Tuyển tập truyện Ký
Trôi theo dĩ vãng
Cao thy yên
Viết kính dâng hương hồn cố Trung tá Nguyên Bình Trung đoàn
Trưởng SĐ I BB Bị
Việt cộng sát hại tai trại Tù Tiên Lãnh 1978
Trên
ngọn đồi phía tây trại tù thôn 1 Tiên
Lãnh ,bỗng có 3 phát súng và tiếp theo sau là tiếng kẻng báo động ,các đơn vị
lao động lẽ quanh trại phải vào trong trại
và đóng cửa buồng . Yên lặng trở lại, ngồi
cạnh khung cửa sổ tôi nhìn ra phía cơ quan lực lượng vũ trang thấy bọn công an
bảo vệ đang tập họp .Giữa lúc đó tin bên ngoài Trung Quốc đang tấn công các tỉnh
phía Bắc trong căn phòng nhỏ anh em chúng gốm 12 người thuộc tổ chuyên môn làm việc riêng lẻ ngơ ngác nhìn nhau và
có liên tương một việc gì bất an sẽ đến với
những người tù chính trị ,mỗi người một
nhận định. Người bạn nằm cạnh tôi BS Phùng Văn Hạnh cải tạo với tội danh
Y sĩ Thiếu tá kê miệng bảo thầm tôi “”hãy đọc kinh ăn năn tội kẻo tụi nó bắn chết
tươi không kịp trăn trốị ,ông kể lại những thủ đoạn thủ tiêu tù chính trị của
chế độ Stalin thời cộng sản Xô-Viết . Người nhỏ tuổi nhất là Hồ Văn Sinh lúc đó
chỉ mới 22 tuổi các anh có trối lại gì thì để lại cho Sinh chuyển cho , Sinh
chưa muốn chết lúc nầỵ “Tôi xì một cái ”bộ
tụi chúng chừa mầy sao” ?
Sinh bảo chẳng lẽ chúng ta nhắm mắt cho họ hành xử hay sao,.? Có chết cũng bằm
thây một vài thằng rồi có ngũm cù tèo cũng hả dạ chứ và hơn nữa tôi còn muốn sống
để làm chứng nhân ; chúng ta có gần 1000
người tụi họ may ra chỉ bốn măm chục thằng
là cùng .Anh chàng xã trưởng” đầu bạc” phụ trách máy gạo nói nhỏ qua tai tôi
“lúc nầy đi lao động xa hết , chỉ có mấy thằng mình làm được
gì ? , chúng muốn thịt lúc nào chẳng được, chúng tôi thì thầm với nhau mỗi người mỗi ý,một điều
may là lúc đó anh chàng V ...đội trưởng (,anh nầy là tay chân của quản
giáo)không có tại phòng, anh ta theo đội 7
ra rẫy, cho nên không sợ mật báo , những tên
Juda nầy chúng tôi gọi là những tên thầy, bán Chúa
. chúng tôi suốt một buổi sáng được
nghỉ trong lo âu và sợ hải . Đúng 1:00 chiều tên công an trực trại vào gọi
tôi sang cơ quan ,trên đường đi hắn ta bảo:”
sáng nay nhà 10 đi vác củi có có
hai bông mai bạc và sáu bông mai
đồng ( có nghĩa là một trung tá và hai đại úy) đã tình nguyện theo Quân đội giải phóng
Trung quốc hắn
đùa vì lúc nầy Trung Quốc tấn công phía Bắc Việt Nam tôi hiểu ngay là ông ta gọi tôi giúp ông làm bản báo cáo trốn trại, khi lập xong bản báo cáo
tôi đọc lại cho ông ta nghe và ông cảnh cáo tôi không được tiết lộ ra ngoài
.Buổi chiều chúng tôi được phép xuất trại đi lao động bình thường trở lại và một
ngày bình an đã trôi qua trong phập phồng lo sợ,sau khi cơm chiều xong
chúng tôi theo hiệu lệnh 3 tiếng
kẻng phải tập trung ra trước phòng giam để điểm danh.Trong giờ nầy họ dùng hệ thống phóng thanh loan báo tin trốn
trại của Trung Tá Nguyễn Bình Trung Đoàn
trưởng Thuộc sư đoàn I Bộ binh và Đại úy Trần
Quy Đại Đội trưởng BĐQ, Đại úy Lâm Văn Chõi Tiểu đoàn trưởng địa phương
quân kèm theo những lời răn đe với những ngôn ngữ thiếu văn hóa ,tôi hậm hực
chửi thầm trong miệng, nhưng không dám nói nên lờị
Tối hôm đó
chúng tôi bò vào mùng sớm ,Hồ Văn Sinh chun chung vào
nằm với tôi và người nằm kế
là Phùng Văn Hạnh BS quân ỵ
Sinh hỏi nhỏ mấy
cha nội bây giờ chạy đến đâu rồi? Còn nằm trong rừng (tôi trả lời)
Sinh nói nhỏ vừa đủ nghe :” em có cho anh Bình cái họp quẹt
trên đó có khắc tên Đặng Thái nhà mình, rủi ra bắt lại ,anh ấy khai ra
vào cùm cả lũ, cầu xin mọi sự may mắn đến với các anh Tôi nằm yên lặng ,nhắm mắt
và cầu kinh ,lâm râm khẩn nguyện cho cuộc vượt thoát của những người đồng
cảnh trót lọt bởi vì chúng tôị đang chuẩn
bị đón hài nhi Giêsu giáng trần để cứu chuộc muôn dân….. .tôi cầu nguyện cho
chính tôi cho bạn bè,bằng hữu và nhất là cho những người tù khốn khổ không chịu
nỗi cảnh hành hạ phải chấp nhân hiểm nguy tìm đường vượt thoát hôm nay , xin
Chúa Hài Đồng soi đường dẫn lối
và chúc lành cho họ đến bến bình
an..
Mấy ngày tiếp
theo trong tuần đội bảo vệ An ninh chính trị Ty
công An Quảng Nam Đà Năng dùng chó đi săn lùng,nhưng không kết quả. Rồi
một ngày qua ..ngày qua vẫn im hơi vắng
tiếng.Chúng tôi những tưởng là các anh đã trót lọt lưới bọn Công An. Hôm ấy Chúa Nhật chúng tôi ở nhà nghỉ ngơi ,thằng
bạn học cùng lớp khi còn ở Trung Học với Tôi tên N.Thái là Trung úy biệt phái
nha tuyên úy Tin Lành Quân khu I , lẻn sang láng của tôi ăn trưa và khẳng định
các bạn ấy có thể thoát nạn truy lùng .Vì Thái cho
biết họ tổ chức từ lâu có bản đồ, la bàn dụng cụ mưu sinh v v v
lộ trình là lên núi cao định hướng đi về hướng Kontum và nhập vào biên giới Lào
tìm gia nhập lực lương Fulro hay vượt
biên sang Thái Lan tôi xì một tiếng và
nói nhỏ :Sao mầy không đi cùng họ” ?
-N.Thái trả lời yên chí lớn nếu tụi nó lọt thì mình
tính chuyện mình..
Tôi bảo mầy
có tin tao đị báo cáo để họ treo cổ mầỵ ? Tao thách mầy Ng Thái nói)
vì mầy là Thiên Chúa Giáo ghét mấy tên Juda hơn nữa
chúng mình có một thời gian dài chung lớp,chung trường nỡ nào làm chuyện
phi đạo nghĩa phải không? ( Autre temps . . .autre meur) mỗi lúc mỗi khác mầy hiểu câu đó chứ ? (tôi hỏi) Thái cười khề
mầy có thể hiểu rằng con người đến
một lúc nào đó không còn nghĩ gì cho
chính mình nữa không ? Tao không tin .Thái
tâm sự với tôi sở dĩ nó không trốn
đợt nầy là vì vợ con nó,chàng ta móc túi đưa cho tôi bức thư của vợ phía dưới
có mấy hàng chữ lơn do con gái nó
viêt cho nó,cháu mới học lớp mẫu giáọ .
Đọc xong bức thư tôi nhận thấy sự hy
sinh và sức chịu đựng của nàng quá to lớn so với chúng tôi trong tù.Bà ta kể những
khó khăn bất hạnh mà bà ta phải gánh chịu kể cả hai phía: gia đình và Xã hội,
phải nuôi con,nuôi mẹ chồng trả thêm phần
nợ của chồng là sĩ quan (ngụy)trong lúc túng bấn vì sinh kế
bị bọn công an kinh tế thu luôn cả vốn lẫn lời bởi không thỏa mãn theo yêu cầu dục tính của
chúng, giữa lúc tóc còn xanh má còn hồng. Hết đường cô phải đi bán máu mình lo
chạy thuốc cho con chỉ có 12.000 đồng
mua môt lọ thuốc ngừa bệnh” phong đòn gánh” mà chạy mượn chẳng ra. Tôi buông tiếng thở dài
và Lạy Chúa tôi có cách nào cứu vớt và giải thoát cho những con người khốn khổ
không còn lối đi và đất sống trên chính
quê hương mình .và tôi hiểu bạn tôi hơn
với lời chia xẻ..
Trời hôm đó
mừa mù chúng tôi nghỉ Lễ Giáng Sinh ,các buồng giam đều đóng kín cửa ,đa số thì
ngồi tiêu khiển qua các trò giải trí ,cờ tướng
,Domino , có người vá áo quần hay tán dzóc…..Đúng 11 giờ mới mở cửa cho
các phòng đi nhận cơm,nước các người già
thì ra sân làm một vài movement cho đỡ
mõi ; Trời vẫn mưa mù. Anh Trung Trynh
ghé phòng BS Hạnh xin thước dạ dày ngồi
chờ anh nói chuyện lung tung , hết chuyện
nói anh chàng nỗi máu thi sỹ anh ta ngâm
nga:
Trời buồn
trời đỗ mưa - con chim buồn con chim bay
cao – Ta buồn ta ta nghĩ mênh mang
Hồ Ngọc Châu
nhìn ra ngoài trời mưa thấy ông Hạnh đi
nhận thuốc ở trạm xá về và một cô nữ tù
đi theo để lấy phần thuốc cho trai Nữ
anh ngâm tiếp theo Trung Trynh:
Trời hôm nay mưa mù
giăng khăp nẽọ
Thương nhìn về cô gái bến Sông
Tranh (1)
Ông Hạnh bỏ họp
carton đựng mấy lọ thuốc xuống bàn đếm
thuốc giao cho trại nữ xong ông ta nói
với Hồ N Châu .Mầy sửa lại hai câu mới đọc thế nầy:
Trời hôm nay mưa buồn giăng khăp lối
Thương nhớ về một kẽ mới ra đi..
Tao ra trạm xá
nghe tụi Công an nói trung tá
Bình bị bắt lại và xử bắn rồị. Tôi hỏi còn Quy + Chõi thì saỏ ? không rõ, mình chỉ nghe vậy thôị . Thì ra khi trốn trại
họ đã tính rất kỹ lưỡng nhưng không ngờ khi chiến tranh chấm đút các láng
Thương di chuyển về chỗ cũ cho nên hôm ấy khi dừng nghỉ ở một ngọn đồi họ nhen
lửa để nấu ăn ,du kích làng Thương phát hiện thấy khói và báo đông dân làng ra
vây bắt hai anh.Lúc nầy sau khi ra khỏi trại cùm Đại Uy Quy
và Chõi kể lại rằng các anh định
dùng 1chỉ vàng để đổi cây súng
nhưng tên du kích không chịu .Họ bèn cướp
súng nhưng ngặt nỗi cây súng chỉ ngụy trang chứ không có đạn cho nên các anh bị bắt và giải giao lại cho Trại giam
Tiên Lãnh ,khi dẫn về gần trại Thôn 5 (Dốc Sơn đường về trại 5) thì tên Liên
Thượng sỹ từ phía sau bắn tới và Trung Tá Bình
trồng lên trước khi ngả xuống không kịp nói lại lời gì.Trung Tá Bình chết lúc đó chỉ mới 33 tuổi chưa có vợ ,thi thể giao Trại Thôn 5
chôn beb6 cánh rừng nơi ông chết không
hàm không vải .Nhà ông ở Đường Thanh Sơn Đà Nẳng ,sau nầy khi ra trại
tôi có ghé nhà nhưng đã bị Việt Công trưng thụ
Tôi nhớ
mãi tối hôm đó thú Tư ngày 24 tháng 12 năm 1979.Chúng tôi sáu người
gồm hai nhà
giáo,một Bác sỹ một Xã trưởng tôi và Hồ Văn Sinh ngồi nhìn trời mưa càng ngày
càng nặng hạt,không biết làm gì cho hết thời gian.Tôi xuống nhà bếp xin người bạn
tôi là tổ trưởng “cấp dưỡng” hai củ sắn đem về
mài ra và dùng lò lửa nâú kim chích của BS Hạnh nướng một bánh Giáng
Sinh .Hồ Văn Sinh ôm đàn và chúng tôi
cùng hát bài” Đêm Đông Lạnh lẽo Chúa Sinh ra đờỉ “ cùng những bài thánh ca khác
như Silent night… cùng chia bánh để đón
mừng Chúa giáng trần. Khi bẻ bánh nhà
giáo V.V.Phùng.. lấy một miếng để riêng
và đề nghị phần nây là chúng ta mời Bình
có linh thiêng về cùng hưởng reveilloner giáng sinh trong tù.Mỗi người
chúng tôi đều lặng thinh trong giây lác để cầu nguyện cho anh ấỵ Mỗi chúng tôi
mỗi người một tôn giáo khác nhau,Tôi thì thâm nơi vủ trụ nhật quang, anh yên
nghỉ có thể giờ đây anh đang hòa nhập với
không gian vô tân và nương theo mây trắng
về với quê hương và đồng đội bên kia thế giới,không còn phải chứng kiến cảnh
hành hạ mắng chửi của một lũ vô lương, bất nhân và nguyện xin thiên Chúa ngôi
hai cứu vớt linh hồn anh trong nước hằng sống,Phần chúng
tôi còn phải tiếp tục đi sưôt chặn đường còn lại đẻ có thể làm một chứng nhân
cho một thời kỳ đen tối của đất nước và tộc..
Chúng tôi mỗi người một câu
tạo thành một ca khúc :”gọi là Phóng khúc đêm Noel:để nhơ’ về một đêm Giáng sinh trong tù cũng như tưỡng niệm một
người bạn tù xấu số , nhạc sĩ trẽ Hồ Văn Sinh
người tù trè nhất trại Tiên Lãnh ôm đàn solpher và hát:
Đêm
đông mịt mù
Núi
rừng âm u
Có
một người tù
Về
cõi thiên thu
Đêm
nay lạnh lùng
Cùng ngồi vây chung
Xin
dâng lời cầu
Bằng
lời kinh chung
Người ơi – ngủ đi
Bên kia
bầu trời
Tên
anh ngàn đời…
(1) Tên con sông lớn của Tỉnh Quảng
Nam
BÊN DÒNG KÝ ỨC
Cứ mỗi lần khu rừng phiá bên kia nhà, cây cối trơ truị lá, chỉ còn lại những con
chim qụa cô dơn trên những cành trơ
trong buốt giá . Qua khung cửa kính nhìn
những giọt sương mai như lệ đêm thoát xác, như những hạt kim cương trong hừng
đông mỗi sáng,
lòng tôi nhớ lại như một góc quê hương
hiện diện trước mắt. Tôi muốn gọi thầm những dòng ông đang chảy trong hồn
, Ly Ly, Thu Bồn Hàn giang ….với những Trà mi Tiên phước Cửa Đại, Hội An - ĐàNẳng
với ngôi trường cũ Sao Mai ngôi trường ba từng nầy nằm bên bờ Sông Hàn chính nơi đây đã đào tạo tôi biết được lý lẽ
cuộc đời biết nhận rõ chân tướng cuả thiện , ác..Có người bạn
học cũ nhà thơ Vũ Hoài Mỹ, gọi
cho hay là ngôi trường sắp
bị xoá sổ để xây khách sạn. Thật buồn vô hạn ngôi
trường đã cho tôi nhiều kỷ niệm, có phải đối với CS chữ nghĩa không cần mà chỉ
có có nhiều tụ điểm ăn chơi cho đảng kiếm
tiền là trên hết . Một số chuyên gia
chính trị nhận xét về hiện tình xã hội Việt nam hiện nay:”yếu kém về Văn hóa, Y tế, xã hội nhưng lại
đứng đầu về tham nhũng” đúng như lời nhận xét cuả Hà sĩ Phu trong
: (Đôi điều suy nghĩ cuả một công dân): .Chủ nghiã vô hồn tạo ra một khoảng trống
ghê rợn.về Văn Hóa, lý tưởng và nhân cách. . Chữ nghiã ích gì thời buổi ấy “
Các lãnh đạo nhà nước Cộng sản không cần đòi hỏi về học thức mà chỉ cần tính trung
thành có nghiã là chỉ biết ”
cầm gươm ôm sung xông tới” bất kể đó
là nhân dân cuả mình.. Ngược lại các nhà lãnh đạo các quốc gia tư bản cần phải
có kiến thức phổ thông khả dĩ ít ra là phải tốt nghiệp Đại học, nhưng ngược lại
lãnh đạo Việt Nam một ông thử tướng 14 tuổi làm giao liên, 18 tuổi đi thanh
niên xung phong , rồi Công an Biên phòng
và cuối cùng làm Thủ tướng thời gian nào còn
để trau dồi kiien61 thức phổ thông,
nghe đâu ông cũng có bằng cử nhân; như vậy đất nước sẽ đi về đâu? Một nhà trí thức không nhớ rõ bên Pháp từng nói về
giới lãnh đạo đảng công sản Viêt Nam:( Les occupants des postes dans
l’administration ne brillent pas par leưr savoir ou leur competence, mais par
leur inculture et leur ignorance = những kẻ giữ chức vụ trong chính quyền không
sáng
giá về kiến thức và năng lực, nhưng lại tỏ ra càng kém văn
hoá và nhất là ngu dốt) Điễn hình nhất
là gần đây người ta bàn tán nhiều về những lời phát biểu cuả ngài cựu chủ tịch nước nói về Thánh
Gióng.. về tham nhũng) Cùng lúc một nhân vật cuả quân đội Trung Cộng , Tướng Lưu Á Châu bí thư quân
uỷ Bắc Kinh lại có cái nhìn khác,
ông lên tiếng cảnh báo Đảng
cần phải chọn người lãnh đạo có kiến thức như các lãnh đao các nước tân tiến , đứng đầu là Mỹ để canh tân và xây dựng
đất nước có hiệu quả hơn.
Ngày ngày đọc nhiều bản tin từ trong nước báo nào cũng
đưa tin về nạn tham nhũng đang hoành hành , chính ngài thủ tướng cũng đã lên tiếng cảnh
báo, nhưng không trừng trị . . Năm 1945 khi đồng minh tiến vào Bá linh ho gom thu tất cả chuyên gia trí thức để làm
giàu cho họ, còn Bắc quân khi cưỡng chiếm
Miền Nam họ tống giam tất cả chất xám Miền Nam vào tù cho đến xương tàn, thịt rửa để đến bây giờ 37
năm cây rừng đã thay bao nhiêu lá mà Việt
Nam một bài toán giải không xong, quốc gia
còn lạc hậu, dân tộc vẫn còn nghèo đoi….?Văn hóa suy đồi
,chính quyền bóm vào đám tư bản đầu
tư bán đất, bán biển, bán họp đồng để kiếm tiền chia chát cho nhau; xã hội thì
bỏ ngỏ các thông tin về bạo lưc, sex.. ngược lai ngăn cấm về những thông tin
văn minh bên ngoài, tuổi trẻ Việt Nam bị đầu độc bởi một nền giáo dục mà thầy lừa
trò , trò lừa cha mẹ lao mình vào nếp sống sa đọa thì tương lai đất
nước sẽ đi về đâu trước họa ngoại xâm ?
Nhân ngày Chúa nhật Muà vọng Giáng sinh , lục lại trong ký ức kéo theo cùng vận nước ;
nhớ lại những năm tháng trong chiến tranh, Gia đình tôi phái lìa bỏ quê cha nơi
chôn nhau cắt rốn, cái vùng đất nghèo nàn đã bị
chiến cuộc tàn phá và đã nhận lãnh không biết
bao nhiêu bom đạn có thể nói từng tất đất
là mỗi mãnh đạn , Vì nơi đây diẽn ra nhiều trận đánh ác liệt 1965 mỡ màn với liên đòan 61 Biệt
động quân , cùng với trung đòan 5 Sư đòan 2 BB Quân lực VNVH, địa phương quân,
nghiã quân đối địch với công trường 2 Bắc Việt và lực lượng chủ lực huyện ,
ngôi nhà ba gian mà cha mẹ tôi đã khom lưng cả cuộc đời tần tão để có được đã bị tiêu tan thành mây khói bởi bom đạn hai bên, vì chính ngôi nhà nầy
là Bộ chỉ huy Bắc quân trú đóng. và khởi
đầu đánh dấu một khúc quanh trong cuộc đời tôi . Mẹ tôi bóm ruộng vườn, cha tôi
dắt anh em chúng tôi chạy trốn giặc,
vì ông là một viên chức xã trong nền đệ
nhất công hoà. Từ một điền chủ cha tôi
phải làm thuê để nuôi hai con . Trà Kiệu ,Hội An rồi Hoà Khánh
là những nơi chúng tôi đã đi
qua trong cuộc chạy nạn nầy
Tết 1966 , cha tôi
tin vào lệnh hưu chiến cuả đôi bên , ông bường bộ trở về quê với mục đích bán
tháo ruộng vườn để lo cho anh em chúng tôi ăn học . Nhưng nào ngờ đây là chuyến
đi vĩnh viễn không trở về, Cộng quân đã bắt
giam và cuối cùng đã thủ tiêu bằng
cách chôn
sống trong một hố bom, mãi đến 40 năm sau mới tìm được mộ vị và cải táng. Do vậy mà anh em chúng tôi không có cơ hội bước
vào Đại học , tốt nghiệp trung học phaỉ vào lính theo tiếng gọi cuả đất nước và cuối cùng
chung số phận cuả quê hương phải
vào tù .qua biến cố 4/75
…….…….
