Thursday, May 31, 2018

VÀ CON TIM ĐÃ VUI TRỞ LẠI



Quý anh chị thân mến,
Qua bản nhạc tựa đề trên, Đức Huy hát rằng:   
thành một người mới….                                                
(Nếu ai chưa biết bản nhạc này, mời bấm vào những chữ đỏ, hoặc lyrics trên để nghe).

Nên:
Trước hết, tôi thành thật xin lỗi về lá thư “Tâm Tình Của Một CB/XDNT” (gởi ngày 24 tháng 5, 2018) đã gây nên một vài “rắc rối” không cần thiết, và tôi ước ao “mọi lỗi lầm sẽ được thứ tha”.  

Theo đề nghị của một số quý anh chị tại “Café XDNT” vào hôm Thứ Bảy vừa qua, tôi xin được gởi tiếp “Tâm Tình 2”, mời quý anh chịu khó đọc thêm một lần nữa:

Quý anh chị thân mến,
Ngạn ngữ Anh nói “too many cooks spoil the broth”, nôm na tiếng Việt là “lắm ‘thầy’ thối ma”!  

Nếu gọi là “thầy”, thì có lẽ tôi là… “thầy dùi”, mà lại dùi không đúng chỗ, nên trở thành lỗ...mọt; và theo lời khuyên của anh Lê Đình Ruân thì, “may là chỉ mới có vài ‘con mọt’ làm tổ, nên phải tìm cách trám lại để mọi người vui vẻ với nhau”.  

Xin cám ơn Ruân, cũng như quý anh chị tại Café XDNT đã khuyên tôi, như anh Quân, anh Khánh, chị Hòa, anh Mỹ, anh Phúc, đặc biệt là anh Lã Quý Trang (gốc Nhảy Dù, đồng đội của Ruân và cũng là đệ tử “Võ Bị Đà Lạt” của anh Phạm Quang Mỹ, không có liên hệ gì đến LSL cũng như XDNT), đã nhắc nhở tôi nên tôn trọng quyết định đa số, lấy “đại sự” làm trọng. Cám ơn anh Trang!  

Còn anh Khánh thì quyết liệt hơn:  “Mọi ý kiến khác với tinh thần phiên họp ngày 7/5/2018 sẽ không có Khánh trong kỳ hội ngộ tháng 9, năm 2018”.

Quý vị thấy đó, “ván đã đóng hòm rồi”, dù muốn hay không, tôi cũng phải vào nằm, không thắc mắc, khiếu nại!

Đùa một chút thôi, xin đừng ai “quét nhà ra rác”, như anh Nguyễn Văn Nhựt “cảnh giác”!  

Nói thật, ai “hù” thì tôi không “khe”, nhưng Khánh “dọa” thì thực sự tôi lo; vì dù sao thì Khánh và tôi đã có một mối liên hệ khá lâu dài và khắng khít; Khánh không đi thì tôi đi với ai đây!

Thưa quý anh chị,
Trong những ngày qua, đa số các anh chị đều đồng ý rằng, kỳ họp mặt vào đầu tháng 9 năm nay tại Nam Cali chỉ là một cuộc “hội ngộ mở rộng”, để thăm dò tình hình, nếu khả quan, chúng ta sẽ mở “đại hội”.

Thật ra, tình hình cũng đã có những dấu hiệu rất khả quan, xin được nêu lên để những con tim được “vui trở lại”:

  1. Trước hết là kỳ họp mặt lần này chúng ta vinh dự được đón tiếp Niên Trưởng Nguyễn Tài Lâm, cựu Giám Đốc Nha Cán Bộ, và cựu Chỉ Huy Trưởng TT/HL/CB/QG, người tâm sự rằng:
Ngày nay đa phần ACE chúng ta đều ở tuối xế chiều. Đây là lần họp mặt được tổ chức qui mô kết hợp Cán Bộ ÁO ĐEN Tỉnh Đoàn và Trung Tâm để ACE các nơi có dịp gặp mặt nhau, ôn lại những kỷ niệm xưa. Tôi mong gặp lại các ACE càng nhiều càng tốt.

Trong mấy ngày qua, có một số anh chị đã gọi điện thoại, gởi email cho tôi, cả tiêu cực lẫn tích cực, nhưng chỉ xin xin “báo cáo” những gì “tích cực” (positives only):

  1. Hôm Thứ Hai, tôi nhận được một cú phôn area code 202, không biết là của ai, đang phân vân, thì đầu dây bên kia nói là từ Nebraska, và khi “thấy” tôi có vẻ lúng túng, người gọi xưng danh Vũ Bằng, một “người Việt trầm lặng” mà tôi quen trong một cuộc hội ngộ LSL.  Dù sơ giao, và ít nói, nhưng Vũ Bằng cũng đã bỏ ra hơn nửa tiếng đồng hồ để tâm sự với tôi. Cám ơn Bằng đã cho tôi biết những gì chưa biết, đặc biệt là những sự kiện quan trọng từ Trung Tâm HL/CB/QG Vũng Tàu, nơi anh là giảng viên chính trị cao cấp. Anh Bằng nói anh có theo dõi những email trao đổi về “đại hội”, và anh rất xúc động khi đọc những lời của anh Hoàng Kim Tài (Tỉnh Đoàn Quảng Trị và Bình Tuy) viết rằng “Vậy mong các anh làm sao để chúng ta có một lần hội ngộ thân mật và hòa ái”.  Anh Bằng nói hai chữ “hòa ái” nghe thật thân thương! Anh cũng có ý khuyên tôi nên “hòa ái” để mọi người cùng vui vẻ với nhau.   Sau đó tôi có nói chuyện với anh Tài, để chuyển lời khen của anh Bằng, và anh Tài hứa sẽ vận động những đồng đội của anh từng phục vụ tại các tỉnh đoàn đến tham dự hội ngộ vào cuối Hè năm nay.

  1. Hội ngộ lần này, ngoài anh em cựu CB/XDNT bắc và nam Cali, sẽ có thêm sự hiện diện của gia đình CB/XDNT Washington, nơi “Gia Trưởng” Cao Hữu Thiên nói “sẽ cử người về tham dự”.   Như vậy, chúng ta có thêm một đơn vị cựu cán bộ XDNT ở Washington State cũng sẽ đồng thuyền với chúng ta.

  1. Ngoài ra, Võ Sư Nguyễn Văn Đông, Trung Tâm Trưởng “Hoa Lư Center”, khu vực Garden Grove (Nam Cali), cho biết sẽ cố gắng tham dự hội ngộ để được tái ngộ Niên Trưởng Nguyễn Tài Lâm, người đã giới thiệu “Vovinam” Việt Võ Đạo vào XDNT (Xin xem “Vovinam Đi Vào Nông Thôn” của anh Khánh).   Võ Sư Đông nói sẽ vận động một số người mà anh quen biết như anh Phạm Văn Minh, Trần Văn Thành, chị Hình Thế Lục…đến tham dự hội ngộ.  

Ngoài những tin vui trên, tôi cũng xin thành thật cảm ơn các anh chị đã “đồng tình” và “bất bình” về những gì tôi viết trong “tâm thư 1”, đặc biệt là anh Nguyễn Văn Nhựt vừa nghiêm chỉnh, vừa “vui vẻ” giải thích cho tôi hiểu thêm về “căn ngữ” (etimology) của những từ như “chuyện lớn” là… “lớn chuyện”, và “đại hội” là “hại đội”. (Xưa nay tôi cứ tưởng “đại hội” là… “đội hại”😊!)  Một lần nữa, xin cám ơn “7 điều tâm niệm” của anh Nhựt gởi riêng cho tôi, với điều thứ 5 là “đừng bắt bẻ để vui vẻ”!

