tinh thần, hầu giữ được thăng
bằng cuộc sống.”
Có vị cũng thắc mắc,
"trong hoàn cảnh sống như thế, làm sao có thể sáng tác, có thể ghi
nhớ?" Vâng, một số không ít những bài ca đã bị quên, hoặc nhớ không
trọn vẹn, sau một thời gian dài cùm xích, đầy ải trong phòng tối. Nhưng
cũng do môi trường sống và hoàn cảnh đặc biệt này đã thôi thúc tù nhân sáng
tác. Ta có thể nói, những bài ca này đã được viết ra bằng con tim và khối
óc, bằng máu và nước mắt. Do đó, mỗi bài ca đã mang theo một sắc thái,
một hoàn cảnh khác biệt, một câu chuyện khó quên của người “tù cải tạo”.
Sau ngày 30-4-1975, Thơ và Nhạc đã xuất hiện những sáng tác đặc biệt về
"tù đầy". Đặc biệt là vì những tác phẩm này không được ghi trên
giấy khi sáng tác, như những bài thơ và nhạc trong hoàn cảnh bình thường của
đời sống xã hội.
“Tù cải
tạo” không được phép lưu giữ giấy bút, sách vở và thường bị kiểm soát gắt
gao bởi cán bộ trại. Sự sáng tác vì vậy gặp rất nhiều khó khăn, nên
phương tiện duy nhất là ghi nhận bằng trí nhớ, và phải đợi khi có điều kiện mới
ghi lại trên giấy, thường là mặt trong của bao thuốc lá hay những tờ giấy trắng
còn lại sau lần viết bản tự khai. Những sáng tác này phải được cất
giấu cẩn thận, để tránh sự "phát hiện" của cán bộ trại mỗi khi khám
phòng, nhất là bọn "ăng-ten" thường xuyên theo dõi để báo cáo lập
công.
Nhìn
chung, những tác phẩm về thơ và nhạc sáng tác trong tù đã thể hiện nhiều khía
cạnh, gợi nhớ hình ảnh Saigon với nếp sống Tự do Dân chủ, một Saigon yêu thương
thuở trước, với viễn ảnh chia ly gia đình tan vỡ và trước cái chết tức tưởi của
các bạn tù đồng cảnh ngộ. Nhưng nổi bật nhất vẫn là tinh thần đấu tranh
bất khuất chống lại chế độ cộng sản bạo tàn và ý chí quang phục quê hương.
Người viết
không có tham vọng đi xa trong sinh hoạt này, mà chỉ muốn ghi lại những kỷ niệm
khó quên, ghi ơn các tác giả còn sống, hay những người đã nằm xuống trong một
hoàn cảnh bi thảm nhất của lịch sử dân tộc sau ngày 30-4-1975.
*
Về phía
nhạc đấu tranh có khá nhiều bài ca, dù ngắn nhưng hàm chứa tinh thần chống cộng
rất rõ rệt. Trước khi nghe lại bài “Đôi Giầy Dũng Sĩ” của anh Nguyễn Văn
Hồng, người viết xin được giới thiệu về anh.
Anh Nguyễn
Văn Hồng là Trung Úy thuộc đơn vị Pháo Binh của QL/VNCH, không trình diện
"học tập cải tạo" sau ngày 30-4-1975, bị bắt khi vượt biên. Anh đã di chuyển tới nhiều
trại. Tại miền Nam, từ trại Tân Hiệp chuyển tới trại A (Gia Rai-Long
Khánh) nằm trên đồi Phượng Vĩ, sau đó chuyển vào trại B. Sau một năm, anh
chuyển ra Bắc trên tầu “Sông Hương”, ngày 20/4/1977 tới trại Nam Hà (Hà Nam Ninh). Tại đây, anh đã sáng
tác bản nhạc “Đôi Giầy Dũng Sĩ”. Vào buổi sáng ngày 16/9/1977, toàn thể
“tù cải tạo” phân trại “A” Nam Hà đồng thanh hô vang nhiều lần “đả đảo cộng
sản” trước giờ lao động tại sân trại, để chống lại hành động đối xử tàn nhẫn
của cán bộ trại đối với anh em “tù cải tạo” bị bệnh nặng.
