Tôi đọc tác phẩm “Human Destiny” của tác giả Pierre
Lecomte du Nouy (1883-1947) khi còn nhỏ, ở tuổi mà các cụ thường nói: “ăn chưa
no, lo chưa tới”, chưa có một chút ý thức, kinh nghiệm nào về cuộc đời, nên hai
chữ “Số Mệnh” cứ ám ảnh tôi mãi.
Nhiều người không tin là có số mệnh, cho rằng đó chỉ
là sự may rủi xẩy ra từng giai đoạn trong cuộc sống chìm nổi của con người. Trong thế kỷ vừa qua, nhờ khoa học tiến bộ, ở
nhiều điểm, đã thay đổi quyền năng của tạo hóa.
Các quan niệm về số mệnh bị cho là huyền hoặc, đã lui vào quên lãng.
Tôi đã tự hỏi: liệu con người có “số mệnh” không. Lấy gì minh xác cho sự hiện hữu của định luật
này, khi mà con người bị ràng buộc, dập vùi bởi vận nước nổi trôi. Nhất là dưới chế độ cộng sản, vì theo thuyết
duy vật biện chứng, chỉ chú trọng về phần vật chất, đã gạt bỏ phần duy
tâm.
Mặc dù bán tin bán nghi vào hai chữ số mệnh, nhưng lời
đoán của bác Đạt lại đúng vào trường hợp của tôi sau ngày 30-4-1975. Tôi đã phải ra khỏi “nhà ở” để bước vào “nhà
tù”.
*
Tình hình mỗi lúc thêm căng thẳng. Tôi có cảm tưởng vòng vây ngày một xiết chặt
hơn, nên chỉ tới chỗ hẹn vào khi thật cần thiết. Nỗi lo âu thoáng hiện trên nét mặt vợ tôi,
như linh cảm một điều gì bất thường sẽ xẩy ra.
Nàng khóc mỗi lần tôi ra khỏi nhà và đợi cửa khi tôi về trễ. Tôi nhớ mãi gương mặt nàng đầm đìa nước mắt,
lời nói nghẹn ngào: “Anh nỡ bỏ mẹ con em.
Nếu anh không trở về thì mẹ con em biết làm sao đây!” Những giây phút này lòng tôi chùng xuống. Tôi thương xót vợ con nhưng không thể dừng lại,
tôi đã nợ những người yêu thương của tôi, mà bổn phận phải có trong lúc dầu sôi
lửa bỏng. Chúng tôi bị lôi cuốn vào một
cuộc chiến mới, với mong mỏi giành lại đời sống tự do dân chủ vừa bị chiếm đoạt.
Cha tôi thấy rõ sự ưu tư của tôi nên rủ tôi đến thăm
bác Đạt, một người bạn thân của ông nghiên cứu về khoa tướng số. Nhà bác trong con hẻm đường Trần Quang Diệu,
gần ngã tư Trương Minh Giảng, để xem số tử vi.
Sau khi xem lá số tử vi, bác suy nghĩ lung lắm. Bác bấm đốt ngón tay nhiều lần. Đầu bác hơi cúi xuống. Mái tóc và hàm râu dài trước ngực bạc trắng,
phất phơ theo hơi gió của chiếc quạt trần.
Cha con tôi im lặng. Bác không
nói một lời hay có một cử chỉ nào có thể khuấy động sự tĩnh lặng của căn
phòng. Tôi có cảm tưởng một cánh ruồi
bay ngang cũng dễ bị phát hiện.
Bác chợt ngẩng đầu quan sát nét mặt tôi, nhíu mày như
điều vừa phát hiện rất quan trọng, có thể làm thay đổi hoàn cảnh một cuộc đời,
nhất là ở vào thời điểm hiện tại, khi sinh mạng con người đã kém phần giá trị.
Bác tính tới tính lui.
