Subject: Từ Bắc Kỳ di cư tới tị nạn chính trị
Tàn nhẫn, bẩn thỉu và sợ hãi, người dân miền Bắc Việt Nam buộc phải thoát khỏi cuộc đàn áp của Cộng Sản. Từ Tháng Tám, 1954, đến Tháng Năm, 1955, Hải Quân Hoa Kỳ đã giúp chở hàng trăm ngàn người dân di cư đến miền Nam tự do ở Sài Gòn. (Hình: Daniel M. Redmond/usni.org)
Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm di cư từ Bắc vô Nam, lang tôi xin ra ngoài lãnh lực y học, ghi lại vài hàng về biến cố đau buồn này. Để khỏi “Lạc Bất Tư Thục,” ham vui mà quên cả quê hương, bản quốc… Một quê hương còn nhiều tai ương.
Đang giờ học Việt văn của Giáo Sư Nguyễn Tường Phượng thì tôi được nhân viên Phòng Giám Học kêu xuống gặp người nhà. Tôi học lớp Đệ Tam ban A Trung Học Chu Văn An ở Hà Nội.
Tới văn phòng, tôi thấy bố tôi đang ngồi chuyện với thầy Vũ Ngô Xán và thầy giám học Vũ Đức Thận. Bố tôi quen với hai cụ qua người anh họ tôi là Vũ Ngọc Các, chủ nhiệm báo Dân Chủ ở đường Gia Long, Hà Nội. Bố cho tôi hay là đã xin phép hai cụ để cho nghỉ học sớm và theo ông về quê có việc.
Hai bố con về nhà tôi trọ để thu xếp đồ đạc rồi ra bến xe đò để về tỉnh Hải Dương. Trên đường đi, bố tôi cho hay là phải di cư vào Nam ngay vì Việt Minh sắp tiếp thu Hà Nội và các tỉnh ở bên đây sông Bến Hải.
Vào thời gian đó, tình hình chiến sự ở miền Bắc sôi động ác liệt mạnh mẽ. Đi đâu cũng nghe nói thấy sự rút lui của quân viễn chinh và quân đội quốc gia. Khi đó phương tiện là đài phát thanh và mấy tờ báo chứ đâu có Internet, truyền hình… như ngày nay, nên tin tức rất hiếm hoi, đôi khi chỉ là truyền khẩu.
Rất nhiều dân chúng ở Hà Nội và các tỉnh lỵ miền Bắc cũng hốt hoảng và sửa soạn thu vén di cư vào Nam. Ủy Ban Bảo Vệ Bắc Việt đã được thành lập song hành với Ủy Ban Di Cư.
Người dân miền Bắc Việt Nam di cư trên chiến hạm USS Bayfield để được đưa vào Sài Gòn, 3 Tháng Chín, 1954, tại Hải Phòng. (Hình: history.navy.mil)
Đường phố ngổn ngang những vật dụng mang ra bán. Những tủ chè, sập gụ, những lư đồng, bình sứ rồi quần áo gia dụng. Thôi thì đủ thứ. Ai ai cũng cố bán tống bán tháo để có chút vốn di cư. Đó là cuộc di cư vĩ đại của trên dưới một triệu đồng bào miền Bắc bỏ mồ mả cha ông chỉ vì không chấp nhận chế độ Cộng Sản ngoại lai. Họ đã nghe nói cũng như chứng kiến sự khắc nghiệt của chính quyền đối với dân chúng do chế độ kiểm soát. Những đấu tố, những thủ tiêu không nương tay, những kiểm soát theo dõi rất khắt khe.