Bài ca này
được các bạn tù hưởng ứng ngày một lan truyền trong trại, đã thôi thúc ngọn lửa
đấu tranh trước bạo quyền. Khi sáng tác bài ca này anh chỉ có ước mơ nhỏ
bé, được là đôi giầy dưới chân lớp trẻ mai sau, đập tan xiềng xích, khôi phục
đời sống Tự do Dân chủ của Quê Hương. Chúng ta hãy nghe ước mơ của anh:
Đôi Giầy Dũng Sĩ
Này em,
ta không quên đâu những ngày tù đầy.
Này em,
ta không quên đâu những ngày tăm tối.
Này em,
ta không quên đâu mối thù từng
ngày.
Này em,
ta không quên đâu mối thù muôn đời.
Và dù
không là gì cả, cũng xin làm đôi giầy dũng
sĩ,
trở về
đạp nát tan kẻ thù.
Này em,
cha ông em chết trong ngục tù.
Này em,
thân nhân em đau buồn tang
chế.
Này em,
tương lai em vẫn còn mịt mù.
Này em,
quê hương ta vẫn còn nô lệ.
Và dù
không là gì cả, cũng xin làm đôi giầy dũng sĩ,
trở về
đạp nát tan xích xiềng.
Cho tôi
xin một lần gục ngã,
cho em
tôi suốt đời ngẩng mặt.
Cho tôi
xin một lần được chết,
cho quê
hương ngàn đời vinh quang.
Cho tôi
xin một đời nhọc nhằn,
cho em
tôi một đời hạnh phúc.
Cho tôi
xin một đời chiến chinh,
cho quê
hương muôn đời thanh bình.
Tác giả: Nguyễn Văn Hồng
(Toàn bản nhạc ghi trong phần chú
thích)
Vào những
tháng cuối năm, bầu trời Nam Hà ẩm mây và lạnh, nhiệt độ xuống thấp, người bệnh
càng nhiều. Sau khi ông Trần Thế Minh, nguyên Thượng Nghị Sĩ VNCH qua đời
bị ngộ độc vì thực phẩm, tình trạng sức khỏe “tù cải tạo” trong trại ngày càng
tồi tệ hơn. Qua khung cửa sổ sàn nằm trên, một phần khu trại hiện ra im
lìm bất động. Về phía cuối sân là trạm xá, một căn nhà nhỏ nghèo nàn tăm
tối. Ánh đèn dầu leo lét xuất hiện nơi trạm xá không đủ thắp sáng căn
phòng, trở thành huyền ảo vật vờ, như linh hồn kẻ xấu số còn vương vấn thân xác
giá lạnh.
Khi nhìn
thấy ánh đèn dầu leo lét nơi trạm xá, các bạn thường hỏi:
- “Có
người chết hả. Có biết ai không?”
Anh Thu
Tâm im lặng gật đầu. Vừa thương cũng vừa mừng cho người bạn mới ra
đi. Họ đã rũ sạch nợ đời. Không còn vướng mắc tình cảm quyến luyến
gia đình, mà tình cảm gia đình vốn là hơi ấm, một ánh lửa hy vọng cho người “tù
cải tạo” miền Nam. Không còn bị tủi nhục trước hành động hận thù của
đám cán bộ trại. Một hình ảnh khiến anh xúc động về số phận của bạn
tù. Cuộc đời của người “tù cải tạo” không còn thuộc về mình nữa, đã ở
ngoài tầm tay, có chăng chỉ còn lại quyền được chết. Trước cái chết thật
đơn giản, vội vàng, anh Thu Tâm đã sáng tác bản nhạc “Trên đồi Thu”, gợi nhớ
một khu đồi trồng mơ trong rừng Cúc Phương thuộc trại Nam Hà. Anh em “cải
tạo” gọi đó là “Đồi Thu”, nơi an giấc ngàn thu của “tù cải tạo” miền Nam, sau khi
đã trả xong món nợ máu cho đảng cộng sản và nhà nước “Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam
anh hùng”.