Nhớ lúc đó cha trở về bán ruộng
Cho hai con ngày hai buổi
đến trường
Nào ngờ đâu giữa đường bị
chúng bắt
Đem đi đày đến thịt nát xương tan
Mồ vô chủ bao năm rồi hoang
lạnh
Xương đã tàn nơi rừng núi
hoang vu
Đã bấy nhiêu năm không
người chăm sóc
chạnh long đau qua những tháng năm dài
X
Và
từ đó con bỏ ghế nhà trường
bước vào đời làm lính giữ
biên cương
hoà bình về theo cha vào ngục tối
sáu, bảy năm trường dày vò thân phận
ngày trở về trái đắng trải đồng xanh
nhà cũ vườn xưa thay ngôi
đổi chủ
Mẹ cũng buồn rồi thác giữa
đêm mưa
…………………………… (
.. Tội tình )….
Năm 1979 lúc còn ở trong tù, khi Tàu Cộng tấn công vào phiá Bắc cuả Tổ
quốc. ,tin nầy được mấy anh em
theo xe lấy hang cho trại tù mang vào , một số anh em tù nhân muốn trốn thoát may ra tìm được ánh sáng cuối đường hầm. Trong chuyến trốn
thoát nầy có hai sĩ quan cấp uý và một Trung ta; trung đoàn trưởng , nhưng con
đường đi không trót lọt, quí anh đã vào nhầm một làng cuả người thượng
( dân tộc) và đã bị bắt gọn trại tù lên nhận lại trên đường
về trại bọn cai tù đã xả súng từ phía
sau hạ sátTrung Tá Bình và lấp xác bên bờ suối thuộc Xã Tiên Lãnh, Tiên Phước. Trung Tá Bình
nguyên là trung đoàn trưởng thuộc Sư
đoàn 1 Bộ binh. Bọn chúng giết người một
cách bừa bải nầy nhằm răn đe những ai muốn trốn thoát vì chúng sợ tù sẽ nỗi lọan.. Đêm Giáng sinh
năm ấy phòng giam chúng tôi thật buồn thảm nhóm chúng tôi nằm kề nhau , cưả
phòng đóng
kín mấy anh em ngồi quay quần đón Chúa
ra đời trong tù cùng nhau hát thánh nhạc và cầu nguyện cho người anh em vừa ngã xuống hôm qua Nhạc sĩ
H.V.S ôm đàn và nhóm ngũ quái
chúng tôi mỗi người một đọan tạo thành bán nhạc
:
Đêm đông mịt mù – Nuí rừng âm u – có
một người tù - ngủ giấc thiên thu
Sương
đêm lạnh lùng – mây giăng bịt bùng - Từng cơn gió thét – đau thương tột cùng
Thôi
ngủ đi anh - ngủ đi anh ,,một giấc bình
yên = bên lưng Mẹ hiền - cuối trời vô biên....
( phóng khúc đêm Noel)
Sau
ngày ra tù tôi trở về quê , nơi chốn sinh ra làm một con người mới , như một đứa trẻ thơ chỉ biết cuí đầu và nghe những lời phỉnh gạt . Có một ngày Giáng
sinh năm 1991 những người theo đạo Thiên Chúa được Ban Tôn giáo vận huyện tập trung cho học tập về chính sách tôn giáo
cuả nhà nước. Khởi đầu tên trưởng ban tôn giáo tỉnh thuyết trình thao thao về những đóng góp cuả đồng bào Thiên Chúa giáo vào
công cuộc xây dựng XH/CN. Trong phần giải đáp thắc mắc có một bà cụ người theo
đạo Tin Lành, bà nêu câu hỏi rất thực tế”:
“ Tôi nghe Cán bộ nói là đồng bào theo đạo Thiên Chuá đã đóng góp nhiều thành quả vào
công cuộc xây dựng XHCN. Như thế tại sao con tôi là con cuả một liệt sĩ, chồng
tôi là Cán bộ nông hội đã hy sinh trong chiến tranh, nhưng con trai tôi xin thi vào Đại học đem lý lịch cá nhân lên
Công An phê thì ông trưởng CA nói rằng “
theo đạo tin lành thì chỉ có đi chăn trâu mà thôi, tôi không tin mang lên hỏi
phòng tuyển sinh huyện họ cũng nói là như vậy: con bà theo đạo Thiên Chúa không
thể đào tạo lâu dài được. Như vậy thì đạo
Thiên Chúa xấu ở chỗ nào mà phải đi chăn trâu . Tôi nghĩ chăn trâu cũng có giá
trị cuả nó, chứ đâu có phải ăn cắp hay lấy vợ người ta “ cả hội trường cười ầm , tên Cán bộ thẹn quá ông xin phép ghi nhận câu hỏi và sẽ nhờ cấp
trên trả lời sau. Tiếp đến một ông theo đạo công giáo cho ý kiến rằng “ trước
đây tôi theo đạo công giáo , nhưng bây giờ xa nhà thờ quá nên tôi đã bỏ đạo xin
quí vị sau nầy đừng bắt tôi phải đi học tập nữa, Ôngt cán bộ bảo thế thì tốt lắm.
Một người khác lại hỏi lại . “ Tại sao ông gọi bỏ đạo là tốt, như vậy từ sang đến
giờ quí ông cho chúng tôi ngậm củ cà rốt bây giờ lấy gậy đập chúng tôi phải khổng”
. Tôi ngồi bên anh ta ghé tai nói nhỏ chỉ
vừa hai người nghe (hãy ghi nhớ lời ông TT Thiệu nói .. đừng nghe những gì……”)
Thôi biện giải làm gì, cư để cho hết giờ mà về duy vật biện chứng là thế đó ….
Biết mà không nói là kẻ ác ông biết không .? Tôi trả lời “ Tôi chỉ có tai để nghe, có mắt để nhìn
nhưng cái miệng bị bịt rồi” Ông Cán bộ hướng dẫn thấy tôi và anh ấy nói xì xầm
với nhau tưởng co; thắc mắc gì ông liền gọi tôi : “ anh gì ấy ơi , anh có ý kiến
gì thu họach không ? Tôi đứng dậy và lễ phép thưa rằng : dạ không có ý kiến ạ ;
ông nói anh nói gì bịt.. bịt tôi nghe
không rõ : Tôi thưa rằng anh ấy hỏi tôi
sao hút thuốc liên tục , tôi nói là trời sinh cái miệng để nói , nhưng tôi hay
nói bậy nên trời bịt miệng lại bằng cách phải hút liên tục để kẻo lỡ nói điều gì phạm chính sách thì khổ thân
. Ông ta cười thế cũng lả cách học tập tốt đấy
. Có một điều tôi ngộ ra rằng”: Học tập
dưới
XHCN thật là tự do , mỗ người
đêù mỗi cặp nói chuyện riêng Cán bộ ôm tài liệu đọc một mạch
xong là hỏi lại có tiếp thu được không mọi người thưa tốt là xong và cũng thú thật mấy ông ấy đọc cũng
có trời mới hiểu , hoặc Nhà thơ Bút Tre may ra mới cắt nghiã được ( Ví dụ (
….nhà nước ta đang . caỉ ( nghỉ một lúc)…………….tạo xã hội …….).
Lễ Têt của người Mỹ bắt đầu Giáng
Sinh trở đi cũng là ngày những ngày lễ
quan trọng nhất cuả những người Tây
Phương có dấu ấn rất an bình và hạnh phúc, là nhận lãnh ơn cứu độ..;.phố xá
giăng đèn đèn Từ Trung Tâm thương maĩ
New-York đến Thủ đô Hoa Thịnh Đốn cây
Giáng Sinh cao hàng
trăm fêet với hơn 3000 bóng đèn là nơi để cho những du khách chiêm ngưỡng và người dân tổ chức
đêm thánh. Trong một xã hội nhân bản mọi
quyền tự do được tôn trọng nhất là Tự do tín ngưỡng không những được tôn trọng đúng mức mà chính
phủ có trách nhiệm bảo vệ trong mọi nhu cầu về tổ chức khác với nhà nước cộng sảnVN mà tôi thường thấy:
Tại họ đạo cuả tôi Xuân Thạnh Quế Sơn,
không cho cử hành Thánh Lễ nửa đêm 24/12
mà chỉ đước cử hành trước 9:PM và lúc nầy cái loa bên cạnh nhà thờ cùng
lúc phát sóng cuả chương trình phát thanh hằng đêm nhằm phá họai đạo qua các bài viết ngụy tạo chỉ trích một số nhà lãnh đạo tôn giáo nhằm phân hoá niềm tin cuả
các tín hữu đối với các vị chủ chăn., họ tìm đủ mọi cách để tiêu diệt các tôn
giáo. Người Cộng sản có lắm điều khôi hài, rêu rao tự do tôn giáo, song lại cho
phép truyền bá tư tưởng duy vật chống tôn giáo. Marx phủ nhận Thượng đế, tôn
giáo là thuốc phiện , là lừa bịp..Chủ nghĩa tư bản Tôn giáo là cái mốc dể răn
đe, là toà án vô hình để hương dẫn nhân loại hướng đến chân, thiện ,mỹ, là
tránh điều ác. người cộng sản VN không tin vào sự trừng phạt cho nên tha hồ làm
những điều phi nhân, phi nghiã và dẫn đưa đất nước và dân tộc vào một thời kỳ
phá sản cả về luân lý và đạo đức. Thánh kinh Thiên Chuá
giá o có ghi là sẽ
có giáng thế 2( tận thế) dể phán xét, ngày ấy sẽ diễn ra khi nào trái đất có
những dấu hiệu, thiên tai, dịch bệnh,chiến tranh…; những tiên tri giả xuất hiện…
Hiện nay những khoa học gia cũng đã tiên đoán
trái đất bị hâm nóng băng hà ở
Nam,Bắc cực sẽ tan ra dẫn đến cho nhân
loại một cơn đại hồng thuỷ thứ hai , những
động đất tại Hiti, Tân Tây
Lan , lụt lội tại Úc, bão Sandy tại
Mỹ…
có phải là một cảnh báo trước
Trong thánh lễ Giáng
sinh tại họ đạo của tôi rơi vào tuần cho nên đồng hương lương giáo đều đến tham dự
nhà thờ không còn chỗ chưă phải đứng ngoài hành lang. Họ đến để tham dự đêm
canh thức Vọng Giáng Sinh và nghe thánh nhạc , phải là đêm cực thánh , đêm cuả
ơn cứu độ , bài Silent Night được cất lên trong tiếng dương cầm du dương trầm bỗng
cùng với tiếng chuông ngân thánh thót giữa đêm đông giá lạnh “”Đêm Đông lạnh lẽo
Chúa sinh ra đời… “ Sau phần thánh nhạc là phụng vụ lời Chuá, trong phần “ Lời
nguyện giáo dân , người phụ trách đọc đến
phần cầu cho Tổ quốc có đọan : Xin
Chúa ban phúc
lành cho những nhà lãnh đạo VN được ơn an bình,………”
một niên trưởng ngồi cạnh tội ông hậm hực nói nhỏ nhưng có nhiều người nghe:’
.. tống cổ tụi nó xuống chứ cầu con mẹ gì” Xong lễ trong phần tiệc
Réveilloner tôi tâm sự với ông rằng :’
năm rồi có một linh mục từ VN sang ghé thăm tôi, ông cũng là tù nhân chính trị
bị bắt 1974 và sau 75 ông được thả về tôi hỏi ông về tình hình chính trị và
sinh họat giáo hội VN , ông nói rằng “ cộng sản là cái roi Đức Chúa Trời đánh
vào tội lỗi dân tộc ta, bởi vậy phải gánh chịu, v ề phần tôi là Linh Mục cũng
luôn cầu nguyện cho Đảng biết tôn trọng những quyền lợi thiêng liêng cuả con
người , đó là ân sũng cuả Thượng đế ban
cho và phải biết dặt quyền lợi cuả đất nước lên trên quyền lợi cuả đảng chứ biết làm sao trước họng súng .. , người Công giáo sống bằng
lời cầu nguyện. Tôi rất cảm thông với vị Niên trưởng vi ông nguyên là Trung tá
QLVN-CH bị câm tù 13 năm tại Miền Bắc. Ông hỏi tôi có bao giờ đọc E.M.
Remarque trong The Night in Lisbon” Khi thế giới còn những bọn dả man tàn bạo,
mà mình còn khả năng chống lại mà không làm đó là tội ác biết không ? Tôi rất tâm phục cõi lòng cuả ông , cuả một quân nhân VNCH. Ngược lại có những
người trước đây là người đứng đầu một tổ chức hay điều hành cuộc chiến
bảo vệ Miền Nam lại có lời cho rằng chúng ta lên án Việt Cộng có vội quá không
?, vì họ cũng yêu nước.
Trong quần đảo ngục tù cuả Solzenitsyn ông khuyên đảng Cộng sản Liên Xô rằng “ Dẫu cho XHCN có
tốt đẹp đến đâu mà phải xây dựng trên ngần ấy máu xương và nước mắt cuả dân tộc thì có đáng lắm không? Đảng CS liên Xô đã gíác ngộ và cuối cùng phải sụp đỗ
vào 1990 mở đầu cho cả khối CS Đông Âu
theo chân.
Chúng ta cầu
nguyện cho người dân Việt Nam biết theo chân
dân tộc Liên Xô và các nước Đông Âu mà vùng lên đòi quyền lãnh đạo đất
nước như dân tộc Ba Lan tháng 4/89 Hy vọng bình minh sẽ ló dạng trên que hương một
ngày không xa
André Gide nói
rằng con người phải vươn lên theo ý hướng
cuả mình ( Que chacun suit sa pente, mais en momen) Xin tỉnh thức hởi quê hương yêu dấu. và dân tộc mến
yêu..
Tacoma Muà
Giáng Sinh 2011
ĐÊM
TRẮNG
Cao Thy Yên
Chiều
cuôí Đông Thành phố Sai gòn lên đèn rất sớm, mặc dầu phiá Tây mặt trời chưa
chen vào nuí. Đứng trước hành lang Bưu điện trung ương Saì gòn , tôi nhìn sang
dinh độc la , nơi tập trung quyền lực cuả VNCH trước 1975, Dinh thự nầy
nay đã đổi chủï, lòng buồn nhớ ;
những tiếc nuối cho một thơi liệt oanh nơi vùng đất ấy chốn quê xưa, trong tuổi
thanh xuân đầy dẫy hiểm nguy, tang
thương và quá đỗi nhọc nhằn, nhưng ta đã tìm ra chính trong những khổ đau khốn
khó ấy niềm hạnh phúc êm đềm bên đồng
baò, đồng đội mà tất cả đã quyện nhau chiến đấu và đứng vững bên bờ sống chết
, bên bờ vực thẳm hiểm nguy bằng một thứ
tình cảm tuyệt vơì trong sáng : đó là
tình quê hương , tình bè bạn và nhất là
tình đồng đội đã dành cho Tổ quốc mến yêu.
Hai mươi năm một chuổi ngày daì cuả Miền Nam kiên cường giữ vững
cho Saì gòn hòn ngọc viễn đông ngạo nghễ sánh vai cùng bè bạn năm châu; mà bây giờ đã thay tên
đổi họ và chỉ còn caí tên trong kỷ niệm, biết ngày nào Saì Gòn được phục hồi
tên tuổi như Volgagrad hay
Peterburg ? ?? ( 1)
Ngày
mai đây
ta sẽ bỏ người mà đi, con đường phía trước vẫn là
một bóng mờ trên bước
Lưu vong nơi vùng đất lạ chưa một lần mơ
đến Màn đêm đã xuống bao giờ;
phố xá thật ồn aò náo nhiệt cuả
những ngày cuối năm.
Tìm một chiếc ghế ngồi chờ thằng bạn đi nhờ
cơ quan chuyển dịch các văn kiện bằng Anh ngữ để gởi tôi mang sang cho gia đình hiện định cư bên Hoa Kỳ; châm không biết bao điếu thuốc ngồi nhìn trời, nhìn dòng người xuôi ngươc cuả quê
hương qua lại và chiêm nghiệm đoạn đường đã qua mà ta đã
đi trong những bước truân chuyên mãi hoài chưa tói đích , cuối cùng vì vận nước
hẩm hiu phaỉ đành đọan chấp nhận cuộc ra đi, mang theo những
ngậm nguì chua
xót trước nghịch cảnh trái ngang cuả
một canh bạc chưa chơi mà đã
cháy tuí. Anh ta trở lại lúc nào , ø
vì maĩ nghĩ suy mà tôi không hay
biết,. Nó cất tiếng :”
Thôi về
chứ ! tôi bật dậy như điện giật và
chúng tôi về đến nhà trọ lúc 10
giờ tối . và chuẩn bị cho bửa cơm Việt Nam cuối cùng với bà con ,bằng hưũ trước lúc chia tay . Thật diệu kỳ đúng tối
ấy là đêm giao thừa năm dương lịch (
(94-95) và là năm cuối cùng bạo quyền Hà Nội sẽ cấm không cho đốt pháo, bởi thế người ta
mang hết ra để chơi một lần cạn
tàu, raó mán như nổ tung sự nghiệp và cháy rụi niềm tin trong bóng tối quê
hương, để rồi ngày mai và maĩ maĩ không
còn được nghe tiếng pháo đêm trừ tịch ,
caí thông lệ vốn có tự ngàn xưa .. cuả phong tục Việt . Đoàn Ngọc
H.. . sau khi được thả về sau 16
tháng tù , hắn ta hợp tác với một người bạn
tù về hành nghề pháo tại Nam Ô
, Hòa Vang , khi nghe có
lệnh đình chỉ việc sản xuất pháo
; nó gom góp số vốn còn lại vào Lâm Đồng mua mấy sao đắt trồng chè (trà) để kiếm
sống, hắn ta than thở có vẻ tiếc rẽ. , Nhưng Võ Thanh L.. ù
tiếc làm gì ? mầy biết không . taị sao
hoà bình mà không cho đốt phaó: taị vì tuị
chúng run sợ
trước sự sụp đỡ cuả bức tường Bá
Linh, Liên Xô của
Đông Âu … sợ VN rồi cũng chung số phận…
.
Đúng 11 giờ
pháo bắt đầu nỗ vang và sáng rực
khắp phố như trút hết tâm can một lần
sau cuối , tôi có linh cảm như chính
bản thân tôi là cô dâu ngày mai sẽ bước lên xác phaó theo chồng về xứ lạ
. Chúng tôi quây quần trên một tấm chiếu đặt dưới
nền xi măng ,thức nhấm mỗi đứa tự mang đến để
cùng nhau đánh chén ly bôi và tâm tình một lần sau cuối cùng tôi trên quê hương ngàn đời yêu dâu , một lần được
ngồi cùng nhau ôn lại caí thuở vàng son
của tuổi học trò và ngoaì kia pháo vẫn nổ liên hồi .
Đến
khi pháo giao thừa ngưng , là
lúc chúng tôi hơi men đã làm chủ.
Thật một kỷ niệm khó quên Thằng Xuân…
một giáo sư Triết..bị thất sủng sau ngày giặc đến
Tháng 4/75,mất
dạy di lang thang nghêu ngao khắp Saì gòn, lục tỉnh như một người mất trí
May nhờ
một người con gaí và cũng là người bạn đời sau này của hắn đa cưu mang và đưa hắn thoát
ra khỏi vòng lẩn quẩn ,đứng dậy làm lại cuộc đời , họ hợp
thức hóa hôn nhân và dựng một quán ăn
trên đường Âu Cơ . Hắn
gõ đuả trên vành chén ngâm nga
baì Hồ trường
Cuả Tiêu Đấu Nguyễn Bá Trạc. . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Vỗ gươm mà hát,nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang,ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường
Hồ trường,
hồ trường- ta biết rót về đâu > ? ?
.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
chén tri kỷ chúng tôi uống đêm
nay như một lần ngồi lại để dựơc nhìn
nhau và nói chuyện thoả maí trên quê hương sau ngày giặc đến .Hắn ngâm xong bỏ đuã và
nói tiếp:
<< tuị tau còn ở laị chỉ có
đầu để gật, có tay để nắm cuốc, nắm cày, có đôi vai để gánh trọn đắng
cay và có đôi chân để kéo lê cuộc đơì khổ aỉ
trong cái thiên đừơng nầy
, mầy được giải thoát ra ngoài
vòng tăm tối mịt mù nầy ; tụi tau chúc mầy
va gia đình thượng lộ bình an và dựng lại cuộc đời mới phía trời Tây
và ở đó có thể là một chiến trường hoàn toàn mới lạ đối
với mầy >>
Tụi chúng tôi
năm đứa cùng chung
nhau dươi mái trường trung học . một thời vàng son trong
tuổi học trò và đời linh chiến , rồi rã gánh , tan hàng theo mệnh nước; mỗi đứa mỗi nơi trên vạn
neõ đường đất nước , mỗi dứa có mỗi điều kiện sống và hoàn cảnh khác
nhau sau năm 1975, nhưng hầu hết la những con chiên ghẻ cuả xã hội mới , có những đắng cay naò mà họ chưa
từng nhấm qua trong cuộc mưu sinh trầm luân khổ aỉ.. Tôi như đứng giữa ngả ba
đường cuả những dòng suy tư cho mình cho cả
quê hương , cho bè bạn dưới vòm trời đầy ắp những kỷ niệm vui
buồn một thời đã qua và tôi sẽ gom
góp tất cả kết lên
boong tàu giả biệt làm hànhn
trang trong cuộc hành trình mới nầy,
chúng tôi đã trút hết tâm tình cho nhau từ thượng vàng đến hạ cám, quá khứ vị
lai..và cuộc ra đi nầy không phải
là một chọn lựa, dúng hơn là cuộc chạy trốn(escape) vì hai chữ
tự do .