Đúng vậy, “vui vẻ” chính là lẽ sống của những người “không còn trẻ” như chúng ta; nên, một lần nữa, tôi thành thật xin lỗi vì đã “vô tình” trở thành cục đá ngăn chặn bánh xe đang ngon trớn tiến về một cuộc hội ngộ mở rộng đầu tiên của anh chị em cán bộ áo đen, như ước nguyện thiết tha của mọi người, đặc biệt là của anh Nguyễn Tài Lâm.

Xin quý anh chị trong ban tổ chức hãy tiếp tục công việc của mình, và xin phép cho tôi (lại nhiều “chiện”) được đề cập đến 2 email nhỏ, mà tôi thấy rất có ý nghĩa, từ:
  1. Anh Hoàng Kim Châu:
Góp tí Ý
Biên bản là biên bản.
Là ghi những việc diễn ra trong phiên họp, không thêm không bớt. Dự thảo là còn có thể sửa biên bản cho đến khi hoàn chỉnh!
      Bao giờ mới có biên bản chính thức?
Châu.
   2. Anh Trần Hiếu Lai:
"Dự thảo "BB, thì Chủ tịch VHH, ký tên vị là Thụy Đơn, Chờ đến BB chính thức VHH Chủ tịch mới ký tên.(?) Lâu nay tôi cứ nghĩ "Dự thảo..." còn trong ngăn kéo, lưu hồ sơ, té ra chừ có thể phổ biến!
Người già lẩm cẩm Thl.

Thưa quý anh chị,
Ý kiến của anh Châu và anh Lai rất đúng, vì “biên bản là biên bản”, chỉ được phổ biến khi đa số những người trong buổi họp đồng ý, và có chữ ký của chủ tọa; còn nếu là “dự thảo” thì nên để “trong ngăn kéo”, (như ý anh Lai) cho đến khi “hoàn chỉnh” rồi mới  “chính thức phổ biến” (như ý anh Châu)!

Dù anh Nhựt nói là không nên “bới lông tìm vết” và “bắt bẻ”, nhưng tôi vẫn phải trách anh Nhựt là đã vô tình, cố ý, hay sơ ý phổ biến cái bản “dự thảo” này, nên tôi mới có ý kiến và bị… kiến cắn 😢!.    

Cũng may anh Nhựt không phải là thư ký của ông “Chum”; nếu phải, chắc chắn sẽ bị ổng “fire” về tội “leak” dossiers của “West Wing”!

Đùa một chút cho đỡ căng thẳng thôi.
Chúc mọi cùng chung nhau hợp tác, để chúng ta có một cuộc hội
ngộ đầy ý nghĩa, đáng nhớ, “và con tim đã vui trở lại”!  


Chào quý anh chị,
San Jose June 31, 2018,
CB Phạm Đức Hiền

Đùa một chút cho đỡ căng thẳng thôi.
Chúc mọi cùng chung nhau hợp tác, để chúng ta có một cuộc hội
ngộ đầy ý nghĩa, đáng nhớ, “và con tim đã vui trở lại”!  

NẠN ĐÓI 1945

nạn đói năm Ất Dậu 1945?

Nhiếp ảnh gia Võ An Ninh và những hình ảnh thảm khốc nạn đói 1945

27/5/2108

Những thân hình tiều tụy, những nạn nhân khắc khoải, mỏi mòn chờ chết, những thảm cảnh thây người chất đống trong nạn đói 1945 được nghệ sĩ nhiếp ảnh gia Võ An Ninh để lại lịch sử.

image024

Không có gì để ăn khiến người già trẻ em, thậm chí thanh niên trai tráng cũng trở nên tiều tụy. Trong ảnh trái, là một thiếu phụ với thân hình da bọc xương trong hàng ngàn thiếu phụ hiện ra khắp nơi năm 1945. Ảnh phải được nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh chụp tại Thái Bình, khi ông tới thì cả cha mẹ của ba anh em đã chết đói.

image025

Trên vỉa hè Nhà thờ Tin Lành phố Hà Trung, Hà Nội, một xác thiếu phụ đêm trước còn thoi thóp.

image026

Quá đói, quá mệt, không đứng nổi... Ngồi chờ tiếp tế.

image027

Những em nhỏ đói, không biết cha mẹ còn hay đã chết.

image028

Đoàn người đói, còn chút sức lực, còn đi được thì nối nhau đổ về trại Giáp Bát và nhà tế bần Sinh Từ.

image029

Những nạn nhân đói gặp gì ăn nấy. Sự khủng khiếp của cái đói nằm ở sự dày vò dai dẳng, đày đọa con người ngày này qua ngày khác. Hình ảnh được chụp tại Nam Định năm 1945.

image030

Khi xin được ít cháo, hai em bé đổ cháo vào miệng bố, nhưng cháo chảy ra ngoài, vì hàm răng đã cứng lại. Ảnh chụp tại Phủ Lý, Hà Nam.

image031

Khi nạn đói lên đến đỉnh điểm vào đầu mùa hè năm 1945, người chết la liệt, không phân biệt được nam nữ, già trẻ, các tình nguyện viên nhặt xác đến một chỗ để chờ xe mang đi chôn.

image032

Xác chết được chất lên xe bò chở đi chôn.

image033

Quá đói, đồng bào cướp xe gạo do Nhật áp tải.

image034

Trong lúc nạn đói hoành hành, với tinh thần tương thân tương ái, nhiều người tham gia từ thiện. Người có gia sản thì tổ chức những điểm cứu đói, nhiều người tham gia đi thu gom xác đưa đi chôn cất. Trong ảnh là một người làm từ thiện đang rửa xương của những nạn nhân chết đói.

image035

Xương của các nạn nhân chết đói.

image036

Những người chết đói ở trại Giáp Bát, tới năm 1950 được cải táng đem về nghĩa trang Hợp Thiện, Hà Nội. Các loại xương được phân loại sắp xếp trong bể chứa.

image037

Nhiếp ảnh gia Võ An Ninh bên đài tưởng niệm các nạn nhân chết đói năm 1945.

Loạt ảnh này từng ra mắt độc giả trong nhiều cuộc triển lãm,
trên sách báo, truyền hình. Trong cuốn Nạn đói năm 1945 ở
Việt Nam - những chứng tích lịch sử (GS Văn Tạo - GS Furuta
Moto chủ biên) đưa lại một phần những bức ảnh này, như tư liệu
bổ sung cho các nghiên cứu trong sách.


Ảnh tư liệu của Võ An Ninh

Wednesday, May 30, 2018

CÁI LON GUIGOZ (Song Lam)