Bố tôi làm việc tại Tòa Tỉnh Trưởng Hải Dương. Ông cũng chỉ là nhân viên phù động do quen biết chứ không phải là công chức chính ngạch. Xuất thân con nhà có chút ruộng đất, nên trước chiến tranh ông chỉ giao du hưởng thụ. Ông nội mua cho bố tôi chức Hội trong làng, nên cũng có một vài vai vế với chốn đình trung và ngoài xã hội. Theo anh tôi thì ông cụ cũng “phá gia chi tử” lắm. Thời đó làm gì có nhiều ngân hàng, chi phiếu thẻ tín dụng nên đỏ đen hết tiền mặt là văn tự ruộng đất nhà cửa được đưa ra để cầm bán.
Gia đình chúng tôi phải bỏ quê lên tỉnh làm ăn vì không thích hợp với “Kháng Chiến Địa Phương.” Ông bác ruột bị thủ tiêu chỉ vì giữ chức Cửu trong xã. Anh tôi khi đó mới 12 tuổi không sớm băng đồng trong đêm chạy lên huyện Nam Sách thì cũng bị bắt. Chồng của cô tôi bị bắt nhầm vì tưởng là bố tôi. Ông cụ đã về vùng tề từ mấy ngày trước. Lý do là họ nhà tôi làm chủ một số điền thổ trong tổng và được liệt kê vào hạng “cường hào ác bá.”
Hai bố con về tỉnh để sửa soạn ra đi. Chúng tôi phải xuống Hải Phòng để đi tàu thủy, vì khi đó chương trình di cư đang ở cao điểm cho nên di tản bằng đường hàng không trở nên hiếm hoi.
Những ngày nấn ná sửa soạn bán nhà cửa đồ đạc chờ ngày lãnh giấy lên tàu là những ngày rất dao động. Họ hàng dưới quê lên thăm hỏi, chia tay. Nhiều người nỉ non quyến dụ. Nào là đất nước thanh bình đến nơi rồi, tại sao không ở lại mà hưởng “tự do, hạnh phúc?” Rằng chính phủ rất khoan hồng, mọi người đều được tiếp tục làm việc như trước.
Bốn thủy thủ của chiến hạm USS Bayfield cầm biểu ngữ đón chào người dân di cư lên tàu vào Nam tại Hải Phòng, 3 Tháng Chín, 1954. (Hình: history.navy.mil)
Một bà bạn của gia đình có cô con gái rượu thì “cháu ở lại đi, mai mốt đất nước thống nhất thì tha hồ vào thăm Sài Gòn.” Ông chú ruột làm phát ngân viên cho Bảo Chính Đoàn được gia đình vợ hai móc nối ở lại, “cứ mang hết tiền quỹ về xây dựng sự nghiệp, giúp làng xóm, tha hồ mà sướng.” Nhưng bố tôi nhất quyết ra đi vì đã phần nào hiểu rõ bản chất của chế độ. Bà vợ kế của bố tôi ở lại với một đứa con gần hai tuổi và bụng chửa hơn bốn tháng, vì bố mẹ ở dưới quê muốn gắn bó với quê cha đất tổ.
Ngày ngồi trên xe lửa từ Hải Dương xuống Hải Phòng mới thực vất vả và chứng kiến nhiều bi hài kịch. Tàu đậu ở nhiều ga dọc theo đường số năm để lấy thêm khách, mà hầu hết là xuống Hải Phòng để vô Nam bằng tàu thủy há mồm. Cán bộ đia phương được tung ra để gây trở ngại ngăn cản lên tàu. Cũng có những chửi mắng “đi liếm chân cho đế quốc làm Việt gian cho giặc Pháp.” Rồi vứt đồ, đánh đập cho bõ ghét.
Làm thân rau muống Bắc Kỳ di cư ở trong Nam gần ba mươi năm, người dân miền Bắc đã đóng góp nhiều cho mảnh đất quê hương thứ hai. Và cũng đã hy sinh nhiều xương máu chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản. Nhưng kết quả là chỉ tránh được hiểm họa Đỏ cho một phần nhỏ của thế giới với cái giá là một lần nữa lại tị nạn vào phần tư cuối của thế kỷ hai mươi.