Trên Đồi Thu
Niềm đau
tới, buồn với thu sầu.
Chiều
thu ấy chấm đen đời nhau.
Còn đâu
nữa, vần vũ mưa
Ngâu.
Tia nắng
thu vàng héo hắt,
Xót xa
hoài cố nhân!
Sầu u
uất một kiếp lao tù.
Buồn tê
tái gió lay hồn thu.
Lạnh
hương khói Người đã phiêu du
Hay còn
lẩn quất vấn vương mối hận thù?
Ới
! Buốt đau lòng giá, héo hon tình đá,
lá rơi
mặc lá.
Người
xa, lòng ta hờn căm tím đôi môi
Máu ứa
tim sầu Nước, xót khung trời ước,
luyến
lưu từng bước.
Lặng nghe
hồn thu sầu khóc thu đau!
Vầng mây
trắng về núi xa nào.
Chờ ta
với cố vui lòng nhau.
Đồi
hoang vắng chuyển gió heo may.
Ôi ! cố
nhân đâu còn nữa,
Xót
thương mắt rưng sầu.
Tác giả: Thu Tâm
(Toàn bản nhạc ghi trong phần chú
thích)
Lời ca có
khi trầm hùng mang tâm tư uất nghẹn, có lúc man mác nhẹ nhàng như một hơi thở
ghi đậm nỗi ngậm ngùi. Tiếng đàn hòa lẫn tiếng gió rít “Trên Đồi Thu”
mang theo tiếng thì thầm của những người khóc bạn vào những chiều Thu vàng úa
thuở nào. Khởi đầu từ tháng 8, “Cách Mạng Mùa Thu”, đã mang
đau thương đến cho cả ba Miền đất nước, cho cả một dân tộc. Biết
bao nhiêu cái chết oan khiên của những người dân vô tội. Bao nhiêu thế hệ
tuổi trẻ phải hy sinh cho mục đích hoang tưởng trên đường nhuộm đỏ đất nước của
đảng CSVN, vì theo lệnh của cộng sản quốc tế Nga Tầu.
Bản nhạc
“Trên Đồi Thu” được bạn tù truyền nhau hát đã đến tai cán bộ. Ban giám
thị trại cho đây là lời tuyên truyền phản động, cần phải “phát hiện” người chủ
mưu. Đám “ăng-ten” được dịp báo cáo. Để tránh phiền phức cho các
bạn, anh Thu Tâm đã nhận mình là tác giả của bản nhạc. Nhưng cán bộ trại
không cho anh là người sáng tác bản nhạc này, vì anh vốn im lặng, sinh hoạt
không ồn ào. Ban giám thị tình nghi nhạc sĩ Vĩnh Lợi là tác giả của bản
nhạc này. (Trước năm 1975 anh Vĩnh Lợi là
tác giả của bản nhạc “Luyến Quê” phổ từ lời thơ của Giáo Sư Nguyễn Thành Vinh.)
Sau đó không lâu, anh Vĩnh Lợi đã rời khỏi trại. Mọi người không biết anh
bị chuyển đi đâu.
Để che mắt cán bộ trại, nhất là trong hoàn cảnh thiếu điều kiện soạn
những bài ca, anh Thu Tâm đã vẽ phím đàn dương cầm trên sàn xi măng dưới chiếu
nằm. Nhiều bản nhạc ra đời, trong đó có bản “Trên đồi Thu”. Vào
những ngày cuối tuần, bầu trời mùa Đông ảm đạm, anh Thu Tâm ngồi bên “phím đàn
dương cầm” trong khi anh Trần Đình Lục để tấm bìa trên vai trái, tay phải cầm
đũa, như đang xử dụng “Vĩ cầm”. Mọi người chứng kiến hình ảnh hai người
bạn với những điệu bộ như đang du hồn vào thế giới âm thanh. Mỗi lần anh
Thu Tâm đưa tay ra phía trước như dòng nhạc vừa sang trang, anh trần Đình Lục
cũng có một hành động tương tự. Âm hưởng của dòng nhạc như đã thấm đượm
vào tâm tư mỗi người đang trình diễn.