CÁI LON GUIGOZ (Song Lam)
Ở Mỹ này có nhiều chuyện ngộ: Có nhà giữ trẻ và cũng có nhà giữ người già, mỗi tuần từ thứ hai đến thứ sáu. Thứ bảy và chủ nhật họ ở nhà một mình hoặc có phước có phần ở chung với cháu con!
Tôi nghỉ hưu gần một năm nay, từ Pennsylvania về New Jersey để được gần con cháu. Mấy đứa nhỏ thấy tôi buồn nên xin cho tôi vào đây để gặp gỡ đồng hương cao niên cho vui. Nhưng sau vài tuần tôi muốn “cáo lão quy điền” vì ở đây… chán quá. Ngày nào cũng y chang như vậy: Sáng vô điểm danh, ký tên, ngồi vô bàn của mình ăn sáng, rồi tập thể dục nửa tiếng, rồi chơi đá banh thùng, thảy vòng vịt, chơi bingo, nói chuyện dưới đất trên trời… Khoảng 10 giờ đến 10 giờ rưỡi được cho uống sữa, uống juice, ăn kem..rồi chờ ăn trưa, rồi xếp hàng ra xe bus về nhà.
Chắc tôi phải nói thêm về cách làm việc ở đây. Điều kiện được đưa vào trung tâm này phải trên 65 tuổi và có Medicaid và trong diện nghèo. Có nhà ở thì OK nhưng nếu có xe thì trị giá xe không quá năm ngàn đô la và trong nhà bank không có quá hai ngàn. Trung tâm này ở thành phố Cherry Hill, New Jersey với cái bảng hiệu “Prestige Adult Medical Daycare”. Như vậy ở đây có bác sĩ trông nom sức khỏe, dĩ nhiên là bệnh tật sơ sài thôi, và sẵn sàng giúp mọi người gọi 911 để vào bệnh viện miễn phí..
Đã gọi là “nơi giữ người già” nên người nào cũng hom hem, lụi đụi, không bệnh ít cũng bệnh nhiều. Ở nhà buồn quá không ai trông nom nên tìm vào đây để giải sầu. Tôi là một trường hợp đó, nhưng tôi không vui mấy vì người Việt Nam ít quá, chỉ chiếm khoảng 10%, số còn lại là Mễ Tây Cơ và người Mỹ gốc Phi Châu. Lúc nào họ cũng ồn ào nói cười, kêu gọi nhau hoặc nhảy cà tưng theo nhạc của họ.
Người đời thường nói khi trở về già người ta giống như con nít từ sinh hoạt cá nhân mỗi ngày hay sinh hoạt vui chơi. Họ cũng tranh nhau trong giờ chơi để thắng điểm để được trung tâm phát tiền… âm phủ. Đó là tiền giả để cuối tuần dùng tiền đó mua những vật dụng trong nhà như xà bông rửa tay, xà bông giặt, kem đánh răng, giấy vệ sinh… Cứ nhìn họ vui vẻ đi shopping tại chổ với vẻ vui mừng như trẻ được quà chúng ta thấy được “già y như trẻ” là vậy. Để rồi, lúc ra về họ phải è ạch mang mấy thứ lục cục đó lên xe. Tài xế phải phụ giúp mấy vị đó mang lên xe nào là wheelchair, gậy chống, khăn áo lùng chùng…
Trung tâm này nằm trong khu biệt lập, xa đường chính nên khá yên tĩnh. Phòng sinh hoạt chính khá rộng với mười mấy cái bàn tròn rộng phủ khăn và trên bàn lúc nào cũng có chậu hoa… ni-lông cũng khá sáng đẹp. Bên trái là văn phòng, sau văn phòng là phòng nghỉ ngơi của các cụ khi thấy mệt. Quí vị vào phòng này sẽ thấy lòng mình buồn tênh vì vài người già nằm trên ghế dài trùm chăn, hơi thở mệt nhọc. Tôi cũng là người cao tuổi nhưng còn linh hoạt hơn họ đôi chút, nghĩ rằng rồi mình cũng sẽ nằm thở dốc như họ một ngày không xa!
Bàn tròn của người Việt Nam lùi vào phía trong của gian phòng rộng, lác đác chừng năm bảy người, toàn là đàn ông. Nghe nói lúc trước có vài phụ nữ Việt Nam nhưng họ xin đổi xuống ca chiều có nhiều người cùng xóm cho vui. Bàn của chúng tôi có hai vị tuổi 82 còn lại cũng trên dưới 70. Mọi người đều xuề xòa, duy chỉ có một ông lúc nào mặt cũng hằm hằm, hình như không mấy có thiện cảm với tôi. Thằng cha này lúc nào cũng trầm tư biếng nói, ít cười và đặc biệt lúc nào cũng có cái mũ nồi trên đầu. Có lẽ hắn nhỏ tuổi hơn tôi và có tên là Hiền mà mặt mày chẳng hiền chút nào, giống như dân đứng bến hay ít ra cũng là dân chợ trời hay dấm dúi bán chui á phiện! Không ai biết gì về gã, đó là lý do tôi không vui khi đến đây. Về phía đám đông Mexico và Mỹ Phi Châu kia thì lúc nào cũng như cái chợ chồm hổm, ăn uống nói chuyện ồn ào, nếu có chút nhạc thì loi choi nhảy múa như điên!
Kể ra họ còn có chút vui. Sao đám Việt Nam chúng tôi lại eo sèo đến thế? Nhiều lúc tôi tự hỏi: “Tuổi già sống khắc khoải như thế này đề làm gì, đang chờ đợi điều gì, nếu không phải chờ… ngày về với đất?”. Có khi cũng không cần đất cát gì, chỉ đốt thành tro bụi rồi rải ra biển lớn. Thế là xong.
Tôi định rút lui khỏi cái câu lạc bộ này nếu không có một sự việc xãy ra hôm tuần trước.
II.
Thật ra, tôi cũng là người già nhưng khác hơn mấy ông già Việt Nam này đôi chút. Tôi xin vào đây để làm thiện nguyện, giúp người già Việt Nam thông dịch vì đa số họ không rành Anh Ngữ, chủ yếu là tôi muốn tìm bạn đồng hương. Thành phố này khá yên tĩnh, ban ngày vẫn nghe được tiếng chim hót trên cành cây cao và ban đêm chừng 4 giờ rưỡi sáng chúng đã líp chíp quấy rầy tôi rồi. Thức giấc vì tiếng chim tôi thấy tuổi già trôi qua thật nhanh và từng bước chân đi của mình cũng chậm dần.
Buổi sáng hôm đó, tôi mang theo lon nước chanh gừng vì cảm thấy cổ họng đau rát. Đặt cái lon guigoz lên bàn, tôi đã thấy thằng cha mũ nồi ngồi thu lu một góc rồi. Lão già này không ưa tôi nên ít khi chào hỏi nhau. Hôm đó Hiền lại chào tôi rôm rã và nói nhanh:
– Ủa, ông cũng ở K5 Vĩnh Phú sao?
A, thì ra trên cái lon guigoz tôi có khắc chữ K5-VP.. Tôi gật. Lão cười nụ, méo xệnh:
– Tui ở Nghệ Tỉnh, quê hương…
Lão định nói “quê hương bác Hồ” nhưng tôi ngăn lại. Tôi không muốn nghe hết câu. Bổng tôi thấy nét xúc động trên gương mặt tối hù của gã. Lần đầu tiên, gã kéo cái mũ nồi đặt lên bàn. Mớ tóc bù xù, lốm đốm muối tiêu của gã rớt xuống vùng trán với những “luống cày” sắc nét. Chỉ có đôi mắt mang nét quả quyết, và không… hiền chút nào!
Rồi câu chuyện bắt đầu. Chúng tôi nhận ra nhau, chúng tôi là những người lính già thua trận, tù tội, xương máu, hận thù đau đớn trải dài từ Bắc xuống miền Đông Nam Nam phần từ trước 1975. Hiền nói về mình, về gia đình tan nát của mình và… nói luôn nỗi oán hận cuộc đời mà Hiền vẫn còn đeo đẵng cho đến hôm nay.
Hiền lôi tôi ra ngoài nói là đi dạo, nhưng thật tình, hắn muốn trút bầu tâm sự ôm ấp từ lâu.. Đi chán mỏi chân, hai thằng già ngồi trên ghế đá bên hông khu nhà với ly cà phê nguội ngắt. Hắn nói giọng từ tốn, chậm rãi, đôi mắt mơ màng như đang sống với quá khứ không mấy vui vẻ của đời mình.
– Khi rời quân trường, tôi gặp người này, theo lời giới thiệu của người chị họ và kết hôn sau đó vài tháng, đây là cuộc hôn nhân gán ghép vì tôi muốn thoát ra cái gia đình “u tối” của mình. Giữa tôi và cô ấy không có thứ tình nào hết, không là tình bạn học, không là tình yêu. Anh cũng hiểu rằng giữa năm 1973 chiến tranh Việt Nam leo thang với những trận đánh ác liệt. Chúng ta là những người lính, cái chết cận kề bên lưng…
Tôi chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng ngắt lời Hiền:
– Theo chú, cuộc hôn nhân này không toại nguyện?
Hiền gật, nói nhanh:
– Chính thế. Gia đình nàng giàu có, muốn con gái có một tấm chồng, trong khi tôi muốn có một chổ dung thân những ngày về phép. Gia đình cha mẹ tôi không là tổ ấm, đó là ổ của bài bạc, rượu chè, cuộc sống lem luốc… Tôi muốn trốn chạy, tôi đã sai lầm. Cuộc hôn nhân không tình yêu… cho nên đổ vỡ sau đó là chuyện tất nhiên.
Tôi ngồi thừ, lẳng lặng nghe Hiền nói tiếp:
– Sau đó, chúng ta vào tù sau tháng 4/75 như anh biết… và vợ tôi chưa hề đến thăm tôi một lần nào. Chúng tôi có một đứa con trai, và khi tôi ra tù, bà ấy thẳng thừng đề nghị ly dị vì không chịu nỗi sự nghèo túng, vất vả. Lúc đó, đôi dép lào đứt quai hay vỏ xe đạp xì lốp cũng không có tiền mua dép hay bơm xe, thì… làm sao giữ được hạnh phúc gia đình? Tủi nhục lắm anh ơi… Ôm đứa con nhỏ, tôi phải làm đủ mọi thứ nghề đề nuôi con. Căn nhà trước đó đã thay người chủ mới. Nhờ sự cứu giúp của người bạn học cũ, cha con tôi mới sống sót được đến ngày nay!
Hiền thở dài, không nói thêm gì nữa. Tôi không biết nói gì để an ủi Hiền, chỉ vỗ vỗ vào lưng bạn và trở vào câu lạc bộ.
Từ đó chúng tôi trở thành đôi bạn rất thân. Hiền có vẻ vui tươi hơn trước. Mỗi lần đến thăm Hiền, tôi đều cảm thương cho hoàn cảnh bạn: Căn apartment nhỏ với cây đàn và chú chó Lucky thân yêu.. Hiền thật sự cô độc với tuổi già hiu quạnh của mình. Có lần tôi bạo dạn hỏi Hiền:
– Qua đây hơn 20 năm, sao chú không tìm được người bạn đời khác?
Hiền cười cay đắng:
– Anh thử nghĩ coi, lon lá không còn, tiền bạc không có, đàn bà nào yêu cho nổi? Thật ra tôi sợ. Con chim bị đạn một lần thường sợ những cành cây cong… Thằng Hiếu bây giờ hơn 40, có vợ con ở NY city, tôi không muốn con mình bận bịu nên ở đây một mình. Trong những ngày lễ ở Mỹ này, thằng con tôi ghét nhất ngày lễ Mẹ, Mothers Day. Hiện nay bả còn ở Sài Gòn, giàu có lắm nhưng thằng Hiếu không nhìn. Nó nói với mọi người rằng mẹ nó đã chết từ lúc nó hai tuổi. Bả đổ thừa cho hoàn cảnh bỏ chồng bỏ con. Cái đau khổ của tôi là bả lại lấy thằng cha bí thư huyện ủy!
Nếu mượn bài hát “và con tim đã vui trở lại” của Đức Huy để nói về Hiền cũng không sai chút nào. Mỗi ngày gặp nhau, tôi đều nói với Hiền về niềm tin và tìm thấy lẽ sống cho những ngày còn lại. Hiền đàn rất hay. Tiếng đàn guitar điêu luyện ấy đã trở nên thân thuộc với tôi và mọi người khi có lễ lộc ở “day care” này. Hiền vui hơn mọi ngày, cho đến một hôm…
Tôi nói với Peter, giám đốc trung tâm tôi vắng mặt hai ngày vì phải lo thu xếp việc nhà. Tôi phải đi phi trường JFK ở NY city để đón vợ tôi. Bà ấy về Việt Nam hơn tháng nay đón cô em định cư qua Mỹ. Đơn bảo lãnh từ 2004 đến nay cô ấy mới được đến vùng đất tự do này. Hiền nói với tôi giọng vui vẻ:
– Nếu không gì bất tiện, niên trưởng cho em theo cho vui?
Tôi nghiêm nghị:
– Đi với tôi thì OK, nhưng đề nghị với cậu là bỏ đi từ niên trưởng. Tủi nhục quá mà, đau khổ quá mà niên trưởng với niên chảng gì. Cứ gọi tôi là anh Phúc phải gọn không?
Trên đường đi Hiền nói với tôi về thành phố New York mà cách đây hơn 20 năm, cha con Hiền ngơ ngác đến đây do sự sponsor của người tiểu đoàn trưởng cũ. Hiền cũng cho tôi biết gia đình người con trai đang sinh sống ở Brooklyn đường ra phi trường. Tôi nói:
– Cậu có muốn sắp xếp thời gian thăm con cháu không?
Hiền xua tay nói nhanh:
– Thưa không anh, chúng nó đi làm cả. Tụi nó sẽ về thăm tôi ngày lễ Fathers Day sắp tới đây.
Đến nơi trời choạng tối. Hai anh em giúp người mới đến đem hành lý ra xe. Tôi vội vã giới thiệu với Hiền:
– Đây là Ngọc, bà xã tôi, và đây là cô em tên Nguyệt.
Bỗng nhiên Nguyệt la lớn:
– Trời ơi anh Hiền, phải anh là Hiền Tân Định không?
Hiền chết trân. Một giây sau hắn gật đầu lia lịa:
– Đúng, tôi là Hiền. Hiền Tân Định đây!
Những bàn tay không rời nhau. Tôi nói mau:
– Mời mọi người lên xe. Lên xe rồi nói chuyện sau. Trời tối rồi, về đến New Jersey chắc phải chín mười giờ đêm!
Bây giờ Ngọc mới lên tiếng:
– Vậy ra hai người quen nhau sao?
Nguyệt nói dòn dã:
– Chị Ngọc quên sao, hồi đó văn nghệ liên trường Petrus – Gia Long – Võ Trường Toản – Trưng Vương năm em học Đệ Tam, chị Đệ Nhất Gia Long đó, anh Hiền này ở Petrus Ký đoạt giải nhất đơn ca!
Đến phiên Ngọc la vui:
– Trời đất, đó là năm 1967, em nhớ giỏi quá. Ờ ha, 50 năm rồi mọi người ơi!
Hiền rôm rã:
– Cám ơn Nguyệt vẫn nhớ tôi. Bây giờ già hết rồi, dâu biển nhiều rồi…
Nói xong Hiền thở dài:
– Bây giờ tôi già lắm rồi, Nguyệt nhớ tôi thật là giỏi. Cám ơn Nguyệt. Hồi đó hình như Nguyệt cũng đoạt giải thưởng phải không?
– Dạ em giải nhì. Cho nên em nhớ anh là vì hồi đó em “cay cú” với thằng cha Petrus!
Mọi người cười vang.
III.
Cuối tuần, gia đình các con ào về nhà vợ chồng tôi để mừng mẹ và dì từ Việt Nam mới sang, nhân thể bày tiệc mừng sinh nhật 62 của dì Nguyệt.
Nguyệt đã hơn 60 nhưng trông bề ngoài chỉ chừng hơn 50 vì nàng độc thân không phải lo lắng tất bật chuyện chồng con. Bà xã tôi nói rằng, Nguyệt là em kế của bà nhưng từ lúc thanh niên 20-30, nàng không hề nghe Nguyệt nói gì về bạn trai hay có quen biết và yêu đương một người đàn ông nào.
Nguyệt chỉ mải mê học vấn và làm việc. Nguyệt có bằng thạc sĩ kinh tế và giảng dạy ở các trường đại học ở Sài Gòn. Bây giờ, nàng hưu trí từ tuổi 55.
Một điều lạ lùng nhất là Hiền đến nhà tôi hôm nay, khác hẳn mọi ngày. Một tay ôm cây guitar và một tay ôm bó hoa hồng lớn làm cả nhà tò mò đoán già đoán non. Dĩ nhiên, hoa hồng tặng sinh nhật Nguyệt, chứ không phải tặng Ngọc, bà xã nhà tôi.
Mấy đứa con gái tôi cười rúc rích, ra chiều đắc thắng.
Trong bữa ăn chúng tôi chỉ nói chuyện Việt Nam, hỏi thăm sức khỏe nhau. Vợ chồng tôi bận bịu chơi với cháu ngoại, hai đứa con gái lo việc dọn dẹp dưới bếp. Hai đứa rể bận không đến được, nên khách chỉ là Nguyệt và Hiền.
Hai người này thích ca hát văn nghệ từ hồi còn đi học nên thử giọng hát hò với nhau. Hiền đàn hát thật hay. Nguyệt ngồi nghe mơ màng. Tiếng đàn, tiếng hát dứt mọi người ùa ra phòng khách vỗ tay cổ vũ. Hiền cười vui rạng rỡ nhưng có chút ngượng ngùng.
Bây giờ tôi mới ngắm kỹ Hiền. Chàng già này bữa nay sao khác hẳn. Cái mũ nồi biến mất. Mái tóc bạc cũng thế. Hôm nay sao nó thay hình đổi dạng nhanh thế: râu tóc gọn ghẽ, nhẵn nhụi, quần áo thẳng nếp, giày tây bóng loáng y như chú rể ra mắt nhà vợ. Cái gì, điều gì đã thay đổi thằng cha mà tôi từng ghét quá ghét trước đây?
Câu chuyện có lẽ dừng ở đây được rồi. Kết cục thế nào tùy độc giả. Nhưng, với con mắt của người lính già lăn lóc gió sương như tôi, tôi thấy Hiền như được hồi sinh. Người đàn ông đau khổ với tuổi già hiu quạnh như Hiền, ngày tối vào ra với con chó Lucky là bạn, với cây đàn guitar réo rắc những cung bậc bi thương, sầu não đó, đã vực dậy vì tình bạn, tình “huynh đệ chi binh” và có thể, hắn sẽ tìm được một tình yêu cuối đời? Có thể lắm chứ. Cuộc đời ơi hãy mĩm cười với bạn tôi!
Ban đầu, Nguyệt định ở New Jersey với chúng tôi vài tuần, sau đó, sẽ đi Cali ở với đứa cháu. Nhưng, có lẽ nàng thay đổi ý định khi tôi “bày trò” nhờ Hiền chở Nguyệt đi làm giấy tờ và những yêu cầu của người mới đến Mỹ. Cầu mong hạnh phúc sưởi ấm hai tâm hồn đơn lẻ bấy lâu!
Cám ơn “Prestige Adult Medicare Center” đã kết nối tôi và Hiền,
cám ơn cái lon guigoz của một thời lao tù khổ sai tăm tối… để chúng tôi
tìm đến nhau trong tình người, tình chiến hữu. Cái lon guigoz
này tôi sẽ làm quà cưới nếu hai “đứa già” này trong tương lai
quyết định cùng nhau “đi trọn đường trần”.
Song Lam
Cám ơn “Prestige Adult Medicare Center” đã kết nối tôi và Hiền, cám ơn cái lon guigoz của một thời lao tù khổ sai tăm tối… để chúng tôi tìm đến nhau trong tình người, tình chiến hữu. Cái lon guigoz này tôi sẽ làm quà cưới nếu hai “đứa già” này trong tương lai quyết định cùng nhau “đi trọn đường trần”.