Đúng 1
giờ sáng ,có tiếng gõ cửa Trần Kim Ng..một quan 3 Hải quân trốn “cải
tao” ra mở cửa không ai xa la đó là Phan
Văn Th..,quan 1 binh chủng truyền tin( tù thiếu thước) hắn
đèo theo một cậu thanh niên khoảng
30 tuổi . Cậu tạ chắp
tay và thưa :” chaú chaò các bác ạ “ Tụi
chúng tôi hay bị dị ứng bởi gịong Bắc
vì e sợ những anh Bắc Kỳ
75 thì không mấy ưa . Thằng Đoàn Ngoc
H.. mở miệng ‘
không biết cậu là bắc aó đỏ hay là Bắc
aó xanh , (vì sau 1975 người Miền Nam thường gọi Bắc 54
là aó xanh và Bắc 75 là aó đỏ “) . Phan Th baỏ
nó là loại đỏ vỏ nhưng xanh lòng các cụ yên trí.
Cậu ta tâm sự “ cháu là con
của một cưụ chiến binh đã chiến đấu
qua ba thời kỳ. Bây giờ ngồi ở viã hè Hà
nội vá xe đạp kiếm sống qua ngày bên cạnh những con ông cháu cha tiêu tiền như nước, còn cháu là một Y sĩ sau khi
tốt nghiệp vì không có tiền chạy
lót phải được cắt
cử làm công tác diệt trừ sốt rét Miền
nuí với mức lương bèo không dủ hút thuốc lá. Cháu bỏ vaò Nam làm đường dây cao thế với một người bạn kỷ
sư và bây giờ theo anh Th . làm nghề khai thác gỗ . Thú thật cháu đã chán ngán caí lý thuyết caí gì gọi là duy vật biện chứng, duy vật sử
quan.. vạn vật tương quan , caí gì là xã hội
CN hay CS chủ nghĩa hoàn toàn là
những điều hoang tưởng: Bơỉ vì chủ nghĩa
Cộng sản lấy tiền đề lỗi thời làm đối tượng đấu tranh . Vì thế không có nơi nào trên thế giới đã áp dụng
thành công chủ nghĩa Cộng sản. Cho nên cháu biết các chú không sai lầm, và thật tế nhất ta hãy nhìn Nam và
Bắc Hàn ; Đaì Loan và Trung Quốc . Những
người Miền Bắc bị bịt mắt trong suốt 20
năm, khi tiếp quản Miền Nam họ mới
vỡ lẽ… Do vậy sau thời gian sống làm việc
taị Miền Nam cháu đã học hỏi và biết
thêm những thực tế cuả một thể chế mà từ trước tụi cháu bị mê hoặc bởi một hệ thống tuyên truyền lừa bịp nay thì ngược laị ..Hiện nay taị Miền Bắc có rất nhiều trí thức trong hàng ngủ đảng đẵ thức tỉnh
vì đã hy sinh và cống hiến công sức
cho một chế độ phi nhân phi nghĩa.
Trong đó có Lý thuyết gia Marx Lénine
Giáo sư Trần Văn Giàu có lần
đã than rằng <<Tôi là thằng đã từng dạy chủ nghĩa Marx Lénin hàng
ngàn lần , nhưng cũng chẳng biết giảng thế nào, đớ là một học thuyết thầy chẳng
muốn dạy , trò chẳng muốn học >>
Chúng
cháu bị giáo dục bằng những hận thù và ghen ghét trong suốt tuổi học trò . Nhưng nhờ các chú , nhờ Miền
Nam đã làm cho cháu được
biết đâu là chính nghĩa , đâu là
phi nghĩa.
Sau khi
nghe cậu ta nói qua về quá khứ của y, chúng tội bán tín , bán nghi nhưng mặc kệ
cứ uống và trò chuyện thật lý thú
. Thằng Th giật cây đàn trên tay tôi , so giây
dạo baì “ Baì học đầu tiên “ phổ thơ Đỗ Trung Quân và cất tiếng ….
Quê
hương là gì hở mẹ ?.... Ai đi xa cũng nhớ
về
.. . .. . Quê hương là đường đi học . . Con
về rợp bướm vàng bay
. . . . . . . .Quê hương là con đò nhỏ . .. .êm đềm khua nước ven sông
. . . . . . . .
.Quê hương nếu ai không nhớ . Sẽ không lớn nổi thành người.
Tuy không phải
là ca sỹ , nhưng trong lúc nầy tuị tôi cảm
thấy âm thanh cuả nó đã vổ cánh bay lên giữa không gian của Saì gòn ồn aò đêm
Tân Niên . Thằng Xuân gõ nhịp
trên vành cái thau nhôm hắn dừng
lại khi baì hát chấm dứt và bảo “ cho mầy độc diễn đêm nay…”
Hắn biết chúng
tôi thích nghe nhạc thính phòng cho
nên nó ca những baì phổ nhạc cuả Phạm Duy phỏng theo
thơ của Apolinaire , Paul Verlaine và nhất là baì << Tiển
em >> cuả nhạc sĩ họ Phạm
phổ thơ Cung Trầm Tưởng cho tôi cảm nhận
được caí gía buốt cuả muà Đông Bắc Mỹ
nơi mà tôi sẽ đến trong ngày mai:
. .( . Tuyết
rơi phủ con taù .. Ga Lion đèn mờ )… chập chờn một nổi xót xa trong âm thanh viển
mơ đó.
Đúng
2:30 sáng có tiếng ồn aò từ ngòai cưả
tiếp đến là tiếng gõ cưả .
Tôi chửi thề …
Trong bụng !
không biết giờ nầy đứa naò đến nữa
đây.. ? Cưả mở
thì một toán Công an và du kích
vây phía chung quanh nhà trọ. Chúng bảo
:’ mọi người đứng yên tại chỗ đẻ chúng tội làm nhiệm vụ” một người cao
nhưng ốm teo có lè chef bảo chủ nhà cho xem
hộ khẩu , bà chủ nhà là vợ cuả thằng bạn tôi đêm đó
có chuyện cần nên ông ta rời nhà lúc
12:00. Bà trình tờ khai gia đình , xem
xong và trả lại, hắn ta baỏ
“ Thế thì các anh cư trú bất hợp pháp và tụ họp trái phép“ mấy thằng bạn tôi đều cư
ngụ Saì gòn chỉ riêng Thằng Liêm giáo sư sử địa cũng bị “mất dạy” .. không
có giấy tờ cư trú hợp lệ . Tôi trình bày mọi sự việc và gia đình tôi đến cư ngụ
tại đây có trình giấy xin tạm trú cho chủ nhà
Tên Công An
khu vực bảo không có:
bây giờ ông phải đóng tiền phạt mỗi người là 20.000 đồng . Sở dỉ có việc kiểm tra nầy là vì tôi bị đổi chuyến bay cho nên hôm đó dịch
vụ lo phương tiện , tìm điạ chi của
tôi để thông baó không được , họ đến hỏi Công An khu vực cho nên tối đó họ đến kiếm chát .
Thực sự lúc đó tôi cũng không còn tiền
, bà xã tôi chỉ giữ 20 Dollars
để làm lộ phí , tôi trả lời : tôi
không còn tiền vì ngày mai tôi đã rời khỏi
chốn nầy ,chúng tôi tranh luận qua lại rồi họ
đòi đưa chúng tôi ra phường , tôi cương quyết không đi vì tôi đã làm đủ
các thủ tục xin tạm trú giao chủ nhà
sáng mai ông ta về quí ông hoỉ lại
thì rõ , hơn nữa gia đình tôi
đã có lệnh xuất cảnh
trong chuyến bay trưa ngày mai
cho nên vấn đề sức khỏe của người
nhà cần được bảo vệ
, cuối cùng họ đòi
thu tất cả giấy tờ ngày mai đến phường
giải quyết. Tôi nhất định không
giao vì nếu giao ngày mai tuị chúng
đòi cả triệu bạc lấy gì mà trả.
Hôm đó mấy đứa con và gia đình tôi nằm
ngủ ở trên gác leo lên bằng cái thang
, sau khi lên thì dẹp
cái thang là xong chuyện cho nên
họ vẫn ngủ yên chẳng biết gì về chuyện xét nhà.
Tuị
chúng vẫn khăn khăn đòi phạt tiền về tội
cư trú bất hợp pháp . Tội bực và trả lời
“” tôi là người Việt Nam cư trú trên đất
nước Việt Nam taị sao là bất hợp pháp “
cho nên các ông chờ ông chủ nhà về rồi hẳn hay .
Không biết bà chủ nhà nói gì vơí
ông khóm trưởng và hắn ta baỏ , thôi
ngày mai ông chủ nhà đến phường để giải quyết. Bà chủ nhà ký Biên bản
và chúng rút lui trong trật tự . Tôi nhìn đồng hồ đã 3 giờ sáng , vặn bếp châm ấm trà ,lúc nầy cả bọn
dường như đã tỉnh rượu . Bay đưá
ngồi uống trà nhìn nhau mà không nhắc đến chuyện vừa xảy ra. Tôi nhắm mắt như để ghi vào ký ức hình ảnh cuả
những thằng bạn thân quen một thời đèn
sách …. Và thế là chúng tôi < Trắng đêm >
không ngủ ( Blanc nuit )
Nhưng vẫn nói
chưa hết những gì thường
xãy ra trong cuộc sống hằng ngày trên
xứ sở mà người ta gọi là nghịch lý nầy
vì có lăm chuyện thật buồn cười
….Có tiếng kẻng cuả người lâý rác ,
chúng tôi mở cửa và trời đã sáng dẫn nhau ra quán café rồi tan hàng.
Sáng
hôm sau ra phường tôi sợ
chủ nhà bị đóng tiền phạt cho nên tôi đi theo, nhưng
không phaỉ ông ta có đến khu phố nơi khai báo và nọp giấy xin tạm trú
cuả tôi có ghi trong sổ, nhưng vì thay đổi nhân viên không bàn giao . ông mang
sổ ra phường và mọi việc đều êm xuôi. Tôi trở về thu xếp hành lý và kiểm
tra giấy tờ tùy thân giao cho mỗi đứa
con ./
Chuyến
xe chở 12 người đưa gia đình tôi đến phi
trường dọc theo đường Lý Thường Kiệt , rồi qua Lê Văn Duyệt (cũ) người Saì gòn đã baỳ bán đồ Tết khắp nơi ; naò bánh mức,
tiếng rao inh ỏi , người xe tấp nập ;
chợ hoa muôn sắc , nhưng họ có biết đâu có một người đã bỏ nước mà
đi giữa buổi Xuân về , Tết đến mang theo
bao nổi nhớ thương vô bờ .
Chúng tôi đã làm thủ tục ký gởi hành lý trước đó
ba ngày do vây còn
nhiều thì giờ trò chuyện ngoài
hành lang phòng đợi và đủ thì giờ chụp một vaì tấm hình lưu niệm cùng bạn bè và người
thân. Trước khi vào phòng cách ly.
Chuyến
bay khởi hành lúc 1:30 PM . 1/1/1995 gia đình chúng tôi 7 người
đi bộ ra phi đạo và lên thang máy bay
Đứng trên sân
thượng phi cảng Tân Sơn Nhất nhìn xuống,
những người than và bạn bè cùng vẫy tay chào nhau , lòng buồn rũ rượi có lẽ tôi
đang khóc , khóc cho thân phận quê hương
đen tối , khóc cho những đồng đội bị ngược đãi phải cù bất cù bơ lê tấm thân
tàn phế trên khắp phố , khắp phường ,
khóc cho những người thèm khát tự do ,
khóc cho đất nước có 4000 năm văn
hiến mà nay trở thành đống gạch vụn bởi biết bao tệ nạn …và
tôi khóc cho chính tôi một thằng lỡ vận
phải đành bỏ quê hương.
Trên đường bay daì 8 tiếng đồng hồ , nhìn ra khoảng không gian mờ
mịt nổi cô đơn đặt quánh trong tôi dường như tan dần theo những dòng nghĩ suy về những biểu tượng , hình thái tâm
cảm của thân phận quê hương , những vui buồn
sướng , khổ ; những thành công hay thất
bại hòa cùng nhau trong tiếng động
cơ aò aò và những tiếng sột sạt của cánh máy bay lướt qua
làn mây trắng ; như tiếng cựa mình của cây
lá hay tiếng gõ nhịp gọi nhau
mùa gặt đến.; những hôì tưởng một thời trên
xứ sỡ ; nơi chôn nhau cắt rốn , con đường đất đỏ 105 của mấy chục năm về trước , những chuyến xe băng qua lớp bụi mờ của mùa
hè 1972 xác chết cuả dân lành
nằm ngổn ngang bên đường vì đạn pháo VC
,hoặc những thành phố tỉnh Đồng bằng
Nam bộ những nơi mà tôi đã từng đi qua trong cuộc chiến không cho tôi một ranh
giới để phân biệt .Xa hơn nữa
là những chiều Đà Thành hay những
sáng Hội an cùng nhau bách phố ghé quán Lộng Ngọc uống trà cúc nghe nhạc Trịnh
hay xuống Cửa Đại bẽ bắp trộm…lên vườn ương
mò dưa hấu..
Tất cả đã kết thành một kỷ niệm dưới mái trời quê hương và đã thấm vào hơi thở, đã chảy vào huyết quản để trọn đời vẫn hòai vọng , khắc ghi và ngậm ngùi
khi xa cách.
Đến SEATAC
lúc 7 giờ sáng hôm đó bạn bè đến đón rất đông chúng tội nhìn nhau ôm nhau mừng , tủi vì giờ nầy là
giờ tôi chính thức bắt đầu cuộc sống
mới , trên quê hương mới Sau khi về đến nơi
là một bửa tiệc thật linh đình và thịnh sọan nhất trong đời tôi do Anh NQT tổ chức .trước khi
về nhà chính của tôi do người bảo
trợ thuê sẵn .
Hôm
nay ngồi viết lại những dòng nầy đã gần
9 năm trôi qua ; ngồi nhìn lại thời gian cái chốn mà mình đang ở , những việc mà mình đã làm và được sắp xếp trước khi từ gỉa Tổ quốc và
trong lòng tôi giờ nầy vẫn rực rỡ nhất
là hình ảnh quê hương với Đà Nẳng – Hội An – Saì gòn của những ngày trưóc khi bị giặt
cưỡng chiếm mà tôi chưa được một lần về
thăm /
(1) 1961
Stalin city trả laị tên cũ Volga
ĐÓN XUÂN NẦY LẠI NHỚ XUÂN XƯA
Trời
Tây Băc Mỹ đã vào Xuân, dường như muà Đông không muốn ra đi ; đã tháng hai mà
khí trời vẫn lạnh cóng xương. Mỗi sáng các kiếng xe đều bị đông đá phải cào sạch
và nổ máy ít nhất 15 phút trước khi cho xe chạy . Tôi có thói quen không thể bỏ
quên được là mỗi khi đưa bà xã đến sở trên đường về phải ghé quán cafe Lavie,
nơi tập trung của những ngườilớn tuổi, hình như mỗi người là mỗi cá thể đơn thuần mang trong mình những cái nhìn riêng lẽ về những suy tư cuộc
đời . Họ ngồi tụm năm, tụm ba hút thuốc lá, uống cafe nghe nhạc, đánh cờ tướng
, tán gẫu, nói những chuyện trên trời dưới đất, qúa khứ hiện tại , vị lai.
Có một sáng tôi đến sớm ngồi một mình nhìn ra ngoài đường phố sương
mai mờ mịt những chấm sáng của những chiếc đèn xe nối đuôi chớp nháy hai chiều
tù xa đến gần và từ gần đến xa, cứ thế mãi nối
tiếp nhau , đi đâu, về đâu .. hởi những cổ xe bất định làm sao tôi biết
được, lúc nầy tôi đang đứng giữa hai đầu nổi nhớ . Bởi vì chính sáng nay tôi
tình cờ đọc được Email cuả một thằng bạn học cũ, nó là một phế binh hiện sống tại
quê nhà:
Nội
dung bức điện thư chỉ có mấy dòng “Kính
ông “:…T” Tôi dược người bạn đồng cảnh
ngộ cho hay la nó được một hội từ thiện tại My õtrợ giúp tài chánh cho những
thương binh VNCH và cho địa chỉ để tôi liên lạc . Tôi thấy địa chỉ giống tên cuả
thằng bạn học cũ , nếu đúng như vậy thì cho tôi gởi lời thăm hỏi và nhắn tin là
tôi vẫn còn sống và kéo lê cuộc đời bất hạnh để gặm nhắm những nổi đau cuả những
kẻ bị bỏ quên khi tàn cuộc chiến ! ! !
Nguyễn Thanh H..”. Chính những lời nầy khiến lòng tôi ray rứt, ngồi thừ
người và cầm điếu thuốc trên tay mà không bao giờ châm lửa, cố đào lại những đọan
đường quá khứ ròng rã 40 mươi năm qua ; tuổi học trò, đời lính, tù đày, lưu
vong . Nhớ lại những năm tháng tù đày tôi chưa bao giờ rơi nước mắt, nhưng khi
được thả về đi giữa quê hương hoà bình nhưng điêu tàn, xơ xác hơn thời chiến,
trường cũ thay tên, phố xưa đổi chủ, bạn bè lưu lạc. Đất nước nầy không còn chỗ
cho tôi an thân, 12 năm học sáu năm lính, sáu năm tù, để rồi phải tha hương biệt
xư ở độ tuổi không còn để vươn lên, nhưng phải tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt
ngã.. Quê hương tôi đó, nơi chôn nhau cắt
rốn , nhớ tuổi thơ với những chiếc lá me bay, màu cỏ xanh sân trường , cây phượng
già cuối xóm mà mỗi buổi trưa hè đánh bi dưới tàng bóng mát.. tất cả vẫn còn đó
nhưng đã nhuốm mau øthời cuộc. Nhớ Đà Nẳng những buổi trưa hè thả bộ dưới hàng
phượng đỏ ghé ngang tiệm Ngọc Hưng lấy vài cục nước đá lén bỏ vào trong các cặp
sách cuả các cô ả nữ sinh trước giờ vào lớp; hoặc những buổi chiều mưa những tuị
học sinh con trai tập trung trưóc thềm giờ tan học lén đẩy các ả ra mưa cho aó ướt thấm vào da để
tìm một chút thoả mãn vụng trộm trên thân thể những cô gaí đang độ tuổi biết thẹn thùng và hả hê một tran cười
trừ qua nhũng lời chuỉ mắng thậm tệ.. Chiều hôm sau một thằng đồng bọn cùng lớp, anh chàng nhà
quê Đaị Lộc trồng cây si một cô nữ sinh
con một ông chủ tiệm may có tiếng tại Đà
Nẳng , cô rất kiêu sa có cách phục sức
theo kiểu con gái nhà giàu . Tuị chúng
tôi cá với hắn ta là”mầy
tán được con đó thì bao mầy và cô ta một chầu phỡ Ngã Năm” . Hôm đó nó gọi
chúng tôi lại cho xem bức thư của cô nàng hội đáp bức thư tỏ tình cuả hắn gồm bốn
câu tứ tuyệt:
Chiều
mưa ngập cả lối đi về
Mỗi chiều tan học thấy buồn
ghê
Ngồi trong lớp học nhìn mưa đổ
Đọc mãi trang thư chẳng muốc
về.
Tụi
tôi baỏ hèn gì hôm qua không thấy cô ta phơi xác dưới mưa , may cho mầy.”. “ cảm
ơn tụi bay, hôm qua nàng bận ở lại lớp đọc
thơ tau mà khỏi bị tuị mày làm quê! hắn
trả lời” . Cũng chính những trò chơi ngỗ nghịch nầy mà chúng tôi bị thầy giám thị chiếu cố phạt một
giờ làm công tác tạp dịch tại trường vào
ngày thứ bảy trong dó có cả anh chàng nhà quê Đại Lộc Nguyễn Thanh H. . Tôi và
H ở trọ nhà gần nhau cho nên ngày hai buổi đến lớp đều có nhau song hành trên Đại
lộ Độc Lập thẳng tới Trung học Sao Mai
Cuối năm 1966. H . hỏng Tú tài và bị gọi nhập ngủ khóa 67 hạ sĩ quan Nha trang
và chúng tôi chia tay nhau vào muà hè năm ấy .
Năm 1968 tôi cũng phải xô ghế nhà trường vào lính ngành XDNT nhưng có cơ
duyuên phiêu bạt khắp nơi tại các tỉnh phía Nam Miền Nam tuy không lâu lắm
nhưng cũng có nhiều kỷ niệm ...
Tháng 7
năm 1972 . Từ vùng cực Bắc Hoà vang tôi được
lệnh thuyên chuyển về phía Tây tận cùng cuả quận Quế sơn các bạn tôibảo : mầy bị đày đến vùng đất chết
. Chiến cuộc rất khốc lietä trong cái gọi là “muà hè lưả đỏ 1972” Khu Tây Quế
Sơn bị Bắc quân tấn .kich phải bỏ mà chạy
kéo theo toàn thể dân chúng về khu quận lỵ, đồng bào chưa lập xong các
trại tạm trú thì lại bị cuộc tổng công kích vào toàn diện lãnh thổ quận Quế sơn tháng
8/72 với hai sư đoành chính quy Băc Việt.