Từ Bắc Kỳ di cư tới tị nạn chính trị thấm thoát mà đã nửa thế kỷ, năm mươi năm, mười lăm ngàn hai trăm năm ngày dài đằng đẵng.
Về quê hương thì vẫn thấy ngậm ngùi chua xót. Những người vì hòa bình thống nhất lại miền quê thì đời sống không khác gì mấy, so với 50 năm về trước. Có chăng là ngọn đèn điện, chiếc ti vi, chiếc xe gắn máy. Vẫn quần quật giật gấu vá vai lam lũ. Vẫn chân đất với bùn lầy nước lỗ chân trâu. Ngày kiếm được 50 xu Mỹ là mừng rồi.
Ông chú đã sớm ra người thiên cổ, vì những nhiếc móc theo địch, hại nước, hại dân, tịch thu tài sản. Bà thím già nua, kèm nhèm quệt nước mắt với bầy cháu thò lò mũi xanh thì: “Giá mà ngày đó chú thím và các em theo chân bố cháu.” Cô em gái lao động ở Đông Âu để dành được chút tiền mở hàng xén cho qua ngày. Mấy đứa cháu chưa bao giờ biết mặt thì “chúng cháu theo giải phóng vào kiếm các chú thì các chú đã ra đi, không đợi chúng cháu đi với.”
Người di cư lên tàu há mồm tại Hải Phòng để được đưa vào Nam theo chiến dịch “Passage to Freedom” của Hải Quân Hoa Kỳ năm 1954. (Hình: US Navy Department)
Báo chí trong nước phản ảnh đầy rẫy những than phiền của dân chúng cũng như tuyên bố của viên chức chính quyền các cấp về tham nhũng cửa quyền, bất công xã hội, thất nghiệp, tệ đoan xã hội. Đã có những chương trình, đề nghị nửa vời, cầm chừng, trồi sụt thấy tháng như của bà mẹ nạ dòng sắp vào tuổi mãn kinh.
Khoảng cách giàu nghèo sao mà quá chênh lệch. Một bữa “chiêu đãi” cá sống Việt Trì bảy món với rượu ngoại của người giàu quyền thế tốn công quỹ quốc gia dành cho y tế cả dăm bảy trăm Mỹ kim như không. Trong khi đó thì ngân sách quốc gia dành cho y tế chỉ có 5 Mỹ kim mỗi năm cho một đầu người. Tư bản Mỹ thực phí phạm, bỏ ra những 2,000 tiền đô xanh.
Với cộng đồng tị nạn thì theo nhiều người, cũng có nhiều điều tưởng như cần làm, cần thay đổi, thích nghi. Chẳng hạn, có ý kiến cho rằng, sống trên đất nước mà quyền tự do, dân chủ được tôn trọng tối đa, chẳng lẽ lại cứ mãi mãi “Con đường của ta là duy nhất đúng. Mọi phương thức khác là chao đảo, nịnh bợ.”
Hầu hết những người theo bố mẹ làm Bắc Kỳ di cư rồi đứng mũi chịu sào đưa gia đình đi tị nạn chính trị ở ngoại quốc đang ở vào giai đoạn cuối của cuộc đời. Hôm nay ngồi lại với nhau, ôn lại ngày lẽo đẽo lên tàu há mồm vô Nam dọc theo bờ biển chữ S, rồi bồng bế con cái di tản bằng phương tiện tiến bộ hơn, mà thấy nao nao, ướt mắt…
Tương lai như chìm dần.
Thôi đành trông cậy ở thế hệ đến sau, trong và ngoài nước, nhìn rõ thực tại, nhiệt huyết hơn, thẳng thắn hơn, công bằng hơn.
Để xây dựng cộng đồng uy tín, quê hương có tự do dân chủ cụ thể, thực tế chứ không chỉ trên giấy tờ, văn bản. Dù là tương đối. Vì có còn hơn không.
Texas, Vu Lan 2004. (Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức)
No comments:
Post a Comment