Friday, May 25, 2018

THẮNG VÀ THUA

Đời người, đôi khi thắng chưa hẳn đã chứng tỏ đó là người có trí tuệ, là bậc cao nhân. Trái lại, thua cũng chưa hẳn là người tầm thường, kém cỏi.
Vào những năm cuối triều đại nhà Thanh, Tả Tông Đường được xưng là người có tài năng kiệt xuất và gan dạ hơn người. Ông là người tỉnh Hồ Nam. Theo sử sách ghi chép, Tả Tông Đường là người thông minh thiên bẩm. Thời thanh niên, ông có tài nhưng không gặp thời, mãi đến tuổi trung niên mới được bạn bè tiến cử làm quan.
Về sau này, qua cách xử thế của Tả Tông Đường trong cuộc vận động Thái Bình Thiên Quốc, thu phục chiến dịch biên cương thì tài năng quân sư và chính trị tuyệt vời của ông mới được hiển lộ rõ ra. Vì vậy mà Tả Tông Đường được người đời xưng là “Gia Cát Lượng tái thế”.
Đôi khi thắng chưa hẳn đã chứng tỏ đó là người có trí tuệ(Ảnh sưu tầm)
Tả Tông Đường còn rất thích chơi cờ vây, hơn nữa còn là một cao thủ. Kỳ thực gần như không có ai là đối thủ của ông. Trong những câu chuyện kể về thú vui chơi cờ vây của Tả Tông Đường, người ta còn lưu lại một câu chuyện xưa “Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ” khiến người đời phải suy ngẫm như thế này:
Có một lần Tả Tông Đường dẫn quân xuất chinh. Trên đường đi, ông nhìn thấy có một ngôi nhà tranh, bên trên treo một tấm biển Đệ nhất thiên hạ kỳ thủ”. Tả Tông Đường rất không phục liền tiến vào nhà tranh đấu với chủ nhân của ngôi nhà ba ván cờ liền.
Kết quả, chơi cả ba ván cờ, người chủ nhân này đều bị thua. Tả Tông Đường hưng phấn dạt dào, rồi cười lớn và nói: “Ông có thể hạ tấm biển này xuống được rồi!” Nói xong, Tả Tông Đường tràn đầy tự tin, vui vẻ dẫn quân đi tiếp.
Không lâu sau khi Tả Tông Đường quay trở lại con đường ấy để về triều. Khi ông đi ngang qua ngôi nhà kia, ông ngạc nhiên vì nhìn thấy tấm biển“Đệ nhất thiên hạ kỳ thủ” vẫn không bị chủ nhân dỡ xuống. Tả Tông Đường có chút suy nghĩ rồi liền bước vào trong nhà và lại đấu với chủ nhân của ngôi nhà ba ván cờ nữa.
Kết quả, lần này, chơi cả ba ván cờ, Tả Tông Đường đều bị thua.
Tả Tông Đường rất kinh ngạc liền hỏi vị chủ nhân xem nguyên nhân là vì sao?
Người chủ nhân của ngôi nhà chậm rãi đáp: “Thưa ngài, lần trước là trên thân ngài còn mang trọng trách lớn, phải dẫn binh đi đánh giặc. Tôi đương nhiên không thể làm giảm nhuệ khí của ngài được. Hôm nay, ngài đã thắng lợi trở về, tôi đương nhiên có thể chơi hết sức mình, không nhân nhượng, việc đáng làm thì phải làm thôi!”
Tả Tông Đường nghe xong những lời này liền bừng tỉnh đại ngộ, hơi một chút xấu hổ nhưng trong lòng lại vô cùng bội phục người chủ nhà này. Tả Tông Đường liền nói: “Ngài không hổ danh là ‘Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ’!”
Đôi khi thắng chưa hẳn đã chứng tỏ đó là người có trí tuệ(Ảnh sưu tầm)