Ngón tay trỏ của bác kéo theo đường chéo các giây cung, rồi dừng lại ở
cung “Mệnh”, nhẩm tính về đại hạn. Tôi
nghe bác nói thầm: “Thiên tướng gặp phục
binh…” Đến đây tôi thấy bác gõ đầu
ngón tay trỏ xuống lá số ở vị trí cung “Mệnh”, mắt nhìn về phía trước như không
thấy cha con tôi, mà dường như bác nhìn sâu vào suy tư của bác. Bác tính lại một lần nữa để đảm bảo lời sắp
nói không lầm lẫn. Bác nhìn cha tôi rồi
quay qua tôi nói:
- “Cháu không thể tránh được nữa. Cháu bị bắt trong tháng này.”
Dù không mấy tin tưởng ở khoa tướng số, nhưng vào thời
của tôi, trang lứa của tôi, ít nhiều cũng bị ám ảnh bởi hai chữ “số mệnh”, nhất
là khi con người bị xô đẩy, dập vùi trong một cuộc chiến huynh đệ tương tàn suốt
30 năm tang tóc. Chiến tranh ngày càng
khốc liệt, khiến mệnh số cũng theo đà trở lên khó giải thích.
Nhiều khi tôi tự hỏi có phải con người bị ràng buộc bởi
số mệnh không. “Sinh Bắc Tử Nam” là mệnh
số hay chỉ là một sự lường gạt, một lời nguyền cho một mục đích hoang tưởng, để
phải hy sinh oan uổng mà kết quả đã đưa dân tộc tới chỗ phí phạm máu
xương. Vận nước xui xẻo, miền Nam đổi đời,
đất nước lại thêm một lần chìm đắm trong đau thương, tan nát. Có phải đã tới lúc ứng vào lời Sấm của Trạng
Trình, để đất nước này phải rơi vào kiếp nạn “chết bẩy còn ba…”
Cha tôi chợt hỏi bác Đạt:
- “Anh
xem mệnh cháu thế nào?”
Tôi chia xẻ với nỗi ưu tư của cha tôi. Ở vào lớp tuổi “Cỡi hạc về trời”, với vận nước
nổi trôi, ông đã chịu nhiều cay đắng trong cuộc đời. Đối với ông, còn người thì còn của. Một người cha luôn mong muốn con cháu mình được
hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
Nét mặt bác Đạt trở lên bình thản như biết trước câu sẽ
hỏi. Bác chậm rãi trả lời:
- “Anh
yên tâm. Mệnh nó vững. Không thể chết được. Nó sẽ trở về…”
Tôi chợt suy nghĩ, lấy gì bảo đảm cho mạng sống khi mà
có nhiều cái chết oan khiên đang xẩy ra trên mảnh đất này. Chỉ cần gán cho một tội danh “Phản động chống
cách mạng” là một kiếp người dễ dàng bị xóa bỏ, mặc dù các nạn nhân chỉ đòi lại
quyền tự do, quyền sống của con người vừa bị chiếm đoạt. Hay chỉ cần khoác vào cổ nạn nhân một tấm bìa
với hàng chữ “Trộm cướp” viết vội vàng, là có thể bắn bỏ. Nạn nhân không thể biện minh. Mặc dù người đại diện của chế độ mới, được luật
pháp của guồng máy mang danh “cách mạng” này, biến đổi thành kẻ có quyền, có lẽ
phải, mà không lâu trước đây trước khi chiếm miền Nam, họ là những tên khủng bố,
cướp của giết người, phá hoại đời sống an lành của người miền Nam.
Sau tuần trà, cha con tôi cáo từ bác Đạt. Tôi suy nghĩ về điều bác nói. Bây giờ công việc mới ở giai đoạn đầu, thời
gian còn lại đối với tôi quá ngắn ngủi.
Sài Gòn đang lên cơn sốt. Người
dân miền Nam nóng lòng chờ đợi một cơ may thay đổi để trở về nếp sống cũ, sống
lại khung cảnh xưa. Nhân dân miền Nam
đang một lòng chống cộng. Nhiều cán bộ
cao cấp CS bị thanh toán ngay giữa thành phố.