Chiều hôm đó mưa phaó dồn dập đổ về
quận đường một trái đạn đụng ngay
kho vũ khí cuả bộ chỉ huy cảnh sát tạo nên một đám cháy cùng những tiếng nổ
kinh hoàng . Tôi cùng Nguyễn Văn T.. , Trần Thanh L.. núp phía sau một chiếc
GMC trước văn phòng quận đoàn dùng ống
nhòm để quan sát hướng pháo cuả địch, ngoài đường lộ tấp nập từng đoàn người gồng gánh chạy về ngã Hương
An, co ùnhóm khác tách sang ngã Thăng
Bình chạy về phía Hà Lam. Đó là thói quen người dân Miền Nam khi nghe
hai tiếng VC
Vì nhu cầu chiến trường lúc bấy giờ không đũ
quân số tăng viện để giữ vùng nuí phía Tây Quế sơn cho nên toàn bộ lực lượng phòng thủ phải bỏ khu quận
ly rút về giử vùng biển vàù quốc lộ I . Sự rút lui nầy đã taọ nên cảnh tháo chạy
vô trật tự làm chết không biế bao thường dân vô tội dọc theo con đường tỉnh lộ
105 vì bị pháo cuả Bắc quân, bọn chúng xả đạn thẳng vào đám dân lành chạy trốn vì sợ đạn cuả cả đôi bên .Trên đường tháo chạy tình
cờ tôi gặp lại Nguyễn Thanh H.. thằng bạn cùng lớp ngày trước nó đang trên đường
rút quân và dẫn theo một cô gái bị thương nhẹ vì mãnh pháo ,chúng tôi chưa kịp
hỏi thăm nhau được gì, nó nhờ tôi đưa cô
về bệnh xá Hương An vì cô gái nầy có bà dì làm việc ở đó. Tôi bỏ cô ta
xuống bệnh xá và quay xe laị để đón một số trẻ em ,vì lúc đó quân đội VNCH còn
làm chủ từ sông Chợ Đụn trở xuống khu đông. Lúc quay lại tôi không gặp H. nữa
vì đơn vị H tái phối trí lại làm phòng
thủ ngăn chặn bước tiến cuả địch cùng với sư đoàn 3 bộ binh. Chúng tôi đón dân
tại Hương An đưa lên xe nhà binh chuyển về trại định cư Cẩm Hải . Đây là căn cứ
cuả lử đoàn Thanh Long Đại Hàn trú đóng trước rút về nước.
Lúc đó tôi là đơn vị trưởng một tổ chức bán
quân sự chuyên công tác dân sự vụ. Bởi vậy
việc làm trước tiên là ổn định cuộc sống cho dân chúng lo công tác tiếp cư. Đơn
vị tôi được trưng dụng công tác an dân
và cứu trợ khu 2 cũng là khu lớn
nhất trong ba khu tạm cư taị Cẩm Hải quận
Hiếu Nhơn. Trưởng Trại là Thiếu Tá Ánh , trưởng ban an ninh là Đại uý Diễn (
CSQG) tôi làm trưởng Ban Y Tế xã hội, trong thời gian nầy là lúc bận rộn nhất
trong đời mang súng cuả tôi ,nhưng ngược lại rất vui, vì trong trại gồm có dân
của 6 xã Sơn Long , Sơn Hoà, Sơn Thành, Sơn Thượng, Sơn Thắng, Sơn Lộc. Bảo vệ an ninh khu traiï là một
tiểu đoàn Địa phương quân và các đơn vị nghĩa quân tại địa phương quận Hiếu Nhơn
Ngày 27 tháng 1 năm 1973 hiệp định Paris được bốn phe lâm chiến ký kết
trước sự chứng kiến cuả Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc. Tôi nhớ rất rõ cái đêm hôm ấy là đêm rất dài
vì trước 4 giờ chiều có lệnh cấm trại 100% để chờ lệnh mới . Chúng tôi lúc ấy gồm
có 6 đứa chung đơn vị chiếm một
container sắt mà trước đây quân đội Đại
Hàn dùng làm phòng cấp cứu cho các thương binh ngoài chiến trường, nghe
đâu cái họp sắt nầy sẽ do trực thăng câu
thả xuống chiến trường để xử dụng cho những ca giải phẩu khẩn cấp. Bọn chúng
tôi dự trù sẽ dùng căn phòng nhỏ nầy chuẩn bị đón Xuân tại đơn vị . Vì muà Xuân
hoà bình đang vẫy tay mời gọi
Đất nước gần 20 năm chiến tranh khói lửa người dân Miền Nam phải chịu biết bao tang
thương bi đát; người lính chiến đã đặt tình yêu và nổi nhơ trên đầu điếu thuốc;
trên những lời hứa hẹn một ngày về khi đất
nước thanh bình . Bởi vì suốt trong dặm dài gian khổ đánh bạn với hiểm nguy
chưa một lần được ngủ yên trên một chiếc giường ngay ngắn . Nghe đến hai chữ
Hòa bình ai ai không mở hội trong lòng, một đồng sự của tôi đề nghị mở party cả
bọn đồng ý. Thật đơn giản chỉ một lít rượu đế vài lon thịt họp, và một nồi nước
sôi cùng mấy gói mỳ tôm, đặc biệt hôm đó có Nguyễn Văn T công tác ghé trại định cư và ở lại cùng tham
gia tiệc tất niên.. Chúng tôi đánh chén ca hát đốt lửa cho đến nưả đêm xa xa có
một vài tiếng súng nổ . Một thằng trong bọn hỏi
“hoà bình rồi sao lại nghe súng nổ
. ? Tôi trả lời biết đâu tụi VC đánh lưà cho nên chiều nay tiểu khu ra lệnh cấm trại, thôi hãy
chuẩn bị dừng quá tin tụi chúng” Nói vưà
dứt không bao lâu thì bọn Bắc quân bắt đầu khai hoả, tôi chụp cây M 79 kèm theo túi với mấy quả đạn chạy
thẳng bộ chỉ huy, các bạn tôi ra phòng tuyến
phía Đông nơi dành cho đơn vị chúng tôi và lực lượng Nhân dân tự vệ tác
chiến khi hữu sự. Tại trại chỉ huy đã có mấy vị xã trưởng tập trung để theo dõi
hệ thống truyền tin . Chúng tôi xin pháo binh phong toả bãi cát phía Bắc và
Đông vì mặt Tây và Nam giáp mặt lộ chính
VC không thể nào tiến quân vào hai hương nầy được. Tuị chúng(VC) dùng loa phóng thanh kêu gọi đầu hàng quay về
phiá cách mạng, sĩ quan trực chưỉ thề trên máy và xin pháo binh dẹp mấy cái loa
cuả tụi chúng dùm... “ Bộ chỉ huy tiểu khu ra lệnh hãy giữ vững hệ thống phòng thủ chờ sáng ra sẽ mở cuộc
phản công . Thật sự hôm đó VC chỉ bắn một
vài trái pháo nhưng và rơi ngoài hàng rào mà thôi. Trời vừa sáng ,sương mai mò mịt hai hướng Bắc
và Đông của trại một rừng cờ
nửa đỏ nửa xanh mọc lên ở trong rừng
thông ngoài trại . Lúc nầy đơn vị phòng thủ được lệnh hành quân tảo thanh và
tháo gỡ các cờ VC , chúng tôi gặp sự kháng cự nhỏ, nhiệm vụ chúng tôi là thay các
cờ VNCH vào các cờ cộng sản, lúc đầu thì không gặp trở ngại nhưng bổng đánh ầm
một tiếng khói bay mù mịt một tiếng la thất thanh ở phía bên cạnh đó là một đồng
sự cuả tôi Trần T đã đền nợ nước trên
tay còn cầm chặt lá quốc kỳ thủng trăm vết, nằm kế chừng 5 mét là một quân nhân
cuả đơn vị địa phương quân bị đứt một bàn chân và một chân bị gãy nát . Chỗ tôi
đứng không xa nơi những anh em bị nạn cho nên tôi ghé lại để cùng giúp đõ công
tác di chuyển vào trạm xá. Chứng kiến cảnh nầy tôi thật sự đã rơi nước mắt lúc
nào tội chẳng hiểu vì sao phải hy sinh trong lúc hoà bình và vào những ngày
giáp Tết, không những một đồng đội đã ra đi mà người bị thương không ai khác là
thằng bạn học cuả tôi gặp lại trong chuyến
rút lui tháng 8 vừa qua Nguyễn Thanh H lớp
Nhị C Sao Mai, anh chàng nhà quê Đại Lộc hai chúng tôi gặp nhau lần thứ hai sau
7 năm lìa mái học đường, nó đã bị chiến tranh cướp đi hai bàn chân, tôi biết nó
quí đôi chân nầy lắm vì nó là cầu thủ bóng tròn rất xuất sắc,chúng tôi có một
thời kỳ cùng chơi chung trên sân bóng trường Kỷ thuật Đà Nẳng thuở chung lớp
chung trường. Nó nhìn tôi nói với giọng yếu ớt” tại sao chúng ta gặp nhau trong
hoàng cảnh nầy, đơn vị tau được tăng phái về đây ba hôm để giữ cho dân ăn Tết.
Tôi an uỉ nó đôi câu và hẹn sẽ ra bệnh viện vì lúc đó trực thăng đã đến đến đe åtản thương. Một tuần sau tình hình lắng
dịu, tôi về Đà Nẳng thăm nhà sau Tết
và thăm H .tìm hoài trong danh
sách phòng lựa thương Tổng y viện Duy Tân không có tên nào là Nguyễn Thanh H..cả.
Tôi nói chuyến bay tải thương ngày giờ
đó,họ xem lại chỉ có một người tên Lê Văn T đang điều trị tại ngoại thương 8
,tôi đến thử để xem hư thật không ngờ
chính là hắn ta và chân còn lại thứ hai cuả nó cũng không giữ được, nếu giữ lại
thì sẽ kéo dài sự hành hạ thể xác rất lâu mà cũng không có khả năng xử dụng cho
nên phải đành bỏ luôn. Lần nầy chúng tôi trò chuyện rất lâu, nó kể về cuộc đời
lính trận sau khị ra trường nó được bổ sung đến sư đoàn 25 BB sau trận hành quân sang Campuchia, nó nhận
được tin mẹ bệnh nặng và qua đời
. Tôi hỏi
nó về cuộc tình giữa hắn với cô
nàng nữ sinh Phạm Tuyết Mai thế nào ? Hắn cười khổ “ đọc mấy câu thơ :
Yêu là chi nếu không là thoả
mãn
Trắng tay rồi tình cũng sẽ ra
đi
Tiềm
thức nhỏ theo camê hờn trổi dậy
Tim
sẽ buồn bật khóc giữa bơ vơ.
Cô
ta cặp bồ với một quan ba haỉ quân nghe đâu đã cưới nhau. Tớ và nàng sau nầy có sự cách biệt về giai cấp
cho nên xãy ra một cuộc cải vả không thể
hàn gắn chính cô ấy đã thốt “ Tant qui
‘il y a des homes” có nghĩa là khi không còn loài người mới chọn ta
Bởi vậy không còn gì để lưu luyến . Tôi không
dám hỏi nhiều , bởi không hiểu vì sao tôi cảm thấy lúng túng vì đã vô tình khơi
thêm vết thương lòng của bạn. Chúng tôi
im lặng nhìn ngoài trời mưa vẫn rả rích rơi không lớn lắm nhưng gió từ hướng sông
thổi lên hắc nước vào hành lang cho
chúng tôi tìm lại chút dư âm ngày
cũ lúc hai chúng tôi ngồi gặm bánh mì buổi
trưa trong hành lang Cổ Viện Chàm và
nhìn mưa rơi trên sông Hàn nó vẫn nghêu
ngao mấy câu : trời mưa ngập cả lối đi về-
Mỗi chiều tan học thấy buồn ghê”- Bỗng
chốc nó trở thành hậm hực “ Hoà bình -- bình – hoà bình ư ? “ Bố mẹ nó : tụi nó nâng ly chúc nhau ăn mừng tại Paris
còn riêng chúng ta còn phải đổ máu, tụi chúng mình phải làm một con thiêu thân
cho những tham vọng của bọn bất lương .
Cay đắng và thật mỉa mai đôi chân nầy hy sinh
có phải uổng phí hoặc là quá vô nghiã phải không ? Tôi bảo
sự hy sinh nào cũng có giá trị đích thực cuả nó. Người lính Miền Nam
trong suốt 20 năm lấy “ Tổ Quốc- Danh Dự
– Trách Nhiệm” gắn lên tầm đạn của kẻ thù. Người lính Cộng Hoà đã căn rộng tấm
poncho che phủ vùng trời bình an cho đồng bào , lấy hết máu trong tim tưới thắm
hoa lá ruộng đồng , đem những nắm xương khổ nạn cắm khắp nẽo đường quê hương, để
cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn
tại. Để cho người dân Miền Nam sống ấm no
ở hậu phương trong đó co cảù đôi
chân cuả mầy làm sao mà vô nghĩa . Hãy cho đó là niềm tự hào là trả nợ nam
nhi..dẫu sao mầy cũng chọn cái nhân sinh
quan cuả Nguyễn Công Trứ trong những trận
tranh luận với nhau kia mà.
Từ giả hắn tôi về lại đơn vị chuẩn bị khóa huấn luyện về công tác đấu tranh chính trị tại trung tâm
Vũng Tàu. Đây là một khóa huấn luyện đõan kỳ dành cho mọi cấp rất là hào hứng . Trong dịp nầy sau khi về
đơn vị chúng tôi được phối hợp công tác cùng các sinh viên khóa 28 võ bị Đà Lạt
những chàng trai đã chọn con đường binh nghiệp để phục vụ tổ quốc, họ rất linh
hoạt, năng động và đầy nghị lực và kiến thức phổ thông . Rất tiếc cuối cùng chịu chung số phận cuả quê hương
vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Đêm hôm nay , đêm ba mươi Tết và là
đêm thứ mấy trong gần 20 mười năm làm tên lưu vong lạc xứ, bước ra ngoài ngồi
nhìn vầng trăng khuyết để “ Cử đầu vọng minh nguyệt và Đê đầu tư cố hương” người ta bon chen tranh giành những hư danh, bôi mặt đấu đá
nhau hầu tìm cho mình một chỗ đứng trong
xã hội phồn hoa nhưng tình người thì kém xa.
Quê hương còn đó nhưng rách nát tả tơi như lá Quốc kỳ phủ lên chiếc quan
tài thằng bạn tôi trong chiến dịch cắm cờ giành đất năm xưa ; 36 năm tôi nhận
được mấy lời nhắn ngắn gọn cuả thằng bạn học cũ. Ba mươi sáu năm vòng thời gian oan nghiệt cuả đất nước,
cuả đồng bào sau cái hiệp định lưà gạt cuả những tên trùm chính trị , có đến 12
quốc gia và hội đồng baỏ an liên hiệp quốc chứng kiến và kývao, ngược lại họ
làm ngơ cho i bọn cộng sản phản bội cưỡng chiếm Miền Nam, chôn sống hàng triệu
quân dân trong trại tù trên đường vượt
thoát..và có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập môn.
Phần chúng ta có cơ may có bầu trời tự
do để thở, con cái có điều kiện học hành để thăng tiến không phải cầm xấp vé số
đứng ở các bến xe hay bới từng đống rác
bẩn thỉu, hoặc cĩ thểû bị khai thác trong các nhu cầu tình dục ở nước ngoài, huỹ diệt tương lai,
chôn vuì tuổi thanh xuân ..
Hiện nay có những người vô tích sự ngồi
nghiền ngẫm viết những baì phân tích lộn ngược hàng mấy chục trang phê phán chỉ
trích , hăm dọa nhữngb kẻ còn chút lưả trong lòng.. Tại sao họ không biết xử dụng
cái thời gian nhàn rỗi trên phần đời còn lại làm một việc hữu ích có nên chăng
?. Tại sao không mở vòng tay góp sức cùng mọi người trong công tác lạc quyên
gây quỹ giúp những người bạn năm xưa đã để lại những phần cơ thêû trên chiến
trường khốc liệt phải chấp nhận cuộc đời
bất hạnh trong sự hành hạ đắng cay cuả những kẻ bị bỏ quên ? Ngược lại còn bày trò ăn xén , ngăn chặn vì tự aí ích kỷ nhỏ nhen..
Mấy hôm nay tôi nhận rất nhiều Email
cuả những đồng đội bất hạnh năm xưa cảm ơn
với những ngôn ngữ chân thành và thống thiết của những người nhận quà “ cây muà xuân chiến sỹ cuả hội QN/ĐN ./
WA) .Qua thông tin dóđã cho tôi tìm lại tin tức người bạn học năm xưa hòa chung
cùng nổi đau cuả quê hương triền miên trong đói nghèo và lạc hậu tôi vội vàng
trả lời cho H thằng nhà quê Dặi Lộc ,, nội
dung rất ngắn gọn :
Đúng mầy rồi vẫn cái giọng cay cú như ngày
nào, tớ đây thằng Th.. mầy còn sống hả ? đã nhấm đủ muì vị khổ đau chưa ? Theo
tớ hiểu đã quá thưà rồi phải không ,. ? Tớù sẽ tìm cơ hội chia xẻ cùng mầy, mầy
cò nhớ bài hát cuả một cô giáo người Pháp mà thầy Phạm Ngọc Vinh thường đọc
trong giờ Pháp Văn ? Tớ chép lại để nhắc nhau một niềm mơ ước chưa thành sự thật ..
Quand tout renait à l ‘espérance
Et que l‘hiver fut loin de
nous
Quand la nature est reverdie
Quand l‘hirondelle est de
retour
J ‘aime à revoir ma Normandie
C‘est le pays qui m ‘a donné
le jour
Tạm dịch :
Khi nào hy vọng trở về
Và khi muà Đông đi xa
Khi thiên nhiên trở lại xanh
thẳm
Khi chim én trở về cùng ta
Tôi mơ ước nhìn lại Normandie
Là nơi tôi đã chào đời.
Ta
cũng mơ ước khi nào niềm hy vọng trở về,
ta và mầy ra laị cổ viện Chàm ngồi nhìn mưa đổ trên dòng Hàn Giang, ghé Cafe
Nhân nghe Thái Thanh hát bài “Ngày trở về”à cuả Phạm Duy chắc chắn sẽ không
xa...
Viết những lòi tâm sự đầu Xuân nầy nàng Xuân
đã chễm chệ giữa phòng khách vắng vẻ vì
ngày thứ tư có người phải bận ba bốn lớp aó để đi cày và tiếng nhạc từ nhà người
hàng xóm vọng sang lời nhạc du dương :
“ Đón xuân nầy ta nhớ xuân xưa
Hẹn gặp nhau khi pháo giao thưà
Em đứng chờ anh dưới song thưa
Anh đi qua đầu ngõ hỏi nhau rằng : Xuân đã về
chưa ? “
Cao Thy Yên
Môt thoáng kinh hoàng
* Cao Thy-yên
Viết đôi dòng tâm sự nầy vào lúc trời tháng 9, những
cơn mưa đầu muà đã xua điu những nóng bức
muà Hạ. Vùng Tây Bắc năm nay Cộng đồng người Việt rất bận rộn trước những biến chuyển thời cuộc,
nhất là việc chống VietWeekly tuần baó
thân cộng và nhóm cò mồi cho “vẹm” Nguyễn Minh Triết cùng như chuẩn bị “đón tiếp Thủ tướng VC Nguyễn
Tấn Dũng đến Hoa Kỳ vào hạ tuần tháng 9
. Ngồi trong quán café cạnh góc đường Yakima khu thương mại Việt. Nam thành phố
Tacoma,WA đọc qua các tờ tuần báo Việt
ngữ tại địa phương; tờ nào cũng đưa những tin sinh họat nóng bỏng ấy Bất chợt bỗng nhớ lại một người con gái rất
xa lạ chỉ một lần gặp mặt trong một tình cờ, nhưng có nhiều việc thật đáng nhớ.
Trời hôm đó nắng ấm và thật
đẹp vô cùng, nhân chuyến đi tham dự Đại Hội Văn hóa Thế giới Lần thứ 16 tại Nữu
Ước, ta thả bộ cùng phái đoàn dạo quanh, thăm viếng thủ đô của nền thương mại
thế giới và là biểu tượng của sự phồn vinh Hoa Kỳ. Nữu Ước là nơi tập trung nhiều
cơ sở Chính trị và Thương mại, đường phố người, xe tấp nập và thật ồn ào. Trong
ký ức ta tìm gặp lại một chút gì của Sàigòn những năm, tháng trước khi bị đổi họ,
thay tên. Đã 12 năm trôi qua thật sự bây
giờ Sàigòn chỉ còn cái tên trong kỷ niệm. Đứng tại trạm chờ tàu ngầm ta ngâm
nga đọc:
Ta
nện bước trên đường chiều Nữu Ước,
Nét
rộn ràng nhớ đến Sàigòn xưa . (một thoáng Sài gòn)
Nói đến New York
thì người ta phải nhắc đến tượng Thần Nữ và Trung tâm Thương Mại Thế giới
(WTC).Hai kỳ quan nầy nằm đối diện nhau trên một vùng đất rộng chừng bốn cây số
vuông mà hằng năm có chừng 30 triệu lần khách thăm viếng đóng góp cho sự phồn
thịnh của Nữu Ước.
Nhưng những đổi thay thật bất ngờ làm ta cảm thấy bàng hoàng. Có ngờ đâu mới
hôm qua lá đại kỳ VNCH được các phi công Việt Nam Cộng Hòa kéo tung bay quanh hai ngôi tháp chọc trời và tượng Nữ Thần
Tự Do. Buổi sáng hôm đó ta thức dậy thật sớm để ghé khu China Town mua một ít quà để trở về miền Tây cho kịp chuyến
bay lúc 11::45 sáng ngày 11-9. Lúc đó gần 9 giờ sáng một tiếng đánh ầm và tiếp
theo những tiếng rên la. Đứng cách chân hai
cây tháp song sinh chừng 500 mét nhìn cảnh hỗn loạn, tiếng còi hụ, tiếng người la ó mà
người bạn ta vẫn cầm máy hình đi gần lại khu nhà cháy và bảo ta" hãy đứng dưới cảnh nầy ta lấy cho một bức hình, ngày
mai và mãi mãi sẽ không còn nó nữa"
và rồi một tiếng vèo vào ngôi tháp thứ 2 bị đánh sập bằng một chiếc máy bay phản
lực và lúc nầy tôi mới biết thật sự là nước Mỹ đang bị tấn công. Những tang
thương xảy ra tại New York chẳng khác gì Đà Nẵng của những ngày, tháng 3-75,
Sài gòn tháng 4-75 và quê tôi Quế sơn mùa hè 72 .Thật ngỡ ngàng chỉ trong nháy mắt hai tòa nhà song
sinh biến mất trên bản đồ thế giới., hàng ngàn người bị chôn vùi dưới lớp đá vụn,
hàng vạn người bị thương và mất tích, hàng trăm hành khách hiện diện trên các
chuyến bay định mệnh đã vĩnh viễn ra đi mà chỉ trước đó một vài phút còn dùng
điện thoại để liên lạc chuyện trò với
người thân..