Friday, May 18, 2018

TIẾNG CƯỜI ĐOÀN VIÊN (Khuất Đẩu)

Tiếng cười đoàn viên 
Khuất Đẩu
alt
Khi tôi vừa ăn xong mấy củ khoai thay cho bữa cơm chiều, thì một người cán bộ đi vào. Như những người miền Bắc tôi thường gặp, sau chiến tranh tràn ngập cả miền Nam, dù không là bộ đội vẫn thường mặc một bộ đồ màu cứt ngựa bạc phếch, nhàu nhò và đội một cái nón cối do Trung Quốc viện trợ. Bộ đồ ông mặc hãy còn mới nhưng vẫn không che giấu được vẻ buồn bã nhàm chán của một thứ quân phục được sản xuất hàng loạt. Ông cũng có một chiếc bị lủng nhủng những túi những dây gọi là ba lô con cóc (vì đeo lên nó giống như một con cóc khổng lồ). Ông mang một đôi săng đan bằng nhựa màu nâu nhạt, loại dép mới cũng do – ông Trung Quốc chi viện thay cho dép cao su.
Ông bước vào sân giữa lúc trời đang còn chút nắng nên mặt ông sáng lên với những giọt mồ hôi lấm tấm, nhưng hai nếp nhăn từ cánh mũi vòng qua cái miệng không râu lại sẫm đen giống như hai đường cày. Một cái bớt trên má trái giống như một giọt mực xạ bị bôi lem. Mái tóc cắt sát hai bên thái dương chỉ chừa một mảng trước trán như một cái lưỡi rìu. Cái mái tóc sắc nhọn giống nhau cả triệu người như một ấy, đã từng xuất hiện trong tết Mậu Thân trên các xác Việt cộng được kéo bỏ ngoài công viên thành phố. Tôi đã nhiều lần hoang mang tự hỏi không biết có ai trong số họ là cha tôi.
Ông đi qua sân không một chút ngập ngừng, rồi ông bước lên thềm quay mặt nhìn ra ngõ, hơi bất ngờ khi thấy mấy con “trâu máy” của hợp tác xã trên đường trở về đang kêu phành phạch thay cho tiếng nghé ngọ. Ông đặt ba lô xuống thềm, lọ mọ lấy điếu cày, xe thuốc nhét vào nõ rồi rít một hơi dài kêu roọc roọc. Ông tựa lưng vào cột, lim dim mắt, thở ra một hơi khói đậm và gắt. Cái vẻ tự tin yên bình, cái vẻ không xa lạ với cửa nhà vườn ruộng, cái vẻ của một người đi xa về lại nhà mình khiến cho tôi trả lời đúng chóc khi nghe ông hỏi:
  • Có biết ta là ai không?
  • Là cha, tôi nói.
  • Giỏi đó, con còn nhìn ra cha là nhà có phước.
Đó, cái buổi trùng phùng của hai khúc ruột lìa xa nhau hơn hai mươi năm chỉ có vậy. Không có chuyện mừng mừng tủi tủi. Không có một giọt nước mắt nào run rẩy nhỏ xuống. Cũng không oái ăm như tôi đã từng tưởng tượng mỗi khi nghĩ đến người cha chưa từng thấy mặt. Có phải vì chúng tôi là hai người đàn ông hay vì chúng tôi đã từng ở hai bờ chiến tuyến?
Tôi đã từng vẽ ra những cảnh cha con gặp nhau rất éo le, oan trái. Như lúc ông bị thương sắp chết sau khi nhận loạt đạn của chính tôi, hay lóp ngóp chui lên từ căn hầm bí mật dưới những họng súng sẵn sàng nhả đạn, trong đó có họng súng của tôi.
Hồi đó, tôi thường tự hỏi, trên cái dải đất mỏng manh hình chữ S này có bao nhiêu người cha và người con, người anh và người em, những người ruột rà máu mủ lại phải bắn giết nhau. Cả trăm, cả ngàn hay đến cả chục ngàn? Và vì sao bọn họ phải trở thành kẻ thù của nhau? Có phải vì chiến tranh quá dài và những kẻ cầm đầu hai bên quá hèn nhát hay quá thủ đoạn, hích vào đầu chúng tôi như bọn trẻ chăn trâu thúc sau đít để trâu bò húc nhau.
Lô lô ầm
Lô lô ạt
Thịt nạc dao phay
Con nào hay để lại cày
Con nào dở dao phay nước mắm…
Bộ máy tuyên truyền của hai bên cũng y chang như vậy đó, chỉ khác là được khuếch đại to hơn và bền bỉ sâu hiểm hơn mà thôi.
Giờ đây, tôi lại tưởng tượng khác. Nhiều người cha xấu hổ đã không muốn nhìn mặt con khi biết chúng đã từng “theo giặc cầm súng bắn vào nhân dân”. Biết con đang “học tập” họ chẳng những đã không ái ngại xót xa, còn bảo không bị giết đã là nhân đạo lắm rồi, hãy để nó học càng lâu càng tốt. Vì vậy, tôi chẳng mong gì được gặp ông một cách đề huề cảm động. Tôi chờ đợi những câu mắng chửi y như bọn họ, những người chiến thắng rồi mà vẫn chưa hết căm thù những kẻ thua trận là chính con cái anh em mình. Nhiều lúc tôi vẽ ra cảnh ông rút súng chĩa vào ngực tôi gào lên, mày là thằng bán nước và tôi nhắm mắt để cho ông bóp cò.
Nhưng bây giờ, “con còn nhìn cha là nhà có phước”, ông nói vậy là sao? Phải chăng ông cũng đang vẽ ra những cảnh trái ngang: con không thèm nhìn cha, hay lớn tiếng kết tội bỏ cả vợ con để đi theo Liên Xô và Tàu Cộng? Và như thế cả hai cha con chúng tôi đều vừa mong mà cũng vừa sợ cái ngày sẽ gặp lại.
Tôi mở cửa mời ông vào nhà, nhưng ông bảo ta muốn đi dạo một chút. Rồi ông đi quanh vườn. Vườn rộng, trồng rất nhiều cây ăn trái, nhưng đã già cỗi. Những mít, những xoài ngày nào giờ đã thành cổ thụ. Dừng lại bên cạnh một cây xoài ngã rạp chắn lối trước mặt, ông nói đây là cây xoài quỳ và quay lại hỏi tôi:
– Lúc nhỏ con cũng thường leo lên đây?
– Dạ.
– Con có bị bà bắt phạt quỳ không?
– Dạ có.
– Bà cấm leo trèo vì sợ té gãy chân.
– Dạ.
– Ta nhớ cái vườn này lắm. Ngoài đó làm gì có được cái vườn như nhà mình.
À ra vậy, tôi nghĩ, lúc nhỏ ông vẫn thường nghịch ngợm leo trèo và ông vẫn nhớ đến khu vườn xưa, ngôi nhà cũ chứ không phải chỉ nghĩ đến đảng không thôi.
– Ta cứ tưởng bị đốt phá hết rồi.
– Thế nhà ngoài đó của cha cũng có vườn chứ?
– Làm gì có nhà, chỉ có bốn thước vuông thôi. Chỉ rộng hơn cái áo quan một chút.
Cái giọng điệu chua chát từ miệng một người miền Bắc lần đầu tiên tôi mới được nghe, thật khác xa với giọng điệu huênh hoang tự hào của những “ông”, những “bà” cán bộ trong trại cải tạo hay những người miền Nam mới theo cách mạng.