Chính quyền CS gia tăng khủng bố, đàn áp, tù đầy những người chống cộng. Vụ nhà thờ Vinh Sơn vừa kết thúc lại tới vụ
Song Vĩnh, Phước Tuy. Vì “bắt lầm chứ
không tha lầm” nên mặc dù nhà tù mọc lên như nấm, nhưng trại giam vẫn không còn
chỗ trống.
Tôi tự hỏi, tại sao có nghĩa cử này, nhất là ở vào
giai đoạn đầy nguy hiểm, mạng sống treo đầu sợi tóc. Bất kể nam nữ, già trẻ, kẻ trước người sau vẫn
một lòng hy sinh. Có phải vì lòng yêu mảnh
đất tự do miền Nam, nơi họ đã đổ mồ hôi và nước mắt, đã hy sinh máu xương để được
sống những ngày hạnh phúc. Con đường trước
mắt thật chông gai nhưng họ vẫn dấn thân.
Không phải vì chút hào quang bên ngoài, cũng không phải để tô son điểm
phấn cho khuôn mặt hay đánh bóng một cái tên, mà chỉ muốn bảo vệ khát vọng tự
do, duy trì nếp sống dân chủ trong lòng người miền Nam, mà chế độ cộng sản
không thể nào lay chuyển, thay thế.
Thấm thoát hơn 30 năm trôi qua, tôi đã qua tuổi “lập
thân”, có vợ và 5 đứa con nhỏ. Trên đường
về sau khi rời nhà bác Đạt, tôi nói với cha tôi:
- “Nếu
con gặp chuyện không may, xin bố mẹ giúp đỡ nhà con và coi chừng các cháu.”
Cha tôi không nói.
Ông nắm chặt bàn tay tôi. Bàn tay
ông xương xẩu, nhưng tôi vẫn có cảm giác như hồi còn nhỏ, khi bàn tay của tôi nằm
gọn trong lòng bàn tay ấm áp của ông. Tôi
đã được bàn tay này ôm ấp vỗ về. Cũng
chính từ lòng yêu thương phụ tử, tôi đã có những bài học làm hành trang cho cuộc
đời. Vào lúc này, tôi hiểu lòng ông đang
chua xót. Ông đoán biết tôi sẽ bước vào
con đường gian truân mà ông đã đi qua khi còn trẻ.
Hình ảnh “đổi chỗ” như lời đoán luôn theo đuổi, ám ảnh
tôi. Rồi cái phải đến đã đến, chưa qua hết
những ngày cuối cùng của tháng giêng. Đối
với tôi nó đến quá sớm, tôi không kịp trở tay.
Chỉ có điều họ làm tôi hơi dật mình khi tôi bước tới trước cổng nhà. Hai người đàn ông nhẩy ra từ trong bóng tối
sau chiếc cột đèn, mà vì tiết kiệm săng dầu nên con ngõ không được thắp sáng
như trước đây. Họ kê súng vào hai bên sườn
bắt tôi dơ tay, đứng im. Biết tôi không
phản ứng như đã từng gặp, một người đứng xa hai tay hờm súng như sẵn sàng nhả đạn,
còn người thứ hai khám người tôi không bỏ sót chỗ nào.
Họ đẩy tôi vào nhà.
Trong nhà đông nghẹt người, gồm những bộ mặt tôi chưa từng gặp. Họ đến nhà tôi với đầy đủ súng ngắn súng dài,
thêm vẻ uy nghi của đám người với sắc mặt đằng đằng sát khí như muốn ăn tươi nuốt
sống người đối diện. Một người cầm súng
đứng chắn nơi cửa ngăn phòng khách với phòng trong để không cho ai ra ngoài
phòng khách.
Cha tôi ngồi im lặng sau bàn viết nơi phòng
khách. Mẹ tôi đang thấm khô những dòng
nước mắt. Vợ tôi bật khóc lớn khi thấy
tôi vào nhà, như không cầm giữ được nỗi thống khổ tuyệt vọng trong tâm nàng
trong thời gia qua, đã có dịp bộc lộ trong giờ phút này. Tiếng khóc pha trộn tiếng nấc uất nghẹn như tất
cả đều sụp đổ. Tôi nhìn nét mặt thất vọng,
đau thương của nàng, gợi nhớ gương mặt nhạt nhòa nước mắt mỗi lần tôi về trễ. Tôi thông cảm sự lo âu của nàng, có thể tôi
không trở về sau mỗi lần hẹn. Nhưng đành
vậy. Chúng tôi đã chọn con đường này,
đang bị cuốn lôi trong cơn lốc lịch sử, mà sự sống và cái chết thật mong manh.