Anh Thu
Tâm bị bắt vào những ngày đầu tháng 5-1975 và bị đưa ra miền Bắc vào tháng
6-1975 trong một chuyến bay đặc biệt đáp xuống sân bay Gia Lâm, Hà Nội, trong
đó có một vị Tướng lãnh VNCH với sự hiện diện của Tướng Hoàng Cầm (quân đội
miền Bắc). Anh đến trại Nam Hà rất sớm. Anh dự phần đào giếng nước
ngay cổng trại chính, cũng như xây dựng khu B để có chỗ cho người viết và các
bạn tù tới ở sau này.
Anh Thu
Tâm đã ghi lại sự xúc động tột cùng của những người còn ở lại, tiếc thương đưa
tiễn những người bạn ra đi đến nơi chốn tận cùng của một kiếp người.
Hình ảnh tiễn đưa bạn đến nơi an
nghỉ “Trên Đồi Thu”, cũng được bạn tù diễn tả qua lời thơ:
Hai tên
cầm súng bước đi đầu
Tên nữa
AK tiếp phía sau
Một xác
bó tròn đôi manh chiếu
Hai đầu
buộc chéo bốn giây lau
Không
kèn, không trống, không đưa tiễn
Chẳng
khói, chẳng nhang, chẳng nguyện cầu
Chỉ có
bạn tù khiêng lặng lẽ
Vùi nông
một khối hận thù sâu.
Hình ảnh ngày xum họp gia đình đối với “tù cải
tạo” miền Nam chỉ còn là một giấc mơ. Mỗi lần đi ngang qua dẫy núi
đá vôi gần trại trên đường tới rừng Cúc Phương, mọi người đều ngẩng nhìn tảng
đá hình con rùa nằm nơi lưng chừng núi, nói với nhau:
-
“ Bao giờ con rùa đá bò lên đến đỉnh núi thì chúng ta được về”.
Vào những
buổi chiều mùa Đông giá lạnh, sương mù mờ mịt phủ xuống vùng núi rừng trại Nam
Hà. Khi đi qua chuồng dê, một người bạn tù trẻ tuổi của người viết, bị ám
ảnh bởi tiếng gọi dê về chuồng. Tiếng gọi: “Dê ơi! Về đi…Về đi…” mà
hai chữ cuối kéo dài, tạo ra một chuỗi âm thanh vang vọng trong không gian vắng
lặng buồn tẻ. Anh nghĩ đến thân phận của một kiếp người, của một dân tộc
thật thê lương. Anh đã ghi lại những ưu tư, trăn trở về nỗi đau của dân
tộc trước họa cộng sản qua lời ca:
Trâu Về Đi
Trâu về
đi! Tiếng ai vẳng trên đồi vắng,
tiếng ai
vẳng vào trong hồn
từng
chiều xuống nghe buồn tênh
như
tiếng thở than?
Nức nở
âm thầm mang nỗi khổ
ai gọi
ai đi về với nỗi buồn lê thê
với
chuỗi ngày tháng dài u mê?
Ngày lên
cao này chất thêm sầu lao đao
để tiếng
kêu gào
Còn mãi
như vào xa xôi theo tiếng thở dài!
Trâu về
đi. Trâu về đi.
Tiếng ai
vẳng trên đồi vắng?
Tiếng ai
vẳng vào trong
hồn,
từng chiều xuống nghe buồn tênh, như
tiếng hờn oán?
Nức nở
như còn mang nỗi khổ
Bao đời
bao oan hồn. Ôi nỗi lòng quê
hương.
Với
chuỗi ngày tháng đầy thê lương!
Người xa
nhau người chất thêm sâu thương đau
để tiếng
kêu gào vọng mãi đi vào mai sau
theo
tiếng thở dài: Trâu về đi!.. Trâu về đi!... Về đi!...