Đất nước tôi chiến tranh triền miên trong một
phần tư thế kỷ cho nên tôi không .
xa lạ gì với hoàn cảnh thương tăm ấy. Nữu Ước trong
tình trạng giới nghiêm, phi trường bị đóng, chúng tôi bị kẹt phải lưu lại trong
khách sạn. Tại phòng khách tối hôm đó điện thoại bị cắt, cả hệ thống viễn liên
qua hand phone cũng bị cắt nữa, chẳng có ai gọi về gia đình được. Bọn chúng tôi
những người Việt Nam đến từ khắp nơi trên thế giới về dự ngày Đại Hội, chưa về
được, nên ngồi họp nhau dưới phòng khách
xem TV chiếu những cảnh kinh hoàng được chiếu đi chiếu lại nhiều lần dưới phụ đề
America Under Attack.
Trong những ngày lưu lại vì kẹt chuyến bay chúng tôi
có dịp trao đổi nhau nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống tha hương. Đặc biệt trong
nhóm đa số là người Quảng Nam từ Hạ Uy Di, Gia Nã Đại, Nam và Bắc Cali, và ở
các tiểu bang vùng Trung Mỹ chúng tôi dầu không quen biết nhưng qua âm ngữ đã nhận biết
ra cội nguồn tổ tiên và cái bản chất "Quảng Nam hay cãi" vẫn
là tiền đề cho những cuộc tranh luận của chúng tôi từ Tiên Phước, Quế sơn,
Thăng bình, Hội An, Đà Nẵng, v.v..Buổi nói chuyện để giết thời giờ của chúng
tôi thật lý thú. Hiện hữu nhiều thế hệ của xứ Ngũ Phụng Tề Phi nói về những ưu
tư đến quê hương, đồng bào, đất nước và
thân phận lưu vong, v.v..như ấm lại hơi thở của một con dân xứ Quảng giữa lúc một
biến cố khủng khiếp vừa xảy ra trên quê hương mới, liên tục trình chiếu trên
màn ảnh làm ta chợt nhớ đến lời điêu khắc gia Lazarus tạc dưới chân tượng Thần
Nữ " Hãy cho tôi những người mỏi mệt, nghèo nàn, những người muốn thở không
khí tự do. Hãy gởi đến tôi những người không nhà, những người vì bão bùng trôi
giạt ."
Có phải ta vì bão bùng trôi giạt về đây nương nhờ bóng
dáng Thần Nữ ? Ta nhớ hôm đó trời nắng,
từng tia nắng chảy qua từng bực thềm cao ngất nơi Nữ Thần ngự trị. Người ngươi mệt mỏi vì thang
máy chỉ dành cho người khuyết tật, các bạn đều bỏ cuộc khi bước vào tầng thứ nhất
của ngôi tháp. Ta bảo thầm đi tìm Tự do chớ bỏ cuộc, trên đỉnh tháp là nơi mà người
Mỹ tự hào gọi là " Nước Mỹ nhìn ra thế giới bên ngoài".
Ta
mỏi gối tìm nàng! Ôi Thần Nữ.
Trời
vào thu tia nắng chảy qua thềm(lãng du)
Chính nơi nầy ta tình cờ gặp một du khách người Pháp,
cô ta là một nghiên cứu sinh ngành xã hội học cũng ngồi nghỉ chân ở tầng thứ ba, trên tay cô ta cầm cuốn sách "Les
nuits d' Octobre et L 'April noir ".
Tánh hiếu kỳ và dòng tư tưởng có liên quan đến tháng
Tư đen của Việt Nam, ta mở chuyện để làm quen và hỏi thăm về tháng Tư đen ( April noir)
đó là tháng Tư của Ba Lan nói về cuộc đấu tranh của Công đoàn Đoàn kết
Ba Lan. Cô ta nói rành tiếng Anh, cô biết tôi là người Việt Nam cho nên hỏi qua một số vấn đề có liên quan đến Việt Nam. Cô đã có một vài lần đến thăm
viếng VN trong năm 1999. Tôi trình bày những vấn nạn của đất nước trong giai đoạn
hiện tại về Tư ï do, Dân chủ , Nhân quyền và đời sống đồng bào tại quê nhà
Thật buồn cười
vì ngôn ngữ eo hẹp cho nên tôi
nói cả ba thứ tiếng Pháp, Anh, Việt xà bần như rau trộn có điều cô ta hiểu được những gì tôi muốn
nói. Cô gởi lời chia sẻ cùng đồng bào tôi. Cô có ghé thăm Non Nước quê tôi
và mở cặp lấy cho xem mấy bức hình cô ta
chụp tại Ngũ Hành Sơn. Cảnh giành giật mua bán, cảnh người ăn xin bu quanh một
người ngoại quốc làm lòng tôi cảm thấy
đau đớn và xót xa cho thân phận quê
hương, đã 26 năm không còn chiến tranh mà các tệ nạn lại
càng ngày càng gia tăng. Tôi xin lỗi cô ta
bởi vì đồng bào tôi phải gánh chịu biết bao tang thương đổ vỡ từ biến cố nầy đến thiên tai nọ không một giờ,
một khắc sống trong an vui của cảnh thanh bình
Cuộc tiếp xúc rất ngắn ngủi, song cũng đã cho tôi một
sự suy gẫm dẫu sao một người ngoại quốc
nhìn quê hương và đất nước tôi từ bên ngoài mà họ cũng hiểu phần nào về
chủ nghĩa Cộng sản, ngược lại có những người Việt Nam chính cống từng chạy trốn
vì chế độ mà đến nay vẫn chưa sáng mắt để nhìn ra sự thật .
Gần một tuần sau phi trường Kennedy vẫn đóng cửa,
chúng tôi phải dùng đường bộ để trở về nhà. Bốn ngày trường trải bằng xe buýt trên đoạn đường dài gần 10 ngàn
cây số. Chúng tôi phải dừng lại biết bao nhiêu trạm từ Đông sang Tây. Trời liên
tục đổ mưa, mây mù giăng che kín núi. Dường
như đất trời cùng hòa với lòng người mà đổ lệ cho nước Mỹ. Nhìn lên TV tại những
trạm nghỉ chân thấy cảnh đào xới ,tìm kiếm những người thân, mang hình người
thân hỏi người qua lại, rồi những tiếng than khóc, những xác nạn nhân được bới
lên bọc bằng những bao cao su xếp hàng, đầu óc tôi lại quay cuồng về một biến cố
Mậu Thân 1968 tại Huế. Hai khoảng thời gian này cách một phương trời, những đồng
cảm những bà mẹ, những góa phụ, những trẻ thơ..ràn rụa nước mắt, gần 40 năm
trôi qua bằng một thảm trạng khủng bố được giữ lại trong ký ức.cuả mỗi một con
dân Việt cũng rất kinh hoàng.
Lynda!! Người con gái chỉ một lần gặp mặt, hôm nay ta
đặt bút viết những dòng nầy, bỗng dưng
qua khe cửa có chút trăng khuyết chiếu vào mà lòng dậy lên niềm đau về quê
hương và than phận. Những người anh em, đồng hương ta đa số đã có một chút
thành công còn ta cứ mãi xoay vần với những dòng suy nghĩ viển vông, vẫn nghiệt
ngã không thôi: không phải vì vô dụng,
phế thải, bất lực như một nhà báo thiên
cộng đã dành cho những người HO trong đó
co’tôi mà vì những thao thức, trăn trở
cho một Tổ Quốc VN thật sự Tự do
và yêu thương Lynda ! “la terre est ronde”ta nhớ mãi lời nầy của
cô..nhưng chẳng biết bao giờ có duyên gặp lại người nữ sinh viên nầy….?
Sau bao nhiêu năm tháng dài biệt xứ chúng tôi vẫn ngồi
nhắc lại những chặng đường oan khiên và nhận
biết được rằng ở cuối chân trời tạm dung nầy chỉ còn lại chúng tôi những
đứa con Việt Nam mới bận lòng cho nhau hơn dẫu có bất đồng nhau về một định luận
quan nào, dù sinh sống từ phương trời nào - sau cơn biến động nầy sẽ gần gũi
nhau hơn trong mọi hoàn cảnh cuả cuộc đời.
Cho nên xin tạ ơn trời đất, tạ ơn đời, tạ ơn những người còn sống, những người
đã chết hôm qua, vẫn mãi là nguồn ơn tiếp
sức cho chúng tôi trên bước đường lưu lạc chưa tìm ra lối quay về..
QUÊ HƯƠNG KHUNG TRỜI KỶ NIỆM
Cao Thy Yên
Hình như sắp tàn Thu từng cơn
mưa nhỏ đầu muà kéo theo những chiếc lá
vàng rơi ngập lối đi. Nhìn từ xa trong vòm trời
ảm đạm từng đàn chim thiên di
dang đôi cánh mỏng như chuẩn bị cho một cuộc di tản tìm về một vùng trời ấm áp
nào đó trước muà tuyết rơi Loài chim
nầy rất chung tình và không bao giờ quên cội nguồn , nơi trốn tuyết chỉ là bến bờ tạm dung mà thôi. còn những con chim Lạc
Viẹt lưu đày tren quê hương tạm dung đã gầmn 33 muà lá đổ vẫn mõi mắt ngóng trông ra biển để nhớ thương
và hoài niệm về một vùng trời quá khứ bi hùng để tích tụ cho một mơ ước ngày trở về trên quê hương không còn Cộng sản.
Muà Thu là muà cuả thi nhân, là muà cuả kỷ niệm ; đó
là muà tựu trường , đối với tuổi học trò
có chút gì quyến rủ và mới lạ như Thanh Tịnh
trong Ngày Tựu trường“ hôm ấy một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh
, Mẹ tôi âu yếm năm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp….
Hôm nay tôi đi học” mà chính tôi cũng đã trải qua những thu vàng chạy dài trên kỷ niệm tuỏi
thanh xuân
Ngày tháng cứ thản nhiên qua
nhanh, nhớ nhung và phiền muộn lúc nào
cũng tràn trề phía sau cánh cửa cuộc đời tạm dung . Làm sao quên được những
tháng năm triền miên khói lửa trên quê huơng , nơi chốn chôn nhau cắt rốn và đầy
ắp những kỷ niệm cuả tuổi ấu thơ. Một vầng trăng khuyết , một đám mây chiều lơ lửng trên mái đình hiu quạnh, và phía lủy
tre xanh mái nhà ai đã lên khói cho bửa cơm chiều cuả những người dân quê chất
phát trên vùng đất khô cằn , quanh năm
suốt tháng vớI đôi chân trần các ngón khẳn khiu bóm chặt vào lòng đất dính đầy
buị phèn . Đó là nơi tôi cất tiếng khóc chào đờI và lớn lên trong từng chặn đường
quanh co cuả lịch sử.
.
Khi
xa Tổ quốc mới biết quê hương là quan trọng , hai tiếng ấy như chiếm trọn cả phần
đời còn lại cuả tôi vì chính nơi đó đã sản sinh và cưu mang tôi trưởng thành
trong nhiều hoàn cảnh khó khăn cuả đất nước.
Th áng 12/ 1994 tôi rời xa Tổ
quốc khi chiếc máy bay lươn một vơng trên phi cảng Sàigòn và mát hút trong
không trung, tôi biết mình đã đánh mất một cái gì quan
trọng nhất trong đời, cái
nơi chốn thân thương . Sau ngày giặc đến, sự đổi thay cuả chế độ, đa số người
dân Miên Nam dường như từ chối sự hiện hữu nầy: một số lớn viên chức trong quân dội và chính quyền chế độ cũ bị cầm tù không có bản án,không có ngày về, chết dần chết
mòn trong sự hành hạ và trả thù cuả kẻ gọi là “ chiến thắng” như Tạ Tỵ kể lại
trong Hồi Ký ( Dưới đáy địa ngục) trong
đó có tôi; một số khác bỏ nước ra đi trong thập tử nhất sinh “ nếu
cột đèn biết đi, nó cũng bỏ mà đi”
câu trả lời cuả một bà cụ trước tòa án nhân dân về tội vượt biên trốn theo địch.
Là thế đó quê hương không những bị chiến tranh tàn phá mà chính sự cai trị hà khắc cuả tập đoàn man di rừng rú đỏ tanh muì maú
Maxít quốc tế cộng sản mang về áp lên đầu , lên cổ cuả nhân dân đã
huỷ hoại cái truyền thống vốn có từ lâu cuả nền văn hóa Việt tộc. Tôi thầm mong
rằng sẽ có một ngày bà con và đồng bào tôi được sống trong an bình, được đứng
thẳng không khom lưng , cuí đầu trước bất
cứ một thế lực nào, được nhận lãnh những ân huệ cuả Thượng đế ban cho loài người. Một xã hội trong thời đaị
con người đi vào khám phá không gian mà
Việt Nam khẩu phân người dân phải bị buột
chặt theo tiêu chuẩn ăn chia công điểm, đôi tai bị bịt kín chỉ cho nghe những
gì đảng nói, mắt chỉ được hướng về phía trước cái đích mà đảng đã đặt..Thời
phong kiến vua là thiên tử nắm toàn quyền sinh sát nhưng phân phát quyền lợi đồng
đều cho thần dân, ngược lại cái gọi là”
độc lập-tự do-hạnh phúc” là thế đó. Đọc
một vài diễn đàn tư nhân trong nước nhân
vật bất đồng chính kiến Hà Sỹ Phu than
thở “ “Việt Nam bây giờ như một đống bùn
nhão, không định hình” thật sự là vậy đồng bào tôi đang ngụp lặn trong vũng
bùn nhầy nhụa ấy với những bất công áp bức, tham nhũng, buôn lậu, ma-cô, đỉ điếm
… thì làm sao có Tự do và công bằng . Có nỗi nhục nào bằng khi đất nước bị ngoại
bang cưởng chiếm mà chính những người gọi là đại diện cho dân lại đi bịt mìệng
, bịt mắt dân không cho ai được bày tỏ
lòng yêu nước của mình qua vụ Hoàng-Trường Sa vì đó là cái quyèn thiêng liêng
đã ghi trong bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền ; thậm tệ hơn còn bắt bỏ tù những
ai đặt ra vấn đề đòi hỏi đó. Quân đội nhân dân, Cảnh sát nhân dân cái gì cũng
cuả dân cả , nhưng chỉ phục vụ cho Đảng
một thiểu số tự cho là “ đỉnh cao trí tuệ , họ xem đất nước như một vật sở hữu cuả
riêng họ. Có một lão thành chống Pháp tặi
quê tôi có 40 tuổi đảng và đã về hưu, sau ngày tôi đi tù về trong một cuộc trà dư tửu hậu ông nói rằng:’
ngày trước sống dưới chế độ thực dân Pháp, nhưng tôi đi đâu và ở đâu măc kệ,
ngày nay hoà bình lập lại đất nước thống nhất , nhưng muốn đi đâu phải xin
phép, cái phép đi thưa về trình thì có gọi là Tự do được không ?; thử hỏi đất
nước mình đang đứng ở đâu ? Cộng sản nguyên thuỷ ư? Như vậy đảng ta đến bao giờ mới tiến tới chủ
nghĩa đại đồng, làm việc tuỳ sức , ăn tiêu tuỳ cần, phải thắt lưng buộc bụng đến
bao đời để có ? là một người tù tôi
không có ý kiến , thế mà sang ngày hôm sau cũng bị kêu đi “làm việc”và cứ mỗI
lần như vậy thì phảI tốn một cuốn vở 50
trang để viết kiểm điểm, thế đó người dân sống trong sự giăng lưới bởi những
đôi mắt cú-vọ chực chờ để cấu xé .
Quê tôi nằm bên dòng sông
Ly-Ly , một vùng đất nghèo nàn trong thung lũng Quế Sơn đất cày lên sỏi đá, những người dân quê mộc mạc
một nắng hai sương bóm lấy thửa ruộng, mảnh
vườn để sinh tồn
thửa ruộng, mảnh vườn để sinh tồn truyền tử
lưu tôn..Trong chiến tranh cái làng nhỏ nầy hứng chịu bao nhiêu bom đạn, nhưng
chưa ai bỏ xứ mà đi- Cây đa, bến nước, dòng sông, lũy tre xanh và nhất là ngôi
đình làng nơi mà hằng năm vào ngày rằm tháng Ba Âm lịch là ngày giỗ kỵ cuả vị khai sinh ra nó . Họ vật
trâu đãi dân và hát xướng ba đêm ngày. Rồi
chiến tranh bùng lên, Việt Cộng về làng đã cướp đi mất cái không khí thanh bình
cuả những người dân quê hiền hoà chất phát
, nhưng dẫu sao đi nữa họ vẫn bóm
trụ để giữ lấy cái vùng đất đã gắn liền
với cuộc đời họ.
Tôi ước mong sẽ có một
ngày trở về ngâm mình trong dòng sông trong mát
để tắm gội những bụi đời trong những tháng năm biệt xứ đang bóm đầy trên
thân thể. Cái dòng sông mang phù sa đem lại cho dân quê niềm vui mùa gặt mới.
Bom đạn đi qua không làm cho đôi bờ loang lở, con nước vẫn êm đềm chảy xuôi về
biển như mang theo ân tình của họ về với đại dương hoà trong dòng sinh mệnh cuả
quê hương.
Ngày nay dòng sông đã lên thac, xuống ghềnh cuồng
nộ, đôi bờ tan nát vì nạn phá bờ để trồng
rau xanh hay dâm vài luống khoai để sinh kế. Bởi vì đất ruộng đã bị tịch thu
vào chế độ công xã . Chủ nghĩa xã hội không những ảnh hưởng đến đòi sống dân
chúng mà còn tác hại ghê gớm đến môi trường sinh thái hặn hán .. lũ lụt thiên tai triền miên. Đa số đã bỏ làng mà đi
vì ông chủ mới đã tóm thu tất cả những gì mà họ đã chắt chiu gầy dựng từ bao đời
nay
Tôi đã đi qua hai phần đời người, một phần còn lại ngồi đây để hoài
niệm, những thăng trầm, những khúc khuỷu quanh co trong cuộc sống. Quá khứ
không chỉ để hoài niệm mà từ đó nhin lại
và rút ra những bài học cho tương lai. Với
tôi tương lai chẳng có gì mà chỉ là một giấc mơ là sẽ có một ngày trở về thăm lại quê hương, ngoặn du mọi miền đất nước trước
khi ngả vào lưng mẹ ngủ giấc nghìn thu. Và giấc mơ đớ lớn theo thời gian và tuổi
tác. Sự chờ đợi nào rồi cũng có hồi đáp Nhà Văn Nga Solzhenisyn Nobel Hòa
Bình
sau mấy mươi năm lưu lạc tạị Mỹ cuối cùng cũng được thấy nước Nga
không còn Công sản
Tôi có một sai lầm là nghe theo lời mẹ tôi trở
về làng cũ sau ngày giặc đến để bóm lấy
ruộng vườn , bà bảo rằng về nhận
phần tài sản mà cha mẹ tôi để lại nếu như cho người ta
thuê mướn cũng đủ sống , nhưng có ngờ đâu sau 1 năm là họ thu vào hộp tác và
tôi bị bắt đi tù kéo theo những thê lương cho cả vợ con
Thời gian trôi thật
nhanh, mới đó mà đã mười mấy năm xa vùng trời kỷ niệm, mái tóc đã nhuộm màu năm
tháng. Trong một phút giây tỉnh lặng nào đó chợt nhớ về Đà Nẳng những chiều tan trường rảo bước
trên đường Độc Lập với những lá me bay, rồi quẹo sang Hùng Vương ghé “ Bình Dân
Thư Quán” mướn một vài cuốn kiếm hiệp cuả
Kim Dung về đọc vào những cuối tuần. Nhớ những muà thi khi đi xem kết quả, những
trạng thái tâm lý vui buồn cuả những sỉ tử
với những ước mơ sau thời gian dài 12 năm cuả bậc Trung Học. Sự quyét định
số phận cuả những nam sinh thời chiến lọan, Câu ca dao “ Rớt tú tài
anh đi trung sĩ” như muối
xát vào lòng những chàng hỏng thi….và có niềm vui nào cho bằng khi được đề tên
trên bản , Niềm vui và nỗi buồn “ Khấp
như thiếu nữ vu quy nhập;tiếu tự thư sinh lăạc đề thì” chuyện cười ra nước mắt
cuả tuổi học trò là vậy .- Nhớ những những
lần ghé Đại học xá Nam Giao cùng bạn đang
lấy court và thi học kỳ cùng với đám bạn đi
ăn bánh bèo “Bến Ngự” rồi ngang ngã trường Đồng Khánh ngắm mấy cô Nữ
sinh duyên dáng cuả xứ thần kinh.