Tôi chợt nhận ra lá cờ vàng ba xọc đỏ còn mới, gấp gọn
để trên bàn kính trước mắt cha tôi. Lòng
tôi thật chua xót. Một biểu tượng của đời
sống tự do dân chủ mà nhân dân miền Nam đã hết lòng bảo vệ. Hàng triệu người miền Nam đã nằm xuống, máu
và nước mắt đã nhuộm thắm mầu cờ, đã thấm ướt giải giang sơn gấm vóc này. Nhưng vào giờ phút này lại là bằng cớ minh
xác hành động chống chế độ cộng sản của tôi.
Cũng từ giờ phút này tôi thực sự đối mặt với kẻ thù.
Tôi đứng dậy nghe đọc lệnh bắt giam với danh xưng “Đầu
não tổ chức phản động”. Tôi nhìn mọi người
thân yêu trong gia đình mà sự phân ly đã cận kề. Họ dục tôi đi. Vợ tôi bật khóc lớn, các con tôi khóc
theo. Mẹ tôi luôn tay lau nước mắt như
dòng lệ tuôn chẩy không ngừng. Tôi nhìn
bà lòng đầy thương xót, cả đời bà hy sinh cho chồng con, không kể tới thân
mình. Mà bây giờ vào hoàn cảnh này, đã gợi
nhớ hình ảnh chua xót nơi tâm tư bà. Các
em tôi ngơ ngác. Tôi quay nhìn người
thân lần chót. Có thể tôi không còn cơ hội
trở lại nơi chốn thân yêu này.
Thật trớ trêu. Cũng chỉ một chữ “Nhà”. Tôi vừa rời “Nhà ở” để chuyển tới đến chỗ ở mới:
“Nhà tù”. Mội nơi không xa “nhà ở” của
tôi bao nhiêu. Tôi được gán cho danh
xưng “đầu não”, là người quan trọng, nên cách đón tiếp cũng đặc biệt bằng một
xe hơi hiệu Peugoet 404 còn mới. Ngồi cạnh
tài xế là một người trung niên, vẫn giữ im lặng khi tới nhà tôi, mà sau này tôi
mới biết là đại diện công an Thành phố.
Hai bên tôi là cán bộ an ninh quận Bình Hòa và Phú Nhuận. Phía trước là xe Jeep có võ trang không kể
hai xe Honda có võ trang kèm bên xe. Quả
là một cuộc đón tiếp trang trọng với “tiền hô hậu ủng”.
Trái với hình thức đưa đón trang trọng vừa qua, khi tới
trại giam Băng Ky, Bình Hòa, tôi bị đẩy vào căn phòng tối đen, mùi cống hôi nồng
nặc đến ngộp thở với chiếc còng số 8 xiết chặt, kéo hai tay ra sau lưng. Tiếng cửa sắt đóng mạnh phía sau với âm
thanh chát chúa của chiếc bản lề cũ đã rỉ sét.
Trời cuối năm quá tối, tôi không biết phía trong kia có những ai. Bất chợt một giọng nói của người đàn ông từ
phía trong, giọng nói hơi khó nghe vì âm vang của căn phòng kín:
- “Bác vừa
bị bắt?”
Tôi trả lời”
-
“Vâng. Vừa từ nhà tôi tới đây.”
- “Tôi vừa
bấm quẻ. Bác tới giờ này hên lắm. Mọi thứ sẽ xuông xẻ…”
Qua giọng nói, tôi không biết là ai, già hay trẻ. Ngày hôm sau gặp mặt, tôi mới biết đó là bác
Nam Kinh, người bấm quẻ hôm qua, có Nguyễn Tiến Đạt mà sau này cùng với tôi dắt
díu nhau ra Bắc.