Tác giả: Cuồng Sĩ Thanh Cẩm (Toàn
bản nhạc ghi trong phần chú thích)
Với
tâm tư của tác giả trong lời nhạc cũng như lòng bất khuất trong cuộc sống…danh
xưng “Cuồng Sĩ Thanh Cấm” được anh Nguyễn Cao Quyền mến tặng khi tác giả tới
trại Thanh Cẩm, lưu lại như một kỷ niệm với các bạn tù, đã cùng nhau san sẻ
những niềm vui hiếm hoi trong quãng đời nhiều cay đắng.
Song song
với những bản nhạc diễn tả thực trạng về đời sống cũng như tâm tư người “tù cải
tạo” trại Nam Hà, những vần thơ cũng nói lên sự khốn cùng và đời sống khắc
nghiệt ở đây.
Sang một hướng khác, người viết xin
được nói đến anh Dương Khắc Đệ, bút hiệu “Dương Tử”, nguyên là Trung Tá
thuộc Bộ Tổng Than Mưu Quân Lực VNCH, một nhà thơ, một bạn tù khả kính
của anh em trại Nam Hà. Anh đã xuất bản tập thơ “Con Đường Cải Tạo” tại
Hoa Kỳ, trong đó ghi lại một chuyện tình thoáng qua, mà người viết có cảm
tưởng, ý thơ đã nói lên tình cảm yêu thương tha thiết của người trong cuộc,
vượt qua một hoàn cảnh thật khắt khe. Một sự chọn lựa hợp với tình người,
mà “chủ thuyết hoang tưởng cộng sản” hiện nguyên hình là một thứ bánh vẽ, không
còn là nhu cầu cấp thiết của người dân miền Bắc.
Để thực
hiện cuốn phim tài liệu “Tình Và Tội”, đoàn điện ảnh Trung Ương thuộc Bộ Nội Vụ
Hà Nội, đã tới trại Nam Hà để quay phần chính của cuốn phim. Khu lò rèn
đã trở thành nơi thu hình, với sự có mặt của vài anh em “tù cải tạo” miền Nam. Nội dung cuốn phim diễn tả một tù hình sự tên “Bờ”
rèn một con dao với dụng ý giết nhân viên an ninh trại để vượt ngục. Diễn viên
chính do một nam công an và vai nữ do công an Thanh Vân đóng vai người tình của
Bờ.
Việc thâu
hình diễn tiến đều, nhưng một “chuyện tình” bên lề cuốn phim đã xẩy ra.
Nữ diễn viên Thanh Vân rất trẻ đẹp đã có cảm tình với một “tù cải tạo” miền Nam. Họ quen nhau trong một trường hợp khá đặc
biệt. Nhân một buổi anh “cải tạo” đến khu thợ may của trại, mượn kim chỉ
để khâu chiếc khuy áo tù sút chỉ. Trong khi đó nữ diễn viên Thanh Vân
cũng ghé chỗ thợ may. Thấy anh cải tạo lóng ngóng khâu chiếc khuy áo, cô
liền cầm lấy mũi kim đính giùm anh khuy áo. Họ đã trao đổi nhiều lần
trong thời gian đoàn quay phim thâu hình ở trại Nam Hà. Câu chuyện khá
dài. Trong tác phẩm “Con Đường Cải Tạo” anh Dương Tử chỉ ghi lại một đoạn
đối thoại ngắn giữa hai người:
- “Khi nào
anh được tha về, nhớ ghé Hà Nội vào nhà Vân chơi.”
- “Biết đến bao giờ, và nếu có ngày ấy, thì biết có ai tiếp mình không
mà
ghé?”
-“Tại sao không…”
-“Bởi vì:
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”
………
Anh “cải
tạo” đã tìm đến anh Dương Tử, nhờ anh làm một bài thơ để gửi cô diễn
viên. Anh Dương Tử tâm Sự: “Tôi cảm thấy mình quá già và mòn mỏi vì cảnh
tù đầy, con tim đã khô héo, đâu còn rung cảm mà làm thơ tình với tâm sự của
người khác. Thế nhưng, anh bạn tù là một sĩ quan trẻ tuổi rất khéo nói,
khiến tôi không nỡ từ chối, đành phải mượn hai câu thơ của Hàn Mặc Tử làm khởi
dẫn để viết cho anh bạn bài thơ với tựa đề:
Không Quen (*)
“Ngày
mai trong đám xuân xanh ấy
“Có kẻ
theo chồng bỏ cuộc chơi.