Trời đã vào Xuân có anh’ trăng treo đầu nuí ,
nghĩ phận mình lưu vong , lạc xứ đã mười
mấy năm . Ngẩng đầu về phương Đông mà ngâm câu “ Cố quốc bất kham hồi thủ nguyệt
minh trung” Lý Dục bị lưu đày làm con tin thời chiến quốc khi nhìn trăng mà than
không biết trăng phương ấy có còn sáng soi trên đỉnh đầu nầy chăng ? Quê
hương còn đó với biết bao đổi thay 37
năm một đàn kiến cũng có thể cỏng gạo
xây thành một ngọn dả sơn huống hồ gì là con người . Tôi vẫn nghe những tiếng
kêu trầm thống từ trong nước nhưng nỗi
thương tâm cuả dân tốc đã gánh chịu . Họ đội đơn di khắp nơi cầu xin một chút
công lý . Từ văn phòng 2 Quốc Hội, vườn hoa Mai Xuân Thưởng , Văn phòng tiếp
dân , Thái Hà, Nhà thờ lớn ….Những tiếng thét gào cuả giới trẻ bị bắt đẩy lên xe khi họ lên tiếng bảo vê Tổ quốc trước nạn Bắc
xâm. Những khuôn mặt nhăn nheo vì khắt
khao Tự do cuả Thượng toạ Quảng Độ, Linh
mục Nguyễn Văn Lý, cuả những Nguyễn Văn Đài, Lê thị Công Nhân , Nguyễn Phong, Lê Nguyên Sang ,Cù Huy
Hà Vũ. Lê Công Định và biết bao nhiêu thanh niên sinh viên đã hien ngang bước
vào nhà tù như một niềm hãnh diện..
“ Hãy
xin đơi một nụ cười : Bài hát của Nam Lộc”
….. Tự đo ơi Tự do : Ta trả bằng nước mắt
Tự do hởi Tự do
Ta trao bằng máu xương.
Tự do ơi Tự do Em đổi bằng thân xác
Vì hai
chữ tự do Ta mang dời lưu vong
“La
politique est la science de la liberté
“( Pierre Joseph Proudha) Tự do là một yêu cầu cần thiết cuả loài người mà loài
người phải đánh đổi bằng máu và nước mắt/,
Ký sự Hành Hương
Hướng về năm đức tin (Year of Faith 24/11/2012- 24/11-
2013) cũng như xác tín niềm tin vào Chúa Kito phục sinh giữa lúc thế giới loài
người đang lao vào những tham vọng quyền lực, tranh giành ảnh hưởng, chiến
tranh chết choc, Thiên tai liên tục dẫn đến bến bờ diệt vong. Người Công giáo đứng
trước tình hình băng hoại về đạo đức có thể đánh mất niềm tin.
Cuộc hành trình Đức
Tin do Cộng đoàn giáo xứ thánh Ann
Tacoma Tổ chức cuộc hành hương thăm viếng
những Thánh tích phía trời Âu . Đó là những linh địa mà Thiên Chúa qua Mẹ Maria
đã làm chứng cho Đức tin. Cuộc hành hương do Cha chánh xứ chủ xướng và đã trù bị trước 6 tháng , được tổ chức thành đoàn ngủ . Cha Linh hướng,
Sr và Thầy phó tế phụ tá gồm có 41 thành
viên chia làm 4 tổ có tổ trưởng, tổ phó
trông coi và phụ trách các giờ kinh cũng như lo phần phụng vụ lời Chúa
trong các thánh lễ xuyên suốt cuộc hành hương cũng như phân phát tài liệu - lịch
trình và phòng nghĩ 2 người một phòng.
Trước khi lên máy bay cha sở cho đọc kinh và ngài nhắn gởi đến phái
đoàn những điiều cần thiết:
(Đi hành hương không phải
là đi du ngoạn ngăm cảnh, hương thụ những lạc thú trên đời mà là sự dấn thân và
hy sinh. Mục đích chính là hướng về năm
Đức tin của Hội thánh, thánh hóa Đức tin để gần gủi với Thiên Chúa hơn. Cuộc
hành trình dài 15 ngày có thể có những
trở ngại bất ngờ cần phải chuẩn bị trước)
(Đó là lời răn dạy của
cha linh hướng trước giờ lên máy bay sau khi đọc kinh và ngài ban phép lành cho
tất cả)
Chuyến bay Delta 615 khởi
hành từ phi trường Seatac lúc 3:25 ngày thứ năm 10/10/2013 vươt Đại Tây Dương
và hạ cánh tại phi trường quốc tế Charle Degaule lúc 1:30 sáng ngày 11/10 tức
là 10:30 sáng giờ Paris. Sau khi làm các
thủ tục nhập cảnh phái đooàn lên xe bus do do hướng dẫn viên đã chờ
Tại Parking lot
Paris
Theo lịch trình ngày 11/10 trạm đầu tiên là dừng
chân tai Paris Thủ đô nước Pháp và sau
đó tuần tự theo danh sách. Pháp là quốc
gia lớn nhất châu Âu , diện tích gần 700.000 Km2 . Dân số chừng 70 triệu và có
nền kinh tế đứng thứ 5 trên thế giới.
.Rời phi trường lúc
11.00 vào thăm những di tích lịch sử của kinh thành ánh sáng ,xe ngang qua nhiêù xa lộ
phái đoàn đã dùng thời gian nầy để dâng lời kinh nguyện ban trưa . Vào
Paris băng qua cầu vượt nơi mà công
nương Dana tử nạn, xe rẻ vào Đại lộ
Champs Elysees ngắm Điện Elyse, Bảo tàng viện Loui 14, Louis 15, Napoleon Đại đế;
Khải Hoàng Môn, Tháp Eiffel , nhà Thờ Đức Bà ( Notre Dame) nhà thờ lớn của giáo phận Paris, một kỳ quan của thế giới. Mùa Thu dường như về chậm Vườn
Luxembourg cây lá vẫn còn xanh, hoa vẫn
còn khoe sắc. Phái đoàn dừng lại tại khu thương xá Lafayette một trung tâm
thương mại lớn của Thủ đô người xe tấp nập, đa số là những xe ngắn gọn để dễ
dàng vào Parking, thường cư dân Pháp dùng sản phẩm của bản xứ là xe Renault ,
Peugeot, vì đường phố chật hẹp nên đa số dùng xe điiện ngầm, xe bus và nhất là
xe hai bánh. Hôm đó là ngày thứ 6 cuối tuần nên khá đông đúc . Phái đoàn dừng
chân nơi đây nghỉ trưa mua sắm và dùng bửa, giá sinh hoạt nơi đây rất đắc đỏ
nên chẳng ai mua đươc gì chỉ ngắm để rửa con mắt, có người bảo” đến Pháp khi đi
mua hàng chỉ nhìn chứ không được
dùng tay đụng vào thì người ta bắt phải mua”
Chặng cuối cùng là trở lại ngắm cảnh du thuyền
trên sông Sein chạy quanh thành phố với 22 cây cầu bắc qua.
Khởi đầu là cầu Le1na dưới chân tháp Eiffl đến
cầu Alma( Pont de L’Alma) nơi công nương Diana tử nạn rồi đi tiến đến Invalides
tiếp theo là cầu Alexandre cầu nầy xây vào năm 1886 và hoàn thành vào năm 1900
, cây cầu nầy trang bị tốn kém nhất có 4 trụ cột vàng ở 4 góc tượng trưng nền công nghiệp khoa học
nghệ thuật Pháp từ cầu nầy nhìn thẳng là Les Invalides nơi an nghĩ cuối cùng của
hoàng đế Napolon cùng các danh tướng của nước Pháp, quay lưng với Les Invalides
là hai cung điện Grand Palais và petit Palais , kế đến là cầu Concorde. Hạ viện
đối diện cầu concorde , quảng trường Concorde là nơi chém đầu Loui 16. Dọc theo
bờ sông Sein là vườn Tuileries. Nhà thờ Đức Bà nằm bên cạnh ngược dòng sông
Sein ngắm Notre Dame tôi nhớ lại Tác phẩm Les miserables của Victor Hugo một
hình ảnh tôi nhớ mãi từ thời Trung Học.
Lúc nầy là 4:00 chiều là giờ dâng Thánh lễ , đoàn quay ngươc xe đến Thánh Đường Đức Bà làm phép lạ nơi Đức Mẹ
hiện ra với Thánh Catherine Labouré năm 1830. Nơi đây đoàn được chiêm ngưỡng và
cầu nguyện trước Thi hài thánh nữ còn nguyên vẹn trong hòm kính .
Lyon
Sau một ngày mệt nhọc và giờ giấc chưa quen,
cho nên bà con đa số không ngủ được, thức
dậy rất sớm dùng một bủa điểm tâm( Petit
déjeuner) thật thịnh soạn, mùi cafe và bánh mì Pháp tuyệt như lời đồn,trong lúc
điiểm tâm hành lý đã được nhân viên khách sạn đưa ra xe bus và chúng tôi bắt đầu
cuộc hành trình mới
Nhìn đồng hồ trên xe
bus 8:00 sáng nhiệt độ bên ngoài là 10 độ
C xe bắt đầu chuyển bánh ngươc về hương Đông Nam dọc theo bờ sông Sein qua cầu Verseille và vào xa lộ đến Lyon thành phố nằm hướng Đông Nam nước
Pháp , đoạn đường dài trên 400Km xe phải chạy mất 5 giờ .Phái đoàn dành thời
giian nầy để đọc kinh , cầu nguyện và còn lại là phần Văn nghệ giúp vui gồm ca
nhạc hay chuyện kể hay chia xẻ nhưng kinh nghiệm sống đạo.. Tiếp theo Cha linh
hướng sơ lược về cuộc đời của Thánh Nữ Cathherine và Thánh Gioan Veanney vị
thánh quan thầy của các linh mục, bên ngoài trời đổ mưa, xe rẻ vào một làng
nông nghiêp những cánh đồng ruộng bắp mênh mông với nhưng con đương ngoằn ngoèo
chật hẹp và cuối cùng cũng đến được giáo xứ Cure Art nằm bên ngoài thành phố
Lyon, nơi mà cha thánh Vianney đã sống một cuộc đời khó nghèo để rao giảng tiin
mừng nhất là đem những người tội lỗi trở về với chúa trong bí tích hòa giải,
Phái đooàn đi viếng từ nơi ăn, chốn ở, bàn làm việc những lễ phục ngài dùng rất
đơn giản. Đặc biệt nơi đây còn trưng bày trái tim không hư nát cũng như thi hài
của ngài. Phái đoàn đã dâng thánh lễ
ngay trong nguyện đường bên cạnh thi hài của ngài , một ngôi thánh đường
không 1ớn lắm nhưng rất uy nghi ngồi
trong ngôi nguyện đường nầy riêng người viết bài nầy cảm thấy bình an lạ thường
tâm hồn nhẹ nhõm không có chút gì âu lo. Sau thánh lễ cùng chụp hình lưu niệm
phía trước nơi hòm kính đặt thi hài Thánh Vianney. Ngài được Đức Thánh Cha Pio
XI phong thánh năm 1925
Từ giả Cure Art chúng
tôi theo lộ trình đến Lyon và nghĩ đêm tại
đây. Lyon một thành phố miền đông nước Pháp
là nơi nỗi tiếng về các nhà hàng , một thành phố rất khang trang có kiến
trúc theo kiểu Tây.Một buổi tối rất ấn tượng tại một nhà hàng mà thực khách
không còn chổ chứa.
( Lộ
Đức) LOURDRES
Khởi hành lúc 7:30 AM Từ Lyon đi Lourdres nhiệt độ 7.6 C, khá lạnh đoạn đường
dài 430 miles. Cũng như thương lệ là giờ kinh sáng cùng nhau dâng chuổi 50 với
5 sự vui. Trời vẫn tiếp tục mưa nhẹ 7 giờ sáng mà Lyon vẫn chưa tắt đèn,chiếc
Bus Mercedes của Holy tour lướt qua trong mưa bay mù mịt. Đây là đoạn đương xe
bus dài nhất trong chuyến hành hương 9 giờ chạy qua những thảo nguyên mênh
mông, núi đồi khúc khuỷu , bà con phải qua 3 trạm nghỉ để ăn uống và
làm vệ sinh cá nhân.3 giờ kinh sáng, trưa và chiều cũng như những tiếc mục giúp
vui rất hào hứng. Có những hạnh phúc không đến bất ngờ một lần rồi ra đi để nỗi
buồn mang theo từ quê hương ra hải ngoại hay những đau thương nghiệt ngã của cuộc
đời; tất cả những dữ kiện ấy được Chúa Mẹ Maria chữa lành hoặc giải toả qua các
câu chuyện kể của anh chị em trong phái đoàn mà chính bản thân mình đã trải
nghiệm.
Lourdes ( Lộ Đức) là một
thị xã của Pháp , nằm trong bộ phận của Hautes -Pyrenees và vùng
Midi-Pyrenees .
Trung tâm của Kitô giáo hành hương , Lourdes chào đón mỗi năm có hơn 5 triệu người hành hương và du khách từ khắp nơi trên thế giới và 60.000 bệnh và người tàn tật đến để xin ơn
Lourdes cuộc hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria với Bernadette Soubirous vào năm 1858 , đã làm cho thị trấn này, một nơi được biết đến trên toàn thế giới . Thành phố dự kiến gần 10 triệu người hành hương và chuyến thăm của Giáo hoàng Benedict XVI trong tháng 9 năm 2008 .
Lourdes 15.000 dân nằm dưới chân của dãy núi Pyrenees, trong khu vực lịch sử của Bigorre , trên Gave de Pau , phía tây nam của Tarbes . Thành phố này được xây dựng xung quanh một núi đá lộ của người thừa kế dòng sông băng Argeles- Gazost mà trên đó các lâu đài, nhà thờ được xây dựng tại Thị trấn nầy
có 230 khách sạn được xếp hạng thứ ba của thành phố khách sạn ở Pháp sau Paris và Nice và có 22 tu viện lớn nhỏ
Hầu hết các nền kinh tế Lourdaise dựa trên cuộc hành hương du lịch liên quan đến sự màu nhiệm của Đức Maria vô nhiễm tội truyền . Năm trăm cuộc hành hương mỗi năm , điểm cao nhất vào tháng Năm, tháng của Mẹ Maria, và vào tháng Tám , Hồn Xác Lên Trời . Mỗi buổi tối mùa hè lúc nào cũng cử hành đuốc Madonna .
Xung quanh đền thờ , thương mại lưu niệm tôn giáo rất phát triển .. Cửa hàng sang trọng đáng ngạc nhiên đối với một thành phố nơi nghèo trước đây chỉ có chừng 4000 cư dân và sống băng nghề chăn nuôi và đẻo đá
Trung tâm của Kitô giáo hành hương , Lourdes chào đón mỗi năm có hơn 5 triệu người hành hương và du khách từ khắp nơi trên thế giới và 60.000 bệnh và người tàn tật đến để xin ơn
Lourdes cuộc hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria với Bernadette Soubirous vào năm 1858 , đã làm cho thị trấn này, một nơi được biết đến trên toàn thế giới . Thành phố dự kiến gần 10 triệu người hành hương và chuyến thăm của Giáo hoàng Benedict XVI trong tháng 9 năm 2008 .
Lourdes 15.000 dân nằm dưới chân của dãy núi Pyrenees, trong khu vực lịch sử của Bigorre , trên Gave de Pau , phía tây nam của Tarbes . Thành phố này được xây dựng xung quanh một núi đá lộ của người thừa kế dòng sông băng Argeles- Gazost mà trên đó các lâu đài, nhà thờ được xây dựng tại Thị trấn nầy
có 230 khách sạn được xếp hạng thứ ba của thành phố khách sạn ở Pháp sau Paris và Nice và có 22 tu viện lớn nhỏ
Hầu hết các nền kinh tế Lourdaise dựa trên cuộc hành hương du lịch liên quan đến sự màu nhiệm của Đức Maria vô nhiễm tội truyền . Năm trăm cuộc hành hương mỗi năm , điểm cao nhất vào tháng Năm, tháng của Mẹ Maria, và vào tháng Tám , Hồn Xác Lên Trời . Mỗi buổi tối mùa hè lúc nào cũng cử hành đuốc Madonna .
Xung quanh đền thờ , thương mại lưu niệm tôn giáo rất phát triển .. Cửa hàng sang trọng đáng ngạc nhiên đối với một thành phố nơi nghèo trước đây chỉ có chừng 4000 cư dân và sống băng nghề chăn nuôi và đẻo đá
. Đến Lộ-Đức lúc 4 giờ chiều Chúa Nhật vì để kịp dâng
thánh Lễ , cho nên cất hành lý và nhận phòng tại khách sạn , đoàn lập tức đến Nhà thờ chính để viếng thăm
và dâng lễ. Lộ Đức là trung tâm du lịch lơn nhất cho nên lương người
quá đông nếu không có tổ chức kỷ lưỡng thì dễ bị lạc lối, do vậy cha linh hướng
đi trước cầm cây cờ vẫy vẫy để làm hiệu, có người phía sau nói đùa rằng “ nếu
cha Tuấn thêm cây gậy thì giống Môi-Sen khi dẫn dân Irael về đất hứa” và chính
chúng tôi cũng có cảm nghĩ như vậy.Đức Mẹ Lộ Đức chính là biểu tượng cũa yêu
thương của hòa giải, là những ngườiViệt Nam lưu vong đủ mọi thế hệ mang tâm trạng của nhưng người Do Thái phiêu
linh của hai ngàn năm trước. Chúng tôi
đi qua nhiều con phố phố nào cũng toàn là các cửa tiệm bán các vật dụng lưu niệm
và đó là ngành kinh doan chính và biến nơi đây thành trù phú nhất.
Chiều Chúa Nhật Lourdres có nắng ấm chúng tôi đến dâng
thánh Lễ tại nguyện đường cạnh vương cung Thánh đường, phía bên ngoài khu Vương
cung thánh đường từng đoàn người đi rước
kiệu đẩy theo những chiếc xe và trên đó là những bệnh nhân có lẽ là y khoa đã
bó tay họ đến để cậy vào lòng từ ái Mẹ( có rất nhiều trường hợp được công nhận chữa lành bởi phép
lạ được giáo hội công bố) và thường những cuộc rước kiệu sẽ kéo dài đến nửa
đêm.
Xong thánh lễ chúng tôi đi viếng hang đá phía sau núi
nơi Đức Mẹ hiện ra cùng Thánh Nữ Bernadette có tất cả 18 lần có sự chứng
kiến của nhiều người và Đức Mẹ cho biết “ Ta là đấng vô nhiễm nguyên tội” Những tảng đá nơi hang đá bóng láng vì nhiều
bàn tay của khách hành hương sờ vào để xin ơn cứu chữa. Nhìn lên Hang đá tượng
Mẹ vô nhiễm đứng rất uy nghi nhìn ra từ bốn phía. Nơi đây cách mỗi giờ có một
thánh lễ Tạ ơn, đèn nến sáng rực không giờ nào tắt.
Sau khi cơm tối xong chúng tôi mỗi người ý,
có người tham gia kiệu mình Chúa, có người đi xin nước Thánh, có người đi đốt nến
cầu nguyện nơi hang đá Massabielie.,tắm giếng Thánh..có ít nhất cả triệu người
đến tắm hằng năm.
Hai đêm và một ngày phái đoàn dừng chân nơi đây anh chị em có dịp chứng kiến quyền phép của Thiên
Chúa với những công trình xây dựng mang tính thời đại của giáo hội Thiên Chúa
giáo La Mã tiền bán thế kỷ thứ 19. Do vậy phái đoàn hành hương Giáo xứ Saint
Anne Tacoma cùng hiệp thông với khách hành hương khắp nơi đốt sáng niềm tin qua
hai đêm thắp nến và đi kiệu cũng như đi
viếng 14 chặng đường khổ nạn Chúa Ky tô vòng quanh trái núi. Đặc biệt ngày thứ
2 được dâng thánh lễ ngay trong nguyện đường Thanh Gioan Vianney cũng là bổn mạng
của các linh Mục , sau đó đi thăm viếng những di tích 2 nơi ở của gia đình
Thánh Nữ Bernadette sinh sống :Đó là gia
đình của Ông Francoise Soubirous và Bà
Louis Casterot là thân phụ mẫu của
Thánh Nữ. Ông bà sinh hạ 9 người con 6 trai 3 gái, có 3 người con chết trước 10
tuổi . Sau Cách mạng Pháp gia đình sơ sút gia đình không đủ tiền chi trả tiền
nhà cho nên dọn về ở nơi một phòng giam trước cách mạng,một căn phòng chật hẹp
chừng 6m vuông mà chứa cả 6 người ăn ở cuộc sống rất khó
khăn và nơi đây Thánh nữ nhận ơn rửa tôi và sau đó vào dòng tu
Lộ Đứclà nơi bình an,chốn cầu nguyện không phải
là công trình của loài người mà là quyền năng của Thiên Chúa qua trung gian Mẹ
Maria truyền cho Bernadette:( Là ta không làm con sung sướng ở đời nầy mà là ở
đời sau “)Bernadette chết 1879 và 30 năm sau được bốc xác một trong những bước
phong thánh xác minh về thể nhục, có ba lần bóc xác lần cuối vào ngày 18/5/1925
trước sự chứng nghiệm của chính quyền và y, bác sĩ và thi thể hiện quàng tại
nnguyện đường dòng kín để mọi người viếng thăm. Bernadette đã được Đức GH Pio XI phong thánh ngày 8/12/1933.
Phái đoàn được tham
quan 3 nhà thờ lớn: Nhà Thánh Holy Rosary, Nhà
Thánh Bernadette , Nhà Thờ Thánh Pio và ngôi nhà thờ Thánh Phero nơi đây có giếng rửa tội
Bernadette. Tất cả các công trình kiến trúc là một kiệt tác.
Tây Ban Nha
Giả Từ Mẹ Lộ Đức chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình đến Thánh địa Fatima ( Bồ Đào Nha) sau 3 tiếng
thì vào biên giới Tây Ban Nha . Tây Ban
Nha nằm về phía Tây Nam Châu Âu giáp Địa Trung Hải. Diện tích chừng 500 Km2 Dân
số 47 triệu 75% theo đạo công giáo. Quê hương của danh họa Picasso và nằm trong
dãy Picos Europes với những đồi núi và thảo nguyên tạo quang cảnh rất hùng vĩ của
xứ mặt trời. Đoàn dừng chân tại thành phố Salamanca cách thủ đô Marid 250 Km. Salamanc a chiềucuối Thu lá vàng đầy phố
Salamanca chiều cuối Thu lá vàng đầy phố,Bà
con phải đi bộ trên lá khô một đoạn khá xa để đến khách sạn vì không có lối để
xe lớn vào. Hôm nay cha linh hướng phải dâng thánh lễ ngay tại phòng ăn của khách
sạn không rượu lễ không chén thánh Cha sở dùng chén và ly tại khách sạn cũng
như rượu vang ngoài chợ để làm của lễ cha con dâng lễ và bẻ bánh chia nhau làm
tôi nhớ lại buổi tiệc ly của chúa cùng các môn đệ .