Lời đoán tử vi của bác Đạt còn đang nóng hổi, bây giờ
lại thêm một lần bấm quẻ. Bác Đạt cho
hay mệnh tôi vững dù gặp nhiều thăng trầm.
Còn lời bấm quẻ cho biết tôi sẽ gặp hên vào những ngày sắp tới. Chưa có gì để chứng tỏ về “vận hên” khi những
nguy cơ đang dồn dập tới.
Sau nhiều ngày tháng bị đầy ải trong phòng kỷ luật, một
căn phòng mỗi chiều vài bước chân với chân cùm tay xích. Sờ đâu cũng chỉ thấy bóng tối, một thứ bóng tối
bồng bềnh sương khói, gây ảo giác mơ hồ, một thứ ảo giác dễ làm tinh thần suy sụp. Mọi vật chìm trong bóng đêm, ngăn cách với sự
sống bên ngoài. Nếu không có đàn muỗi
đói xúm quanh hay cảm giác xon xót nơi vết thương đang rỉ máu, tù nhân có cảm
tưởng mình đang sống cách biệt với xã hội.
Ra khỏi phòng kỷ luật, tôi nhận ra một cảm giác lạ khi
gặp lại thứ ánh sáng đã xa vắng lâu ngày.
Những tia nắng vàng hâm nóng làn da đã đổi màu xanh lợt, như tôi vừa trở
về từ một thế giới xa lạ. Một cảm giác
lâng lâng dâng lên một niềm hạnh phúc, thứ hạnh phúc thật quý báu, hiếm muộn.
Khi bị chuyển tới chỗ ở mới, trại Phan Đăng Lưu, đối
diện với Lăng Ông, Bà Chiểu, một khu trại giam xây dựng đã lâu. Tôi vào phòng 6 khu A, một phòng giam tập thể
nhỏ chứa tới 70 người, gồm nhiều thành phần như một số tỷ phú người Việt và
Hoa, đông nhất là chống cộng sản. Tôi gặp
nhà báo Lý Đại Nguyên và một số chức sắc Hòa Hảo.
Sau mấy tuần ở chung, tỷ phú người Hoa tên Lưu Thiệu
Khanh, nguyên là giám đốc công ty cán sắt Vicasa, mời tôi ngồi nói chuyện, ông
nói:
- “Tôi
quan sát tướng của ông mấy ngày nay nên có mấy điều nhận xét. Ông bị bắt năm bao nhiêu tuổi?”
- “Tôi bị
bắt năm nay, 38 tuổi.”
- “Ông
may mắn lắm. Nếu không bị bắt năm 38 tuổi
thì ông sẽ chết vào tuổi 39.”
Lại thêm một lời đoán theo tướng mệnh. Nhưng lấy gì bảo đảm cho sự sống của tù nhân
dưới chế độ cộng sản, khi mà có nhiều cơ hội đưa đến cái chết tức tưởi. Ông Khanh tiếp lời:
- “Sau
này ông sẽ có tên tuổi trên văn đàn…”
Tôi khá nghi ngờ về lời đoán này, nó quá xa với nếp sống
của tôi. Mặc dù là người thích đọc sách,
nhưng tôi chưa có lấy một dòng chữ nào trên báo chí, lấy đâu mà có tên tuổi trên
văn đàn.
Sau vài tuần ở phòng 6 khu A, tôi bị đưa vào phòng 3
khu kỷ luật C2, cùng dẫy với quý vị trong vụ nhà thờ Vinh Sơn, vì cho là “chưa
thành thật khai báo về hoạt động chống cộng sản”. Sau mấy tháng cùm xích cung khai, tôi được
chuyển tới phòng giam tập thể, phòng 6 khu C1, để lấy lại sức sau thời gian
tinh thần bị căng thẳng. Một phòng mái
tôn quá thấp nên không khí trở lên ngột ngạt.