Hàn Mặc Tử
Và ngày mai ấy, ngày mai ấy
Mây vẫn
ngàn phương lững thững trôi
Vẫn quá
vô tình đâu biết tới
Một cánh
chim sa ở cuối trời…
Bao lần
khuy đã sút rồi
Bao lần
để đó cho người vá may
Hương
thừa còn một chút này
Để dành
sưởi ấm chuỗi ngày cô đơn
Để còn
giữ mãi trong tâm tưởng
Hình ảnh
ai kia, nút áo này
Để qua
song sắt khi chiều xuống
Lặng thả
hồn theo bóng dáng mây
Đường
kim mũi chỉ, ai may?
Còn in
dáng dấp bàn tay ngọc ngà
Áo tôi
sút chỉ đường tà
Nhưng
mây xanh đã phiêu du phương trời
Và ngày
mai ấy, Thanh vân hỡi!
Em có
bao giờ chạnh nhớ tôi?
Nhớ về
khung cảnh “Tình và Tội”
Thầm
nhủ: “Còn chăng bóng một người?”
Mây đi
chẳng hẹn tái hồi
Em đi
chẳng hẹn cùng tôi tương phùng
Đếm bao
nhiêu lá trên rừng
Bấy
nhiêu lần ấy, tôi từng nhớ em
Tôi xin
giữ chút duyên tri ngộ
Làm hành
trang cho nửa cuộc đời
Nửa cuộc
đời, nắng mưa, sương gió
Kỷ niệm
này mãi sống trong tôi
Và ngày
mai ấy Vân ơi!
Nếu sang
sông, bỏ cuộc chơi nửa vời
Tình cờ
em có gặp tôi
Hãy coi
như gặp một người…Không quen.
* Dương Tử: Con Đường Cải Tạo
(trang 187)
Sau khi
bài thơ “Không Quen” được trao đi, anh Dương tử cũng không để ý tới chuyện tình
của người bạn tù. Nhưng sau một thời gian, anh bạn tù tới cho hay, cuốn
phim “Tình Và Tội” bị hư một đoạn, đoàn
quay phim phải trở lại trại Nam Hà. Mặc dù diễn viên Thanh Vân không phải
đi chuyến này, nhưng cô tình nguyện trở lại đây. Cô đã cho anh bạn “cải
tạo” hay, một nhóm nam diễn viên vì ghen tức đã báo cáo cô quan hệ với “tù cải
tạo”, nên cô bị đình chỉ công tác và phải trở về Hà Nội. Anh “cải tạo”
năn nỉ anh Dương Tử viết cho anh một bài thơ, gọi là tạ lỗi với nàng đã vì anh
mà liên lụy.
Bài thơ
thứ hai mang tựa đề “Xin Một Lời Quên” được trao cho Thanh Vân.
Xin Một Lời Quên (*)
Buổi ban
đầu ấy, mới làm quen
Tôi đã
từng đêm, thức trắng đêm
Máu
tưởng bao năm tù đã lạnh
Bỗng
bừng nóng lại, trở về tim
Đêm nay
tôi lại thức thâu đêm
Nghe
tiếng mưa rơi lạnh dưới thềm
Mà tưởng
giọt sầu trinh nữ ấy
Lần đầu
nhỏ xuống khóc tơ duyên
Biết thế
thà rằng tôi chẳng quen
Thà đem
chôn chặt nỗi niềm riêng
Vùi sâu
tình cảm trong tâm thức
Đâu để
cho em phải luỵ phiền
Tôi biết
vì tôi lụy đến em
Và vì
tôi cũng quá vô duyên
Muốn bầy
giãi hết, không ngôn ngữ
Biết nói
gì hơn một tiếng “xin”
Cho tôi
xin được gọi tên em
Dù rất
âm thầm trong trái tim
Xin được
nói lên lời tạ lỗi
Và xin,
xin cả một lời …Quên.