Sau đó ông vòng ra giếng, cúi nhìn xuống sâu một lúc như tìm lại hình bóng mình rồi thả gàu múc nước. Ông xối nước rửa mặt, ngửa cổ uống một hơi, khà một tiếng: Nước giếng nhà mình ngon thiệt! Cái cách ông uống và khen cứ như vừa làm một cốc bia mát lạnh, khiến tôi rất xúc động.
Vườn nhà mình! Nước giếng nhà mình! Những tiếng ấy dường như được ông nhốt kín trong lồng ngực suốt hơn hai mươi năm, giờ bỗng vọt ra như những cánh chim đang bay vút trên bầu trời quê hương. Tôi có cảm giác sẽ còn được nghe tiếng “mình” thêm nhiều lần nữa. Nhà của mình, ruộng của mình, vợ con của mình… Những thứ “của mình” đó làm nên một đời người, vì sao ông lại bỏ tất cả để đi tìm những thứ rất chi xa lạ không phải của mình?
Lúc vào nhà, tôi cẩn thận đi trước, dặn ông coi chừng vấp phải ngạch cửa cao ngang đầu gối, nhưng ông bảo vấp làm sao được, ta thuộc cái nhà này như biết rõ trong lòng bàn tay.
Đèn được thắp lên, căn nhà đã một trăm tuổi hơn mở con mắt ngái ngủ của mình ra nhìn ông. Không biết nó nghĩ gì nhưng ông chủ của nó thì bồi hồi đứng nhìn trong yên lặng. Nào cột nào kèo, nào trính nào xiên, cái bàn thờ lạnh lẽo với những bức hình trùm khăn nhiễu đỏ, những tủ giường xưa cũ, tất cả đã bị mối mọt và nhất là bàn tay của con người làm cho xệch xạc méo mó. Ngôi nhà đã hai lần bị “mượn”. Lần thứ nhất, chính quyền cũ “mượn” làm nhà tạm giam những người tình nghi Việt cộng. Lần thứ hai, cách mạng “mượn” làm trụ sở ủy ban. Cứ sau mỗi lần bị “mượn” là tiều tụy xơ xác. Giá như nó là một người vợ đẹp mà bị “mượn” đến những hai lần như thế thì không biết người chồng sẽ đau khổ đến mức nào.
Đến trước bàn thờ, ông có vẻ muốn lật những tấm khăn nhiễu ra để nhìn lại hình những người đã khuất, nhưng tần ngần một lúc, ông lại thôi. Ông ngồi xuống cái tràng kỷ mà một chân sau được thay bằng bốn cục gạch. Tự nhiên ông trở nên bé nhỏ mặc dù ngọn đèn làm cái bóng của ông nở to ra, bôi đen cả chỗ ông ngồi. Ông có vẻ giống như một đứa con có tội đang ngồi lặng nghe những lời rầy la của mẹ cha. Phải chăng ngôi nhà đã một thời uy nghi lộng lẫy giờ suy sụp thảm hại là do ông đã bỏ nó mà đi? Bởi vì có ông thì ngôi nhà này ai dám mượn đến những hai lần. Và vợ có chồng thì ai dám thập thò tán tỉnh. Nói vậy thôi chứ trong những ngày cách mạng mùa thu, cả kinh đô nhà Nguyễn nằm soi bóng bên bờ sông Hương còn bị Bảo Đại “bỏ của chạy lấy người” huống hồ là ông.
– Cha chắc chưa ăn gì, tôi nói, – để con kiếm cái gì làm bữa tối cho cha.
– Khỏi, ông nói, – ta ăn quà rồi. Kiếm cái gì nhâm nhi thì được. Ta có hai chai bia đây.
Thật là bất ngờ, thay vì sẽ phải ngồi nghe ông tra hỏi, nguyền rủa, lại được cùng ông ngồi uống la de. Tôi quá vui nhưng cũng rất lúng túng, vì mới đi cải tạo về chưa được một tuần, biết lấy gì để làm mồi nhậu đây. Tôi loay hoay mãi, sau cùng đành chạy ra quán nói thật với bà chủ cho mua chịu mấy cái trứng vịt. Tôi không đủ dầu để làm món trứng tráng chỉ còn mỗi cách là đem luộc.
Khi trứng chín đã được bóc vỏ trắng muốt, tôi lấy thêm một chút muối tiêu, trịnh trọng bày lên bàn để mời ông. Lúc đó đã thấy ông để sẵn hai chai bia La rue hiệu con cọp, giờ là của hiếm. Hai chai bia được cột chặt vào nhau trông rất lạ, đem từ miền Nam “Mỹ ngụy” ra miền Bắc chống Mỹ anh hùng, rồi lại lộn ngược vào Nam, cứ như hai số phận long đong đã được an bài.
– Cái này, ông nói, – ta được phân phối đã hai năm rồi, để dành mãi đến ngày hôm nay đấy.
– Quán hết đá, cha chờ chút để con lên chợ.
– Khỏi, uống không cũng được.
Đó là đại yến mừng ngày đoàn tụ mà nếu cả tộc họ nhà tôi kể từ ngày lập làng còn sống, nước mắt tủi hờn chắc cũng đựng đầy hai chai la de. Cha tôi là người mà chính tôi có bổn phận phải lùng diệt. Còn tôi là đứa con đi theo “giặc” đáng nguyền rủa của cha. Số phận nào lại đưa chúng tôi đối mặt nhau một cách nghiệt ngã như thế. Ai cũng bảo là do lịch sử, nhưng cái con mãng xà dài cả ngàn thước ấy, ai đã nhảy lên lưng khiến nó lồng lên suốt mấy chục năm? Ai đã khiến nó nuốt một lúc hàng chục tiểu đoàn ở cổ thành Quảng Trị? Ai khiến nó đuổi theo cả vạn người di tản từ Pleiku? Nếu lúc này cha tôi cầm con dao đang thái trứng kia đâm thẳng vào ngực tôi cũng là do con mãng xà ấy sao?
– Uống đi cha!
– Uống đi con!
Uống để mừng cha con mình đã thoát khỏi cái tội ác lớn nhất trong đạo làm người vì chiến tranh quá dài đủ để cho cha con giết nhau!
Đêm hôm đó hai cha con tỉnh như sáo không phải vì bia ít quá không đủ say mà vì chúng tôi bàng hoàng nhận ra dưới đám lá mục của lịch sử, giấu mặt bao nhiêu là sâu bọ rắn rít, chúng tôi vẫn là cha và là con. Ông nói gần như suốt đêm về cái dòng họ Trần “rân rác” (ý nói danh giá), về lúa chín tràn bờ, về bắp trổ đầy soi, về những ngày giỗ chạp heo gà ngả hết con này đến con khác, về những xe trâu chở lúa từ đồng lớn, đồng dài kẽo kẹt suốt cả tháng, về bằng thành chung của ông (cả huyện chỉ có hai người đậu), về những ngày đầu cách mạng bà nội đã đem cả rổ vàng ra cúng vào quỹ cứu quốc. Nhưng tuyệt nhiên ông không nói gì về những ngày ông đi tập kết. Cũng không hỏi tôi đi lính gì, gây bao nhiêu “nợ máu” và phải học tập bao nhiêu năm mới “sáng mắt sáng lòng”. Và, im như băng giá ở Nam cực, ông không hề mở miệng ra hỏi nói gì về mẹ tôi. Tàu Titanic có ngày còn được khai quật lên để cho mọi người thấy lại cái bi kịch hàng hải đau thương nhất thế kỷ, nhưng cái mối tình mà từ đó mới có tôi sinh ra, đụng phải tảng băng của lịch sử (lại lịch sử) bị gãy làm đôi thì ông nhất định chôn chặt dưới đáy đại dương của lòng mình.