Sang 16/10 trong giờ breakfast thì hướng dẫn
viên du lịch đến , cô là người bản xứ nói tiếng anh rất thông thạo. Trước tiên
cô đưa chúng tôi đến dâng thánh lễ sang tại nhà thờ của các Soeur dòng kín Dòng
Elizaberth , nhà thờ tường mạ vàng và công trình xây dựng gần một thế kỷ. Dâng Thánh lễ xong . Chúng tôi từ
biệt các soeur và gởi gắm một số lời càu nguyện đến thăm trung tâm thành phố
nơi đây là khu thương mại một quảng trường rộng không mái che , các thương nhân
đến dọn quay và bày bán , xung quanh là những cao ốc là bản doanh của các cơ
quan kinh doanh lớn , phía đông là hoàng cung của hoàng hậu cuối cùng của hoàng
gia Tây Ban Nha sinh sống. Sau đó viếng nhà thờ chính tòa giáo phận Salamanca
nhà thờ xây theo kiểu Gothic có tháp chuông cao và cửa vòng cung, nhà thờ xây dựng
trong vòng 230 năm mới hoàn thành. Năm 1947 xãy ra động đất trong lúc dâng
thánh lễ nên một cây tháp bị nghiêng ,nhưng không có thiệt hại về nhân mạng, do
vậy mỗi khi cuối tháng Mân côi 30/10 hằng năm giáo dân cử một người bận áo quần
trắng leo lên nóc nhà thờ múa hát để tạ
ơn. Phái đoàn chụp hình lưu niệm trước cửa trước khi lên xe đi Fatima Bồ Đào
Nha , 11 giờ ra khỏi địa phận Tây Ban
Nha theo hướng Tây Nam qua trạm kiểm
soát vào Bồ Đào Nha phải vươt qua bao nhiêu đường hầm có hầm dài hơn cây số dọc
theo rặng núi Picos De Europs
Bồ Đào Nha
Bồ Đào Nha là quốc gia ở Tây Nam bán đảo Iberia . Có 97%
là Công giáo, Mẹ Maria được người dân tôn sùng là Nữ Thần , Đất nước BĐN là nơi
gặp gỡ giũa đất liền và biển cả, là đất nước tương phản mà những vẽ đẹp được
gìn giữ qua mọi thời gian, là nơi hòa hợp của những huy hoàng của quá khứ và những
nét tân kỳ của hiện tại, xứ sở của những cây sồi , tức là cây Ô-Liu
và Rượu vang Porto là rượu vang ngon nhất thế giới . FATIMA là đất thánh cách thủ đô Lisbon 125 Km. Đoàn ở lại với Mẹ
Fatima một ngày và một đêm đi viếng vương cung thánh đường chính, thánh đường nầy xây năm 1921 ,trong nhà thờ
có mộ của Thánh Luxia, Jacinta và Francisco là ba người được Mẹ trao ba mệnh
lênh
Fatima : Hãy ăn năn đền tội, lần chuổi
mân côi và tôn sùng mẫu
tâm. Thăm và chụp hình bên gốc cây sồi mẹ hiện ra, Viếng thăm bảo tàng viện,
xem video ghi lại bối cảnh lịch sử Fatima trong Chiến tranh thế giới 1914-1918,
tham quan các phẩm và tặng vật của các quốc gia dành cho các triều đại giáo
hoàng vô số kể, viên đạn mà kẻ sát nhân ám sát ĐG.H. J Paul được gắn trên mão triều Thiên Mẹ Fatima trưng bãy trong BTV nầy, nơi
đây anh chị em đã ký vào sổ lưu niệm . Đối diện với Thánh đường Fatima là
chapel mới xây là nơi dành cho khách hành hương đến cầu nguyện , một số anh em
đến sấp mình nơi đây cầu xin Mẹ Fatima ban ơn và che chở cho gia đình, cho quê
hương và dân tôc luôn được an bình , thịnh vượng- một số khác đốt nến cầu nguyện tại địa điểm Mẹ hiện ra . Đặc biệt trên tường
phía cửa ra vào có những lời nguyện bằng nhiều ngôn ngữ có cả tiếng Việt
Ytaly
Ngày 18/10 Thứ 5 : 5 giờ sáng dâng thánh lễ
tại nguyện đường nơi mẹ hiện ra , mỗi phái đoàn chỉ có thời gian 30 phút cho nên trong bài giảng cha sở chỉ nhắc những
điều cần thiết và sau thánh lễ phái đoàn dùng điểm tâm tại Khách sạn và chuẩn bị
một cuộc hành trình mới: Về giáo đô La Mã ( Rome)
Trên đương ra phi trường hướng dẫn viên du lịch
hương dẫn đi thăm làng Valinhos nơi mà các em bị bắt giữ nơi đây là một trái đồi
trồng Ô-liu và là nơi Mẹ hiện ra lần thứ 4 không phải ngày 13 như thường lệ mà
là ngày 19/8/1917 . Đây là khu di tích được bảo quản nguyên trạng từ 1917 đến
nay và chăm sóc kỹ lưỡng những hành lang , lối đi từng bậc rất đẹp mắt chính giữa khu vườn là pho tương Đức Mẹ
dành làm nơi cầu nguyện cho khách vãng
lai . Rời khu vườn Vilinhos chúng tôi đi
thăm làng Aljustre nơi ngôi nhà
và giếng nước phía sau nhà Lucia
chính đây Thiên Thần hiện ra với Lucia.
Các ngôi nhà củ kỷ , các di tích vẫn còn nguyên vẹn: từ chuồng lừa, bếp
nấu, giường nằm vv. Một số anh chị em còn trò chuyện và chụp hình với cháu của
Thánh Nữ Lucie một trong ba người được Đức
Mẹ tỏ mình. Là Lucia, Fracisco và Jacinta hai anh em Franciisco , Jacinta được
Chúa gọi về trước chỉ còn Lucia nhận lãnh 3 mệnh lệnh bí mật vừa mới qua đời và
đã được Đức J Paul II công bố.
Rời làng Aljustre quê nhà của Lucia, chúng
tôi lên xe đi thảng đến Phi trường Lisbon trở lại Paris máy bay cất cánh lúc 11
giờ sáng giờ địa phương đến Paris lúc 3 giờ chiều và đổi đường bay đến Rome Thủ
đô nước Ý lúc 7 giờ đêm, Cô Jack đại diện Holy Tour đã đem xe chờ chúng tôi và
đưa về khách sạn lúc 10 giờ và nghĩ đêm tại nơi đây.
Sáng ngày 18/10 đi San Giovanni Rotondo ở miền
Nam nước Ý để viếng( đền thánh Pio năm dấu thánh (The
Shrine Of ST Padre Pio) là Trung tâm hành hương đứng thứ ba trên thế giới. Khởi
hành lúc lúc 8 giờ sáng đoạn đường dài 257 miles trên đường ngoài giờ kinh Cha
sở review lại ngày qua về những thu hoạch
về đời sống tâm linh, về phong tục và đời sống những nơi đã viếng thăm cũng như
nhắc lại những điều cần để ý.. Đến
Rotondo lúc 2:45 Dâng thánh Lễ dưới
thi hài của Thánh Francisco và sau đó đi 14 chặng đường Thánh giá viếng thăm
các đền thánh và các di tích về cuộc đời Thánh Pio, tham quan căn phòng nhỏ nơi
trưng bày quần áo còn in vết máu của dấu thánh, các vật dựng hằng ngày, tòa giải
tội, cây thánh giá mà từ đó ngài nhân lãnh ơn thông phần. Tất cả được bảo quản
cẩn thận. Viếng thi hài còn nguyên vẹn đặt trong căn hầm của Đền Thánh Pio đầy ánh hào quan ai bước
vào tương chừng như lạc vào những
chuyện cổ tích mà ta thường nghe tại quê nhà lúc còn nhỏ . Ngài nằm như một người nằm
ngụ rất an bình.
Cha thánh Pio là một tu
sĩ đã cống hiến đời mình cho Thiên Chúa, ngài được nhận món quà siêu nhiên của
Chúa Kito tặng năm dấu thánh khi ngài cầu nguyện trước tượng Chúa chuộc tội và
những vết thương nầy đau đớn và chãy máu cho
đến khi ngài qua đời. Ngài cũng được Chúa và Mẹ đến thăm cá nhân và lien
lạc hằng ngày qua thiên thần hộ mệnh. Ngài có năng lực siêu nhiên thông công
nói chuyện với các linh hồn .Do vậy cha tận hiến cuộc đời cho những ai tìm đến
ngài nhất là các linh hồn nơi luyện ngục. Ngaì qua đời năm 1968 Thọ 81 tuổi,sau
40 năm giáo hội cho khai quật thi hài ngài vẫn còn nguyên vẹn không bị phân hủy
ngoài trừ một vài bộ phận nhỏ và cho vào hòm kính trưng bàyNhà Thờ Đức Mẹ đầy
ơn sũng ( Santa Maria Delle Grazie) để mọi người chiêm ngưỡng, nhà thờ xây dựng năm 1956 và khánh thành năm
1959 và được thánh hiến bởi giám mục
Foggia . Vương cung thánh đường Mẹ đầy
ơn sũng không những là một cơ sở tôn giáo mà là trung tâm du lịch đã làm cho miền
núi San Giovanni Rontodo trở thành một vùng trù phú không những về phương diện
kinh tế, đời sống xã hội mà cả y tế Bệnh viện Thương Khó cha Pio xây dựng năm
1940 và đưa vào hoạt động năm 1956 nhằm phục vụ người nghèo và được xem là bệnh
viện hữu hiệu nhất tại Châu Âu
Đền Thánh Pio
được hoàn thành năm 2004 là một cong trình kiến trúc tân kỳ bởi kiến
trúc sư Renzo Piano Genoan , có thể chứa
6500 chỗ ngồi và ngoài sân chứa 30.000 người. Cả ngoài lẫn bên trong trang trí
rất đẹp, các cột được trang trí các hình ảnh về cuộc đời cua Cha Thánh Pio và
Thánh Fracisco Assisi.Năm 2010 Thi hài cha Pio dời về chính đền thánh của ngài
Ngày thứ 10( Thứ bảy 19/10).
Rời San Giovanni Rotondo trên đường đến
Loretto 180 miles viếng Thánh đường Mẹ đầy
ơn phước. Trên đường ghé thăm
hang Tổng lãnh Thiên Thần Micae nằm sâu trong hang núi, sách có ghi nơi
đây Thiên thần hiện ra và giúp đỡ dân địa phương chống lại thú dữ và dịch bệnh
và từ dó trở thành linh địa hằng năm có nhiều khách đến tham quan và xin ơn. Đây là một eo núi đèo heo hút gió nhờ vậy trỡ
thành nơi ồn ào và nhộn nhịp trù phú. Rời hang Tổng lãnh Thiên Thần chúng tôi đến
viếng thăm Vương cung thánh đường Mẹ Đầy Ơn Phước tại Thành Phố Loretto, thăm
phòng nguyện nguyện và dâng thánh lễ ngay trong ngôi nhà Nazarette, ngôi nhà nầy
được thiên thần mang Loretto, khách hành hương rất đông ngày hôm nay .Bài Phúc
âm hôm nay “ Mọi tội lỗi có thể đươc tha nhưng xúc phạm đến thánh thần là không
thể tha. Con người là loài thụ tao không sao tránh khỏi sự cám dỗ tội lỗi,
nhưng không được xúc phạm thần khí Chúa. Phái đoàn nghỉ đêm tại khách sạn San
Francesco.
Ngày thứ 11( Chúa nhật
20/10)
Từ giả
Loreto lúc 7:50 - đi Assisi . trên đường đến Assisi ghé viếng Vương cung
Thánh đường “ Đức Mẹ các Thiên Thần nằm giữa Loreto và Assisi nơi đây Thánh
Phanxico về tu học và chết tại đây , xác ngài chôn tại đây. Đặc biệt sau nhà thờ
có vườn hồng không có gai. Phái đoàn đã thăm viếng và chứng kiến Bức tượng ngài
trên bàn tay lúc nào cũng có con chim bồ câu đậu trong lòng bàn tay. Truyền rằng
Thánh Phanxico rất yêu
thích thiên nhiên và chim trời ngài rất gần gũi với chúng . Ngài cũng được nhận
ân huệ năm dấu thánh Như Cha Thánh Pio
Assisi là thành phô có 30.000 dân, cách Rome
175 Km là nơi sinh của thánh Francisco
và Thánh Nữ Clare. Thánh Phanxico con của
một phú hộ chuyên nghề xuất nhập cảng tơ lụa ,sinh năm 1182 và mất 1226 .
Thánh Phanxico trải
nghiệm và chứng kiến những mảnh đời nghiệt ngã trong xã hội. Từ đó đã nãy sinh
ý tưởng phục vụ. Cha ngài muốn ngài phải trở thành một thương nhân để cai quản
sự nghiệp , nhưng ông đã từ chối ,Ông gia nhập quân đội hai năm và sau đó giải
ngũ và sau đó ngài sống đời tận hiến gom góp của cải để xây nhà thờ và lập
dòng. Dòng Phanxico là do ngài lập ra và ngài là bổn mạng của Đức Thánh Cha
Francisco hiện nay
Thánh Nữ Clare sinh năm 1194 là một thiếu nữ
xinh đẹp, con nhà giàu nhưng được ơn Chúa Bà đã từ bỏ và theo Thánh Phanxico lập
dòng” chị em hèn mọn) nhằm chăm sóc bệnh nhân, giúp người hèn mọn, họ sống khắc
khổ trong tinh thần phục vụ .Đến 20 tuổi Bà đươc Cha Phanxico cử làm bề trên.
Thánh Nữ Clare từ trần ngày 11 tháng 8 năm 1253 chỉ hai năm sau được phong thánh và được chôn tại nhà thờ San
Giorgio. Ngày 15/6/1255 Đức giáo hoang
Alexander IV Phong thánh là Saint Clare Thành Assisi. Nhà Thờ Saint Clare hoàng thành năm 1260. Sáu trăm
năm sau Thi hài Saint Clare được chuyển về nhà thờ mới là Basilica Of Saint
Clare. Thánh Phanxico và Saint Clare là hai người bỏ gia đình, bỏ giàu sang quyền
quý vát thánh giá chúa
Để tưởng niệm công đức Thánh Phanxico Giáo hội
cho xây Vương cung thánh đường Basilica of –St Phanxico Assisi hoàn thành 1280
có hai vương thượng và vương cung hạ nằm
trên trái núi trước đây là khu vực dùng làm bải xử tội nhân cho nên người ta gọi là vùng địa ngục nhưng
khi thánh Phanxico về lập dòng trở nên thành phố Thiên Đàng đó là tên do dân đại
phương thường gọi. Assisi chỉ võn vẹn có 2000 cư dân nhưng có đến 5 triệu khách
hành hương mỗi năm thật là ân huệ của Thiên Chúa dành cho.
Thánh đường rộng 50m X
80m cao 18 m xây hai tầng là một trong điểm của thế giới nghệ thuật, nội thất
trang trí theo kiểu Gothic sáng sủa , đầy màu sắc, mặt tiền theo kiểu La
Mã có cửa sổ hoa hồng , khảm đá mosai
vàng
Vương cung Thánh đường
hạ xây trước và nơi đây ghi lại
những hình ảnh và cuộc sống khó nghèo của ngài và thi hài của ngài được bảo vệ
kỷ lưỡng vì trước đây sợ đánh căp, Phái đoàn dâng thánh lễ nơi đây lúc 3 giờ
chiều. Xong Thánh lễ tiếp
tục tham quan các nơi xung quanh Thánh đường và sau đó về lại khách sạn .
Ngày thứ 11 thứ hai
(21/10).
Đây là chặng cuối cùng trong cuộc hành hương
phái đoàn trở về Roma Thủ đô của Nước Ý
và Vatican giáo đô của giáo hội. công giáo
.Trong 11 ngày Chúng tôi đã dùng
chiếc xe bus để làm nơi cầu nguyên , những tiếng cầu kinh đi từ đông sang Tây,
từ nam xuống bắc, qua bao nhiêu đồi núi, phố phường mà chúng tôi để lại những
lời kinh nguyện của những đứa con của Mẹ Việt nam có quá nhiều thương đau và khổ lụy ! Xin Chúa thương xót
chúng con.
Ý Đại
lợi là một đất nước có bề dày lịch sử Thiên Chúa giáo , đã giữ lại vô số di sản của nền văn minh cổ đại, những kiến trúc theo
kiểu Gothic. Giáo đô La Mã có khoảng 80 nhà thờ lơn nhỏ
Giáo đô Vatican nằm quận của Rome được bao bọc
bằng bức tường cao, là quốc gia độc lập
nhỏ nhất thế giới, và cũng là quyền lực nhất thế giới, được cai trị bởi Đức Giáo Hoàng, đó vị vua tuyệt đối của châu Âu.
Có cơ chế chính quyền và quân đội riêng chừng 100 vệ binh người Thụy Sĩ,
quân phục sọc đỏ, vàng, và màu xanh truyền
thống, và cầm pikes thế kỷ 15, trong thực tế có những người lính được đào tạo
chịu trách nhiệm về an toàn cá nhân của Đức Giáo Hoàng. Vatican bao gồm các nhà thờ lớn nhất là nhà
thờ St Peter xây dựng từ năm 1506 đến năm 1626 mới hoàn tất rộng 80 mẫu, bên
trong trưng bày những hình ảnh của nhưng
danh họa lừng danh trên thế giới như Raphael; Bemini, Michelanglo với kiệt tác
“La Pieta Mẹ sầu bi” nơi linh thiêng nhất của đạo Công giáo, nơi thu hút khách
hành hương và khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Không chỉ là các tỷ lệ
áp đảo (mái vòm, được thiết kế bởi Michelangelo tháp cao 136m trên sàn) nhưng như vậy có hàng trăm tác phẩm nghệ thuật
được trang trí bên trong nhà thờ. Properties của Tòa Thánh- thành
phố Roma được hưởng quyền xuyên biên giới là một phần của di sản thế giới
UNESCO.
La Mã là thủ đô của đế chế La Mã ngày nay là Roma là thủ đô Ý nằm trung tâm của đất nước có hình dáng giống chiếc giày và là một trung tâm văn hóa – kinh tế, thương mại, chính trị hàng đầu của nước Ý. Dân số vào khoảng 2,5 triệu người, nếu tính cả khu vực đô thị xung quanh là 3,8 triệu. Thành phố tọa lạc trên hợp lưu của sông Aniene vào sông Tiber. Rome cổ đại được xây dựng trên 7 quả đồi liền nhau nên được gọi là thành phố 7 quả đồi. Trong thành phố có công trình kiến trúc cổ như quảng trường, nhà thờ, tu viện, hoàng cung, trường đấu mãnh thú, miếu thần, pháo đài cổ, các tượng thần, vòi phun nước Trevi
Đến thăm Rome, quý khách sẽ được chứng kiến tận mắt các tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, có cảm giác như đang viếng thăm một viện bảo tàng khổng lồ. Rome cũng khá nổi tiếng với những món ăn ngon, khách du lịch đến từ khắp nơi trên thế giới không những được biết đến với kiến trúc đẹp mà còn được dịp nếm thử một số món ăn truyền thống của rome. Tất cả các con đường đều hướng về Rome nên có câu” đi đâu cũng về La Mã là vậy)
Ngày thứ 12/ Thứ hai
(21/10)
Viếng hang Toại đạo( nghĩa trang chôn những
người chết vì đạo) nằm ngoại thành Roma nơi chôn cất hơn 120 ngàn nạn nhân
trong đó có cả Thánh Phao lo Lô và
Phero, Hang nằm sâu 20 mét dưới lòng đất với những ngôi mộ chất chồng . Nếu ai đã xem
những phim võ hiệp Hồng Kong với những hang động bí mật cất giấu những bí
kiếp như phái cổ mộ trong Thần d9ieu hiệp
lữ thì hang toại đạo giống như vậy , chúng tôi phải đi xuống hầm với nhiều lối
đi ngoằn ngoèo nhờ có gắn dạ quang nếu
không sẽ bị lạc lối. Có một số anh chị em không dám vào. Ra khỏi hang ,cha sỡ
đã dâng thánh lễ sáng tại nguyện đường xây trên hang vào thế kỷ thứ IV sau 1000
năm mới tìm lại và đã được Thánh hiến.
Tiếp tục đoàn đến viếng Điện Sistine là
trái tim của bảo tàng viện Vatican rộng 55 ngàn mét vuông, xây vào thế kỷ 16 bởi
Đ.G.H. Julius II là bảo tàng lớn nhất với những tác phẩm quý giá nhất thế giới
trưng bày trong không gian rộng lớn ai bước vào ai cũng cảm thấy choáng mắt với những trang trí bên trong giáo , có hơn 850 ngàn quà tặng của các quốc gia và tôn giáo khác . Khách vào
thăm viếng phải ăn bân chỉnh tề và phải qua hệ thống kiểm tra an toàn . tuyệt đối
không quay phim, chụp hình. Diện Sistine
do nhiều triều đại giáo hoàng nên có nhiều màu sắc khác nhau.