Chuyện
tình bên lề cuốn phim “Tình Và Tội” còn rất dài, đã ảnh hưởng tới tâm tư những
người trong cuộc nhiều năm sau này. Mặc dù anh Dương Tử chỉ ghi lại
chuyện tình của một bạn tù, nhưng trong ý thơ của anh, đã diễn tả đậm nét về sự
chọn lựa giữa tình người và ý thức hệ, vượt lên trên định kiến một chiều của xã
hội cộng sản.
*
Xin cám ơn
các tác giả đã đóng góp tâm huyết trong dòng “Thơ & Nhạc” tù đầy từ sau
ngày 30-4-1975.
Xin
nghiêng mình trước những tác giả đã yên giấc ngàn Thu. Vì lý tưởng Tự do,
Dân chủ của dân tộc, vì quyền sống của con người đã lưu lại tấm gương sáng đầy
quả cảm bất khuất, không sờn lòng trước đe dọa áp bức, cực hình, đầy ải thật
tàn nhẫn trong ngục tù của CSVN.
“Nhạc
Vàng” không những chỉ lưu truyền tại miền Nam, mà còn lan tràn xâm nhập các sinh hoạt tại miền Bắc.
Do đó, ta có thể nói, văn hóa miền Nam đã không bị nhà nước cộng sản Hà Nội tiêu diệt, mà trái lại
nền văn hóa này còn tiếp tục ngự trị trong sinh hoạt dân chúng, bất kể miền Bắc
hay miền Nam. Văn hóa miền Nam khơi dậy tình cảm yêu thương, gắn bó của dân tộc, đã xóa tan
ảnh hưởng của những bài ca “cách mạng”, vốn vay mượn cấu trúc của âm nhạc Trung
Hoa.
Song song
với các tác phẩm “Văn, Thơ và Nhạc” đã xuất bản, những tác phẩm Thơ và Nhạc
sáng tác trong thời gian tù đầy, ghi lại một giai đoạn đen tối nhất của lịch sử
dân tộc sau ngày 30-4-1975, đã để lại đời sau như một nét chấm phá trong kho
tàng văn học Việt Nam.
Trần Nhật Kim
Falls Church, Virginia.
***
Chú thích:
Trại Nam Hà: Trại cải tạo Nam Hà nằm trong xã Ba Sao, huyện
Kim Bảng, tỉnh Hà-Nam-Ninh (tên gộp 3 tỉnh).
Từ thành phố Phủ Lý, qua cầu Hồng
Phú, theo quốc lộ 21 độ 15 Km,
trên đường đi Chi Nê, Hòa Bình là tới xã Ba Sao. Trại Nam Hà ‘A’ nằm bên
bờ đầm, một vùng ngập nước với những núi đá cao (nên trại Nam Hà còn được gọi
là trại Đầm Đùn từ thời Pháp thuộc). Đầm Tam Chúc thuộc xã Ba Sao, huyện
Kim Bảng, cách thị xã Phủ Lý khoảng 12 Km, tiếp giáp với Hòa Bình và Hà Tây, cách Hương Sơn 3Km đường núi. Diện tích đầm
khoảng 600
ha.
Trại Nam Hà cũng được gọi là trại
Ba Sao. Danh từ “Ba Sao” có lẽ được dịch ra từ nhóm chữ “Les trois
Étoiles = Ba Sao”, còn nhận được phần nào do chữ còn lưu lại trên khung lưới
sắt bắc ngang trên đầu trụ gạch trước khi vào trại. Nơi đây là một khu
đồn điền trồng cà phê có từ thời Pháp.
Xã Ba Sao trở thành thị trấn của
huyện Kim Bảng, có diện tích 34,76 Km2. Quốc lộ 21 đi qua xã Ba Sao
tới Chi Nê (Hòa Bình) và rừng Cúc Phương.