30 người chia nhau một nền xi măng nhỏ, vừa đủ chỗ đặt lưng. Cũng may, người mình vốn nhỏ con và sau năm
tháng tu luyện trong “lò cải tạo”, mà theo ý đảng để thành con người mới XHCN,
thân hình không còn dềnh dàng như trước, nên nằm vừa khít phần đất đo được hai
gang rưỡi. Sức nóng của mùa hè Sài Gòn
tăng gấp bội, căn phòng nóng như một lò nướng, hừng hực hơi người. Cái cảm giác hạnh phúc hiếm muộn qua đi thật
nhanh, vừa chợt đến đã mất hút giữa đám người mình trần, mồ hôi nhễ nhại mà sự
đầy ải làm mất dần phong thái con người.
Nhiều khi tôi tự hỏi, như thế “hạnh phúc” cũng có lằn
ranh, một lằn ranh biến đổi giữa tâm lý và thực tế. Khi hoàn cảnh xã hội thay đổi, cũng với lằn
ranh này, thực tế đã đổi thay. Tuy thật
rộng mà cũng thật hẹp, mà người đời đã “hoa mỹ” hóa thành lằn ranh của “hai thế
giới trong một cuộc đời”, một thứ lằn ranh mờ mờ ảo ảo. Nói nôm na, đó là lằn ranh giữa “nhà ở” và “nhà
tù”, nhìn thật xa mà cũng thật gần, nhất là sau ngày 30-4-1975. Cá nhân tôi cũng như mọi người đều ngán cái lằn
ranh hắc ám này. Vậy mà, tôi vẫn phải chấp
nhận hoàn cảnh cay nghiệt trước mắt như hàng triệu người miền Nam khác. Cái quy luật bất thường này đã thay đổi hoàn
toàn nếp sống cá nhân, bất kể tới địa vị khác nhau với nếp sống vàng son thuở
trước.
Vào lần lấy cung sau cùng với Trung tá Hai Tiến, một
công an thuộc Bộ công an Hà Nội, nói:
- “Tôi đã
đọc báo cáo của các cán bộ lấy cung trong thời gian vừa qua, hôm nay gặp anh,
tôi biết anh vẫn ngoan cố, không thành thật khai báo về hoạt động của tổ chức
chống cách mạng của anh. Anh can hai tội:
. Xử dụng
chiến tranh nhân dân để chống lại cách mạng
. Là một
CIA nằm vùng để cài người trong thế chiến đấu trường kỳ.”
Một câu kết luận thật nguy hiểm chết người. Nhưng còn gì để ngán để sợ. Tôi trả lời hắn:
- “Tôi
nói những gì tôi biết, tôi làm. Còn tin
hay không tùy ý các anh...”
Một câu trả lời khiến người đối diện, một cán bộ có uy
quyền, phải nổi giận. Nhưng không, mặt hắn
vẫn lạnh tanh, mỉm cười. Tôi biết mình
đã gặp một tay tổ trong ngành tình báo của cộng sản.
Tôi lại bị chuyển tới phòng kỷ luật số 24 khu C1, gần
phòng của nhà văn Doãn Quốc Sĩ. Ở được
vài tháng tôi được chuyển tới phòng tập thể C1, đối diện với dẫy sà-lim tôi vừa
ở. Tôi gặp nhà văn Duyên Anh đang làm trật
tự của phòng. Ít ngày sau tôi xuống tầu
Sông Hương ra miền Bắc.
Tôi tới trại Nam Hà gần Phủ Lý vào tháng 4-1977. Sau nhiều tháng chống đối, “đả đảo cộng sản”
của tập thể cải tạo khu B, những anh em đã cùng tôi trên chuyến tầu Sông Hương
ra Bắc. Vào một đêm không trăng sao cuối
năm, đêm Giáng Sinh, ngày 24-12-1977, 20 anh em chúng tôi lên xe chuyển trại,
trong số đó có Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, Nguyễn Tiến Đạt, Nguyễn Đức Khuân, Tô Tứ
Hướng…
Tôi không ngạc nhiên khi nghe lệnh chuyển trại vào lúc
đêm khuya như thế này, chúng tôi là những “cánh vạc ăn đêm”, nên thường ra đi
khi trời vừa tối. Tôi chợt nhớ tới lời
Phó trại nhắn nhủ cách đây vài ngày, sẽ đưa chúng tôi tới nơi quanh năm sương
phủ, một nơi không có ánh sáng mặt trời.