Hai năm trước ngày ký kết hiệp định Geneve, tôi được sinh ra với một cái bớt đỏ trên môi. Bà nội nói, cha mày cũng có một cái bớt trên má, nhưng xấu hơn vì là bớt màu đen. Bà nói như thể biết trước cuộc chiến tranh sẽ còn kéo dài và cha con chúng tôi có thể phải đối mặt nhau ngoài mặt trận. Cha tôi phải nhớ là đừng bắn vào đứa có bớt đỏ trên môi, còn tôi thì đừng bắn vào người có bớt đen trên má. Hai cái bớt ấy đã được tổ tiên nhà họ Trần làm dấu để cha con nhận ra nhau.
Mẹ tôi lấy chồng khác khi tôi lên mười. Tôi ở lại với bà nội. Điều ấy chắc làm mẹ tôi đau lòng lắm. Bà ôm tôi khóc như mưa. Tôi không biết gì nhiều về bố dượng, chỉ biết ông ở trong quân đội và cấp bực sau cùng khi Sài Gòn thất thủ là trung tá.
Nếu trên đời này có những người đàn bà rất tần tảo, rất giỏi giang, nhưng cũng rất đau khổ chắc phải kể đến mẹ tôi. Sau 1975, chồng bị bắt đi cải tạo, nhà bị tịch thu, con cái bị đưa đi kinh tế mới… Bao nhiêu tiền của dành dụm bị mất sạch khi đổi tiền. Vậy mà vẫn phải mua đường sữa, mắm cá đi thăm nuôi, hết lặn lội ra tận Bắc để thăm chồng sau, lại lộn vào Nam thăm con chồng trước. Như lúc này đây, nghe đâu mẹ đang ở Bắc.
Những điều ấy tôi muốn tâm sự với cha nhưng ông đã coi như không có người đàn bà ấy trên đời, thì tôi cũng đành biết vậy mà thôi. Ông ăn ít, ngủ ít, không ra ủy ban thôn, không lên huyện, lại càng không vào tỉnh và chưa hề hỏi han hay gặp gỡ những người bạn chiến đấu cũ nay đã là đồng chí bí thư này, chủ tịch nọ.
Có một lần, tôi rụt rè hỏi, cha cũng có gia đình ngoài đó chứ, thì ông bảo, hỏi làm chi chuyện đó. Hãy lo cho con đi. Con phải kiếm một người đàn bà mới giữ được cái nhà này. Ta có còn gì nữa đâu. Cuộc đời ta như một con cá, khúc ngon nhất là khúc giữa thì bị mèo tha chó đớp. Chỉ còn lại cái đầu và khúc đuôi, giữ lại mà làm gì.
Giọng ông u uẩn quá, nghe rất thương. Cái khúc giữa đời ông phải chăng là hơn hai mươi năm ông đi tập kết. Và trong hai mươi năm đó, với cái lý lịch con địa chủ chắc là ông đã run sợ xiết bao.
Đến ngày thứ năm, mẹ tôi từ vùng đất đỏ Long Khánh ra thăm. Bà được tin tôi ra khỏi trại cải tạo ngay lúc bà đến thăm nuôi. Khi nghe mấy tiếng đã được tha, không kịp quay về nhà, bà liền đón xe đi suốt đêm để ra gặp con. Lúc bà kêu cửa thì trời chưa kịp sáng.
Không như lúc gặp cha, tôi khóc nức nở khi gặp mẹ. Bà cũng khóc, nhưng tỉnh táo hơn, hỏi: “Khổ lắm phải không con?” Tôi lắc đầu, chỉ tay vào trong nhà, nói nói thầm vào tai bà: “Cha con đang ngủ trong đó”.
Tự nhiên tôi cảm thấy như đầu và ngực bà lạnh ngắt. Bà rời tôi, ngồi sụp xuống đất, cả người bà rung lên. Tôi hiểu bà đang cố kìm giữ tiếng khóc. Giá như có thể được, chắc bà đã kêu thét lên rồi.
Tôi dìu bà lên thềm, mẹ và con cùng lặng im ngồi chờ sáng.
Bên trong có tiếng ho nhỏ, rồi có ánh đèn lọt qua khe cửa.
Cha tôi bước ra sân, ngửa mặt lên trời, làm một vài động tác cho đỡ mỏi. Ông định đi ra giếng nhưng khi thấy mẹ con tôi, ông chớp mắt mấy cái, nói như thể hai người chưa từng xa nhau:
– Kìa, sao hai mẹ con lại không vào trong nhà?
Mẹ tôi đứng lên, một tay nắm tay tôi, một tay quệt nước mắt nói:
– Ông mới về?
– Phải, mới về được mấy bữa.
– Ông vẫn khỏe?
– Ờ, vẫn khỏe. Bà thế nào? Đường xa chắc là mệt lắm. Này Tân, con đưa mẹ vào nhà nghỉ, ta ra vườn một lát.
Tôi chưa bao giờ nghĩ tới lúc cha và mẹ gặp nhau. Mọi sự đã trôi qua rất xa. Phải nói là thật xa, tận trong mịt mờ của quá khứ. Liệu cuộc trùng phùng không được báo trước này có làm cho họ vì thế mà bớt xa nhau chăng.
– Mẹ chỉ mang theo đồ khô, chẳng có gì mời cha con ăn sáng. Hay là để mẹ lên chợ kiếm thứ gì.
– Thôi mẹ, chắc cha không thích bày vẽ. Mẹ có mì gói không?
– Có đây, để mẹ đi nấu nước.
– Việc đó để con, có cái chõng của con, mẹ nằm tạm mà nghỉ.
Một lúc sau, cha tôi vào. Ba bát mì bốc khói được tôi mang lên.
– Mời cha, mời mẹ, tôi nói.
– Mời bà, cha tôi nói.
– Mời ông, mẹ tôi nói.
Những sợi mì ngập ngừng trôi qua miệng cha.
Tiếng húp nước rụt rè chảy qua miệng mẹ.
Tiếng nhóp nhép trong miệng tôi.
Bỗng mẹ tôi đặt bát xuống mâm, nhìn thẳng vào mặt cha hỏi:
– Ông thù tôi lắm phải không?
– Không.
– Ông nói dối.
– Để làm gì?   
– Tôi biết, ông hận tôi. Nhưng nếu như tôi đợi ông đến hơn hai mươi năm thì tôi được gì?
– Tôi có muốn bà đợi tôi đâu. Chẳng ai đợi ai. Thành thực mà nói, tôi rất có lỗi với con và bà.
Đột nhiên tôi vọt ra câu hỏi suốt bao nhiêu lâu cứ đè nặng trong lòng:
– Cha có biết là mình lầm đường không?   
Cha tôi hơi bối rối nhưng cũng nói:
– Vấn đề là đừng hỏi biết hay không biết. Một người đã rơi xuống đáy vực thì có gào lên cũng chẳng ai nghe.
Tôi nói lớn:
– Vậy thì rõ rồi.. Xin cha và mẹ hãy cùng con ăn hết bát mì. Dẫu sao cũng là một ngày vui.
Chiều hôm đó mẹ tôi xuôi Nam.
Sáng hôm sau cha tôi ra Bắc.
Tôi còn lại một mình.
Thôi hãy lấy vợ, sinh con.
16/9/2010
———————————————————–
*Tựa bài mượn trong lời nhạc của Phạm Đình Chương:
Ngày nao tan đao binh
Mẹ bồng con sơ sinh
Chiều đầu xóm xôn xao đón người trường chinh
Ngậm ngùi hân hoan tiếng cười đoàn viên
Khuất Đẩu