Tọa độ: 20o 32’ 28”
B - 20o 54’
11” B
105o 47’ 51” Đ - 105o 79’
75” Đ
Thị trấn Ba Sao gồm 16 xã: Đại
Cương, Đồng Hóa, Hoàng Tây, Khả Phong, Lê Hồ, Liên Sơn, Ngọc Sơn, Nguyễn Úy,
Nhật Tân, Nhật Tựu, Tân Sơn, Thanh Sơn, Thi Sơn, Thụy Lôi, Tượng Lĩnh và Văn
Xá.
Huyện Kim Bảng:
Từ
đời nhà Trần trở về trước gọi là
Cổ Bàng thuộc châu Lỵ Nhân, thuộc lộ Thiên Tường. Năm Quang Thuận 7
(1446), triều đình bỏ tên Trấn đặt là Thừa Tuyên. Năm Quang Thuận 10
(1469), vua Lê Thánh Tông cho đổi tên Thiên Trường thành Sơn Nam, Kim
Bảng thuộc Thừa Tuyên Sơn Nam. Năm Hồng Đức 21 (1490), triều đình đổi
tên Thừa
Tuyên thành Xứ. Năm Cảnh Hưng 2 (1741), triều đình bỏ tên Xứ đặt thành
Lộ, chia Sơn Nam thành 2 Lộ. Đời Tây Sơn (1788-1802), Kim Bảng thuộc
trấn Sơn Nam Thượng.
Năm Minh Mạng 13 (1832), triều đình
thành lập tỉnh Hà Nội. Kim Bảng và phủ Lý Nhân thuộc Hà Nội. Tỉnh
Hà Nội có 4 phủ: Hoài Đức, Ứng Hòa, Lý Nhân và Thường Tín. Tỉnh lỵ
là thành Thăng Long cũ. Sau Hiệp Ước Patenotre, Tổng thống Pháp ra sắc
lệnh thành lập thành phố Hà Nội. Ngày 1 tháng 10 năm 1888, vua Đồng Khánh
ra đạo dụ nhượng cho Pháp thành phố Hà Nội. Ngày 26-12-1896, tỉnh Hà Nội (phần còn lại) chuyển tỉnh lỵ về Cầu Đơ, đến
ngảy 3-5-1902 đổi tên thành tỉnh Cầu Đơ. Năm 1904 tỉnh Cầu Đơ đổi
thành tỉnh Hà Đông.
Dưới
đời Thành Thái 2 - 1890, tỉnh
Hà Nam được thành lập từ một số huyện của Hà Nội và Nam Định (lấy tên Hà
của Hà Nội và Nam của Nam Định). Phủ Lý trở thành tỉnh lỵ của Hà Nam.
Giai đoạn tứ 1965-1996, tỉnh Nam Định sát nhập với tỉnh Hà Nam thành “Nam Hà”, sau đó sát nhập với tỉnh Ninh Bình thành
“Hà Nam Ninh”. Từ tháng 1-1997, tỉnh Hà Nam được tái lập như trước đây. Thị xã Phủ Lý thuộc tỉnh
Hà Nam.
Thị xã Phủ lý nằm trên quốc lộ 1A,
bên bờ phải của sông Đáy. Phủ Lý cách Hà Nội 60Km, cách thành phố Nam Định 30 Km,
cách Ninh Bình 33 Km.
Phủ Lý là nơi gặp nhau của 3 con sông: sông Đáy, sông Châu Giang và sông Nhuệ.
Rừng Cúc Phương
là một khu rừng nằm trên địa phận ba tỉnh: Ninh Bình, Hòa Bình và Thanh Hóa với
tổng số diện tích 22.200 ha. Trong đó:
Tỉnh Ninh Bình: 11.350 ha.
Tỉnh
Thanh Hóa: 5.850 ha.
Tỉnh Hòa Bình: 5.000 ha
“Rừng Cúc Phương” trở thành “Vườn Quốc Gia” từ năm 1966.
Tọa độ của rừng Cúc Phương: Từ: 20o 14’ tới 20o 34’ bắc vĩ tuyến105o 29’
tới 105o 44’ đông kinh tuyến