Chúng tôi không biết nơi nào sẽ tới, xa hay gần. Nhưng có điều sẽ gặp nhiều gian khổ hơn những
gì đã trải qua. Khi đó, một người bạn
nói:
- “Kỳ này
chết là cái chắc…”
Tôi đồng ý với nhận định của anh. Hai chữ gia đình trở thành xa xôi. Thật trớ trêu, câu hát, “càng đi xa anh càng nhớ em…” đã khích động tâm tư của tôi trong
hoàn cảnh này. Thôi! Đành vậy!
Nhớ thì vẫn nhớ, mà xa vẫn phải xa.
Tôi cảm thấy mình khó có con đường trở về.
Chúng tôi tới trại Quyết Tiến - Cổng Trời tỉnh Hà
Giang, chỉ cách biên giới Việt - Trung mấy cây số đường chim bay. Một vùng núi cao quanh năm sương phủ. Tôi vẫn bán tin bán nghi về hai chữ “số mệnh”,
những rủi may trong cuộc đời. Liệu lời
đoán “mệnh tôi vững, không thể chết được” và “số tôi gặp hên” vì không chết vào
tuổi 39, có thể tin được không?
Chúng tôi lao động quần quật trong mùa Đông giá rét dưới
10 độ C. Thực phẩm duy nhất là ngô xay
cũng không được ăn no, phong phanh với manh áo mỏng bà ba . Thân hình chỉ còn da bọc xương, bị bệnh vẫn
phải đi lao động.
Vì lao động trong hoàn cảnh khắc nghiệt, tôi bị cảm lạnh,
trong người nóng như lửa đốt còn ngoài da lạnh ngắt. Tôi gặp anh Lượng, một tù nhân miền Bắc được
trại cho làm y tá, để xin thuốc. Lượng bảo
tôi:
- “Chúng
ta thiếu dinh dưỡng nên dễ bị bệnh, nhất là khí hậu vùng này quá khắc nghiệt. Nhiều người ở trại này đã chết vì bệnh sốt
rét rừng, mà thuốc duy nhất của trại là Xuyên Tâm Liên không thể trị được bệnh
này.”
Thấy Lượng khác với các tù hình sự khác, nói chuyện về
gia đình tôi được anh cho hay nguyên là công nhân tại Hà Nội trước ngày di
cư. Tôi buột miệng hỏi:
- “Anh có
biết anh Bùi Lượng không?”
- “Tôi dưới
quyền anh Bùi Lượng. Tôi chỉ biết anh đã
di cư vào Nam. Anh có quen anh Bùi
Lương?”
- “Tôi
thường gặp anh Lượng vì là chỗ quen thân gia đình.”
Lượng chợt bảo tôi:
- “Bây giờ
anh uống đỡ thuốc Xuyên Tâm Liên, ngày mai sẽ tính.”
Thuốc “Xuyên Tâm Liên” được mệnh danh là thần dược được
xử dụng tại các trại tù miền Bắc, một loại thuốc mà tù nhân thường nhắc nhở ‘uống
vào biết liền”. Dù không chết ngay nhưng
tác hại tới “tim, gan, phèo, phổi”, trở thành những căn bệnh bất trị, để lại hậu
quả khó lường.
Ngày hôm sau Lượng cho tôi 2 viên thuốc Asperin của
Liên Xô, một thứ thuốc rất quý tại miền Bắc.
Nhờ 2 viên thuốc này tôi dứt được bệnh sốt rét rừng.
Tiếng súng nơi vùng biên giới Hoa – Việt ngày một gần. Chúng tôi được chuyển về trại Thanh Cẩm, tỉnh
Thanh Hóa vào cuối tháng 8-1978, trước khi quân đội Trung quốc đánh phá trại
Quyết Tiến. Chúng tôi gặp cơ may do Tầu
đánh chiếm vùng biên giới, đã thoát được con đường thứ hai mà cán bộ Tố, Trưởng
ban Ban Giáo dục, dằn mặt vào ngày đầu tới trại:
- “Các
anh có hai con đường, đường thứ nhất là đường đưa các anh vào trại, còn đường
thứ hai là đường đưa lên đồi Bà Then (một
nghĩa trang trên đồi Bà Then, nằm phía sau trại.”
Liệu đây có phải là điều “hên” như bác Nam Kinh bấm quẻ
vào ngày đầu tôi bị bắt vào trại Băng Ky – Bình Hòa, Gia Định và cũng là sự may
mắn tôi đã thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, gửi xác trên đồi Bà Then.
48 anh em chúng
tôi từ trại Cổng Trời về Thanh Cẩm, gồm 12 vị Linh Mục và 36 người miền Nam bị
bắt sau ngày 30-4-1975, vào phòng 5 thành lập đội 16. Một đội được các bạn đặt tên “Đại đội trừng giới”,
luôn luôn bị canh chừng. Mấy ngày sau
khi về trại Thanh Cẩm, quý vị Linh Mục cũng như một số anh em lên khu kỷ luật. Để đủ nhân số cho một đội lao động, một số anh
từ khu kỷ luật và các đội khác chuyển tới trong đó có anh Nguyễn Cao Quyền,
Nguyễn Văn Thành…
Khi gặp Nguyễn Tiến Đạt từ khu kỷ luật xuống phòng tập
thể, em bảo tôi:
- “Nằm
trên kỷ luật đợi mãi mà không thấy anh lên…”
Tôi không biết trả lời Đạt thế nào, vì chính tôi luôn
sửa soạn tinh thần đến lượt theo các bạn lên khu kỷ luật. Hay những cay đắng trong cuộc đời đến với tôi
đã quá đủ, nên tôi đã qua hết đoạn đường gian truân “10 năm đại hạn” như trong
số tử vi đã định.
*
Tôi nhận được “giấy ra trại” tại trại Thanh Cẩm vào cuối
năm 1981. Tôi đã trả xong “món nợ máu”
cho đảng cộng sản như họ thường rêu rao, bằng thời gian bóc trọn 6 cuốn lịch
treo tường.
Tôi gặp lại Linh Mục Cao Đức Thuận, người đã sống và chịu
đựng gian khổ với tôi từ trại Cổng Trời đến Thanh Cẩm, nhân chuyến công tác mục
vụ tại Hoa kỳ. Khi tôi tới cửa phòng
khách của nhà thờ Cha Long tiểu bang Maryland, ông đứng dậy tiến tới, dang rộng
đôi tay ôm tôi xúc động:
- “Tôi tưởng
chúng mình bỏ xác trên đồi Bà Then, không ngờ được về và bây giờ lại gặp nhau trên đất Mỹ,”
Tôi không biết nói gì hơn, chỉ biết trả lời ông:
- “Đó là
nhờ ơn trên.”
Trong thâm tâm, tôi luôn suy nghĩ về sự bí ẩn của số mệnh,
những sự việc xẩy ra cho con người không phải do ngẫu nhiên, mà tuân theo theo
một chu kỳ tất nhiên. Số mệnh con người
bị ảnh hưởng bởi vận số của đất nước, nên vận số thăng trầm của một quốc gia do
đó cũng theo một chu kỳ hưng thịnh và suy vong. Số mệnh con người do tâm ý mà ra, nên sự thịnh
suy của một đất nước do lòng người mà thành. Nhìn vào Việt Nam, dưới chế độ XHCN, lòng dân
bất mãn, căm hờn. Nội bộ giới lãnh đạo đang
chia rẽ, thanh toán nhau vì quyền lợi.
Cán bộ đảng không còn tin tưởng vào chế độ nên tìm cách đào thoát khỏi
nước. Đó là dấu hiệu về sự sụp đổ của CSVN
đã gần kề.
Trần
Nhật Kim Tháng
2-2018