Viếng Đền Thờ
Thánh Phero ( St Piter)
Ðền Thờ Thánh Phêrô là thành quả công trình
tái thiết đầy công phu ngôi Ðền Thờ cổ kính do Hoàng Ðế Costantino kiến thiết
vào năm 320. Ðể xây Ðền Thờ mới, người ta đã mất khoảng 120 năm, tính từ đầu
thế kỷ 16, dưới sự điều khiển của 12 kiến trúc sư, trong đó có những người nổi
tiếng như Bramante, Michelangelo, Raffaello và Maderno. Cả Ðền Thờ cũ cũng như
Ðền Thờ mới đều được xây trên mộ của Thánh Phêrô tông đồ, được an táng trên
sườn đồi Vatican, trong khu vực nghĩa trang cạnh hí trường của Hoàng Ðế Nerone.
Mái vòm to lớn của Ðền Thờ Thánh Phêrô do Michelangelo vẽ kiểu nhìn xuống thành
Roma, trở thành điểm hội tụ lý tưởng nhắc nhớ ngôi mộ đơn sơ của Thánh Phêrô,
là Ðá Tảng trên đó Chúa Kitô đã xây dựng Giáo hội của Ngài.Hàng cột vòng do kiến trúc sư Bernini thiết kế giống vòng tay mở rộng như một dấu hiệu tiếp đón yêu thương, nhấn mạnh ý tưởng Mẹ Giáo hội, trong Chúa Kitô, trở thành một cộng đoàn các anh chị em, thuộc nhiều dân nước khác nhau.
1. Ðền Thờ Thánh Phêrô thời Hoàng Ðế Costantino ( phỏng theo tài liệu )
Ðức Anacleto, vị Giáo Hoàng thứ 3 của Giáo Hội, từ năm 77 đến 88, đã thiết lập một nhà nguyện nhỏ dâng kính Thánh Phêrô. Về sau, Hoàng Ðế Costantino cho thiết lập tại nơi đó ngôi thánh đường vĩ đại gồm 5 gian và tồn tại cho đến cuối thế kỷ 15.
Các văn sĩ thời đó kể lại: năm 324, Hoàng Ðế Costantino ngự xuống khu vực Vaticano với quân gia hùng hậu, và phủ phục trước mộ Thánh Phêrô, cởi bỏ hoàng bào, cầm chiếc xẻng lớn và chính ngài bắt đầu đào, xác định khu vực xây đại Vương Cung Thánh Ðường mới. Hoàng Ðế cũng đổ đầy và vác trên vai 12 giỏ đất như một cử chỉ tôn kính 12 Tông Ðồ. Con của ngài là Hoàng Ðế Costante đã được vinh dự hoàn tất công trình to lớn xây cất Ðền Thờ vào năm 349, sau 25 năm kiến thiết.
Các bức họa và hình khắc cổ kính cho thấy Ðền Thờ do Hoàng Ðế Costantino xây cất không khác lắm so với các Vương Cung Thánh Ðường Kitô khác ở Roma, xét về cơ cấu kiến trúc. Nhưng qua các thế kỷ, Thánh Ðường này càng trở nên phong phú nhờ sự quan tâm đặc biệt của các vị Giáo Hoàng cũng như của các ông hoàng Ý và nước ngoài.
Sự biến cải Ðền Thờ Thánh Phêrô diễn ra qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong 12 thế kỷ, Ðền Thờ này được trang điểm phong phú hơn với những bức tường được gắn cẩm thạch, các bàn thờ được tô điểm hơn, và các hậu cung Ðền Thờ được trang trí bằng những bức tranh khảm. Ðá cẩm thạch quí giá được gỡ từ các đền đài dinh thự ngoại giáo hoặc được đưa từ Ðông Phương về, các gỗ hương được cắt từ những rừng xứ Liban, kim loại bóng loáng, những cánh cửa đồng từ vùng Bizantine với vải vóc do các thương gia miền Venezia nhập cảng, các men từ các công xưởng miền Lomoge, kiếng từ vùng Renana, các bức thảm từ Thổ Nhỉ Kỳ, Arập Sicilia, vải vóc của Ý, Anh, Tây Ban Nha, các đèn và bình hương bằng vàng bạc, tất cả được dùng để trang trí cho Ðền Thờ, nhà dành cho Linh Mục, cũng như các nhà nguyện, bàn thờ và các tượng đài khác.
Các Hoàng Ðế và Vua Chúa đến Ðền Thờ Thánh Phêrô để được các Ðức Giáo Hoàng phong vương: Carlo Ðại Ðế là vị đầu tiên được Ðức Leo III (795-816) đội triều thiên tấn phong vào dịp lễ Giáng Sinh năm 800. Sau khi chào Hoàng Ðế với danh hiệu “Carlo Augusto Ðại Hoàng Ðế Thái Bình của dân Roma”, ÐGH dùng dầu thánh xức cho Hoàng Ðế và thắt gươm cho ông giữa tiếng reo vui mừng của người Pháp và Ý. Sau vị Ðại Ðế này, những người kế vị ông là Lotario và Ludovico II, và bao nhiêu vị khác cho đến Federico III đều được phong vương trước mộ Thánh Phêrô Tông Ðồ. Cũng như hòn đá ở Campidoglio (nay là Tòa Ðô Sảnh Roma), giữ gìn tinh hoa sống động nhất của tinh thần Roma trong thời Trung Cổ và Phục Hưng, tảng đá phủ thi hài Thánh Phêrô được coi là nơi cực thánh của thế giới Kitô giáo, được bao nhiêu tín hữu sùng mộ, hầu như hơn cả Thánh Mộ ở Giêrusalem.
2. Xây Ðền Thờ Thánh Phêrô mới
Vaticano chỉ là nơi các vị Giáo Hoàng cư ngụ từ năm 1377 và trước khi giáo triều được chuyển sang Avignon (1309-1377) miền nam nước Pháp, dinh của các vị Giáo Hoàng tọa lạc tại Laterano.
Trong 73 năm Ðức Giáo Hoàng ở Avignon, Ðền Thánh Phêrô bị bỏ hoang đến độ hầu như không thể trùng tu được. Thực vậy, sau một ngàn năm huy hoàng, Ðền Thánh Phêrô do Hoàng Ðế Costantino xây bắt đầu có những dấu hiệu tàn lụi, nhất là nơi các bức tường, đặc biệt là những tường phía nam. Những tường này được xây trên những gạch vụn của hí trường và các dinh thực cổ kính khác.
Vì thế, các vị Giáo Hoàng đã nảy ra ý tưởng xây lại hoàn toàn một Ðền Thờ mới. Nói đúng ra, không phải chỉ vì nhu cầu cần phòng ngừa nguy cơ Ðền Thờ cũ sụp đổ, nhưng còn vì tinh thần thời đó không nhận ra nơi Thánh Ðường cũ kỹ ấy sự huy hoàng vĩ đại như thời Phục Hưng đòi hỏi. Ðức Giáo Hoàng Nicolo V (1447-1455) là người đầu tiên đã đi tới quyết định tiến hành việc xây Ðền Thánh Phêrô mới, và ủy thác cho kiến trúc sư Bernardo Rossellino nhiệm vụ xúc tiến. Theo dự án của nhà kiến trúc này, Ðền Thờ mới có một cổng phía trước và có hình thánh giá Latinh, với một mái vòm lớn ở giữa và khu hậu cung có hình bán nguyệt.
Sau khi phá hủy một số phần của Ðền Thờ, người ta bắt đầu xây khu hậu cung Ðền Thờ mới. Nhưng Ðức Giáo Hoàng Nicolo qua đời vào tháng 3 năm 1455, nên công trình xây cất bị ngưng lại. Các vị kế nghiệp dường như từ bỏ ý tưởng xây Ðền Thờ mới, và chỉ nghĩ tới việc trang trí và phong phú hóa Ðền Thờ cũ. Mãi cho đến thời Ðức Giáo Hoàng Giulio II della Rovera (1503-1513) mới tiếp tục công trình bị bỏ dỡ dang, do ý muốn tìm một chỗ xứng đáng cho lăng tẩm của mình, và Michelangelo dã trình bày họa đồ cho ngài. Khi Michelangelo tới Ðền Thánh Phêrô xem nơi nào có thể đặt mộ của ÐGH Giulio II, ông thấy nơi thích hợp nhất chính là khu hậu cung mới do Ðức Nicolo V khởi công xây cất và ông khuyên Ðức Giáo Hoàng tiếp tục xây cất. ÐGH hỏi phí tổn sẽ là bao nhiêu, Michelangelo trả lời là 100 ngàn đồng vàng. Ðức Giulio đáp: “Hãy làm với 200 ngàn đồng”, và ngài sai hai kiến trúc sư San Gallo và Donato Bramante đi xem địa điểm, và ngài muốn xây lại Ðền Thờ hoàn toàn mới.
Khi Bramante nhận lệnh của ÐGH Giulio II (1503-1513) phá bỏ Ðền Thờ cũ để xây Ðền thờ mới, tức là Ðền Thánh Phêrô ngày nay. Dân Roma kinh ngạc theo dõi việc phá Ðền Thờ cũ và họ đặt tên cho ông Bramante là “Kiến trúc sư phá nhà”.
Trong những năm ấy, nhiều dự án nối tiếp nhau, cho đến khi Michelangelo lúc đó đã gần 70 tuổi, bắt đầu xây mái vòm. Sau khi Michelangelo qua đời (1564), 4 kiến trúc sư khác tiếp tục. Mặt tiền do Carlo Maderno làm xong năm 1614.
Ngày 18-11-1626, Ðức Giáo Hoàng Urbano VIII thánh hiến Ðền Thờ mới, nhân kỷ niệm 1300 năm thánh hiến Ðền Thờ do Hoàng Ðế Costantino thiết lập.
Về sau, kiến trúc sư Giuseppe Valadier đã thực hiện hai đồng hồ ở mặt tiền đền thờ vào năm 1822. Dưới đồng hồ bên trái có quả chuông chu vi 7.2 mét, nặng 9.3 tấn.
II. Vài Ðặc Tính Của Ðền Thờ
2. Trong Ðền Thờ có 46 bàn thờ, bàn thờ cuối cùng được Ðức Piô 9 (1846-1878) thánh hiến ngày 16-1-1856. Có 9 bàn thờ dâng kính Ðức Mẹ dưới nhiều tước hiệu khác nhau.
Tầng hầm đền thờ: nền tương ứng với nền nguyên thủy từ thời hoàng đế Costantino. Trong tầng hầm này có nhiều nhà nguyện chung quanh mộ thánh Phêrô, với những bàn thờ để các linh mục cử hành thánh lễ. Mộ của 147 trong tổng số 264 giáo hoàng cũng được đặt tại đây.
3. Cửa Thánh. Trong số 5 cửa vào Ðền Thờ, có một cửa chỉ được mở ra vào Năm Thánh. Cửa năm Thánh 2000 đã được ÐTC mở trong đêm vọng giáng sinh 24-12-1999. Cửa này được đóng lại vào ngày 6-1-2001.
4. Mái vòm Ðền Thờ có chu vi bên trong là 42.7 mét và chu vi bên ngoài là 58 mét, và cao 50.35 mét. Tính từ nền tới đỉnh cao nhất của mái vòm với thánh giá là 135.2 mét. Thánh giá trên đỉnh cao 4.87 mét và thanh ngang rộng 2.65 mét. Trọng lượng của mái vòm theo các nhà toán học Boscovich, Le-Leur và Lacquer, là 56,208,837.46 kílô.
Ngoài 2 cầu thang vòng mà các du khách leo lên mái vòm, còn có 9 cầu thang khác, 7 cái lớn và 2 cái nhỏ, mặc dù đi từ bên trong Ðền Thờ, nhưng đều dẫn tới cùng một đích điểm.
Bàn thờ chính của Ðền Thờ, được gọi là bàn Thờ Tuyên Xưng đức tin, được xây ngay bên trên mộ Thánh Phêrô theo lệnh của Ðức Clemente VIII (1592-1605). Bàn thờ có tán che và 4 cột vòng bằng đồng chống đỡ, do Bernini thực hiện. Tượng các thiên thần ở trên mỗi góc cao 3.5 mét. Tán che đền thờ được khánh thành ngày 29-6-1633.
Dưới bàn thờ này, có một bàn thờ khác của Ðức Giáo Hoàng Callisto II (1119-1124), và bên dưới đó, lại có một bàn thờ khác nữa của Ðức Gregorio Cả (590-604). Ði xuống sâu hơn, người ta gặp một khối hình vuông, bọc cẩm thạch trắng và đá vân đỏ. Ðó là đài do Hoàng Ðế Costantino thực hiện để kính nhớ Thánh Phêrô Tông Ðồ và có lẽ trong dịp lễ tưởng niệm chiến thắng của ông tại Cầu Milvio ngày 28-10-312.
5. Tượng thánh Phêrô bằng đồng, có từ thế kỷ 13, được tôn kính trong Ðền Thờ: chân phải của ngài bị mòn nhiều vì sự hôn kính của hàng triệu tín hữu qua dòng thời gian, kể từ khi Ðức Piô IX ban ân xá 50 ngày cho những ai hôn chân này sau khi đi xưng tội.
Theo một truyền thống cổ kính, ngày 29-6 mỗi năm, lễ thánh Phêrô, người ta mặc phẩm phục giáo hoàng cho tượng thánh Phêrô. Năm 1798-1799, lễ nghi mặc áo bị chính quyền cộng hòa cấm, tạo nên sự bất mãn rất lớn nơi dân Roma, vốn rất trung thành với truyền thống, khiến cho bộ trưởng tư pháp phải cho mặc áo, ngoại trừ chiếc mũ ba tầng.
6. Tượng Ðức Mẹ Sầu Bi (Pietà) – ở bên tay phải, khi mới bước vào Ðền Thờ -, bằng cẩm thạch trắng, diễn tả Mẹ Maria đang ẵm xác Chúa Giêsu từ trên thánh giá mới tháo xuống, do Michelangelo thực hiện năm 1500 khi mới 25 tuổi và là tác phẩm duy nhất mang chữ ký của ông. Tên ông được khắc vào vệt áo băng qua ngực Ðức Mẹ. Cho đến năm 1972, du khách có thể đến gần ngắm tượng, nhưng một người điên Hungari, quốc tịch Úc, đã leo qua rào dùng búa đập vào tượng nhiều lần trước khi bị cản lại. Mũi Ðức Mẹ bị đập vỡ. Người ta thu thập các mảnh vở và gắn lại. Hiện nay người ta đặt kính chắn đạn để bảo vệ kiệt tác nghệ thuật này, nhưng khách viếng thăm cũng khó chiêm ngưỡng pho tượng này hơn so với trước kia.
7. Trong số ngôi mộ của các nhân vật trong Ðền Thờ thánh Phêrô, có 3 phụ nữ là nữ bá tước Matilde di Canossa, hoàng hậu Cristina Thụy Ðiển, và Maria Clementina, hoàng hậu Anh Quốc. Hoàng Hậu Cristina thoái vị sau khi trở lại Công Giáo và được mời tới sống trong triều đình Giáo Hoàng và qua đời tại Roma năm 1689. Tượng trình bày cảnh bà chịu phép rửa lần thứ hai Innsbruck.
III. Mặt Tiền Ðền Thờ
Mặt tiền Ðền Thờ Thánh Phêrô được thực hiện trong vòng 8 năm trời với 700 công nhân và hoàn thành năm 1614.
Ðể chuẩn bị đón mừng Năm Thánh 2000, Ban Quản Ðốc Ðền Thánh Phêrô đã cho tu bổ toàn diện mặt tiền Ðền Thờ, lần đầu tiên kể từ khi được hoàn tất, không kể một lần thanh tẩy vào năm 1985 với kinh phí 2 triệu mỹ kim do Hội Hiệp Sĩ Colombo tài trợ. Lần thanh tẩy đó có nhiều thiếu sót vì dụng cụ không thích hợp.
Công trình thanh tẩy tu bổ toàn bộ được hoàn tất cuối tháng 9-1999 sau gần 2 năm rưỡi tiến hành, từ tháng 3-1997.
Trong giai đoạn đầu tiên, mấy chục chuyên viên đã sử dụng các dụng cụ tối tân để trắc nghiệm mặt tiền Ðền Thờ với phương pháp siêu âm, âm hưởng điện từ và kính hiển vi điện tử. Các kỷ thuật này từ lâu vẫn được ENI, Công ty dầu hỏa Ý, dùng trong lãnh vực dầu hỏa. Quang tuyến X được xử dụng để xác định cơ cấu phân tử của mặt tiền Ðền Thờ và những ô nhiễm. Tiếp đến, họ tẩy sạch lớp đá cẩm thạch trắng đã bị hoen ố, bụi bặm và khói xe bám vào với thời gian, bằng cách dùng các dụng cụ như máy xịt cát mịn, các vòi nước, hoặc các máy khoan nhỏ và máy cạo.
Việc thanh tẩy và tu bổ toàn diện là điều cần thiết vì không khí tại Roma bị ô nhiễm cao độ. Mặt tiền Ðền Thờ Thánh Phêrô được xây bằng lớp đá cẩm thạch có những lỗ li ti rất dễ bị thương tổn vì những lớp sương mù trộn với khói xe ở Roma. Thêm vào đó, mưa át-xít cùng với mốc meo ở trong những lỗ nhỏ trên lớp đá tiếp tục ăn mòn các cột, các góc cạnh và 13 pho tượng trên mặt tiền Ðền Thờ. Vì thế, chỉ trong vòng 10 năm sau khi thanh tẩy, mặt tiền Ðền Thờ cũng đã bị hư hại nhiều và cần được chỉnh trang toàn bộ và sâu rộng hơn.
Một lý do khác khiến cho các vị hữu trách quyết định tiến hành việc tu bổ, đó là một cơ hội tốt đẹp nhân dịp Ðại Năm Thánh 2000, và đặc biệt là có sự tài trợ của ENI, Công ty dầu hỏa Ý có chi nhánh tại 80 quốc gia. Công ty này ý thức trách nhiệm của mình vì đã sản xuất và buôn bán dầu hỏa, nên cũng đã góp phần gây nên nạn không khí ô nhiễm làm hư hại mặt tiền Ðền Thờ Thánh Phêrô, nên cũng cảm thấy có trách nhiệm phải góp phần sửa chữa thiệt hại bằng cách dành một phần tài nguyên kỹ thuật của mình cho công cuộc tu bổ này. Tổng số tài trợ lên tới 9 triệu mỹ kim.
IV. Quãng Trường Thánh Phêrô
Từ cây tháp bút ở giữa quảng trường tới mặt tiền Ðền Thờ có khoảng cách 191 mét, trong khi khoảng cách giữa hai tượng thánh Phêrô và Phaolô là 76.73 mét.
Trên mặt tiền Ðền Thờ, có các pho tượng cao 5.65 mét. Các tượng này nếu nhìn gần thì thấy rất là thô kệch và sơ sài. Nhưng chúng được tạc để nhìn từ xa.
V. Tháp Bút
Tháp bút ở giữa quảng trường Thánh Phêrô là một khối đá hình kim tự tháp bằng đá vân cương đỏ ở Ðông Phương, thoạt đầu được Caio Cornelio Gallo, tổng trấn Ai Cập, dựng lên để tôn vinh bản thân. Về sau được Eliopoli đưa về Roma theo ý muốn của hoàng đế Nerone, với mục đích tuyên dương hí trường do ông khởi xướng. Tháp bị đổ và bỏ rơi trong nhiều thế kỷ, cho đến khi được một vài vị Giáo Hoàng để ý tới (Nicolo V 1447-1455, Phaolô II 1464-1471, Phaolô III 1534-1549). Các vị muốn cây tháp này được đặt trước Ðền Thờ Thánh Phêrô, nhưng sự khó khăn trong việc di chuyển và dựng tháp khiến cho nhiều kiến trúc sư nản chí, mãi cho đến đời ÐGH Sisto V (1585-1590), dự án đó mới thành hình.
Tháp được khởi công di chuyển ngày 30-4-1585 và được dựng tại quảng trường ngày 10-9-1585. Công trình này đòi sự hợp lực của hơn 900 người, với 140 con vật và dùng 47 cần trục cùng với 5 đòn bẩy thật mạnh. Qui luật được ban hành trong công trình dựng tháp là các công nhân phải tuyệt đối giữ im lặng và chỉ được nhận lệnh từ kiến trúc sư Domenico Fontana mà thôi. Ngoài ra, dân chúng hiếu kỳ không được đến gần. Ðức Sisto V còn ra lệnh phạt tử hình những người vượt quá ranh giới, và gây tiếng ồn ào.
Theo một lưu truyền từ năm 1770, trong khi tiến hành công việc, thì những sợi dây thừng đỡ tháp bút bắt đầu giãn ra và có nguy cơ bị đứt. Tình trạng thật nguy hiểm. Một trong những người thợ là ông Bresca, vốn là một thủy thủ đã quen với các dây chão, ông ta hô lớn: “Hãy đổ nước vào các dây thừng”. Nhận thấy tình trạng nguy ngập, kiến trúc sư Domenico Fontana vội ra lệnh thi hành ngay lời khuyên đó, và tai nạn được tránh thoát.
Sau khi hoàn thành công việc dựng tháp, thủy thủ Bresca ấy đã được thưởng thay vì bị tử hình. Ông được triệu tới trước mặt ÐGH và ngài yêu cầu ông hãy xin một ơn. Ông Bresca đã xin cho mình và dòng dõi được đặc ân cung cấp lá dừa cho Tòa Thánh để làm lễ nghi Chúa Nhật Lễ Lá. Lời thỉnh cầu được chấp nhận và ngày nay gia tộc Bresca ở miền Liguria vẫn cung cấp lá dừa cho Vaticano.
Năm 1586, Ðức Sisto cho đặt trên tháp một cây thánh giá lớn bằng sắt, trong có chứa mảnh thánh giá thật của Chúa Giêsu. Ở bệ tháp có khắc chữ: “Ðây là thánh giá của Chúa. Các quyền lực đối nghịch hãy trốn chạy. Sư tử của chi tộc Giuda đã chiến thắng”. Ngoài ra còn có câu: “Chúa Kitô chiến thắng. Chúa Kitô hiển trị. Chúa Kitô thống trị. Chúa Kitô bảo vệ dân ngài khỏi mọi nghịch cảnh”.
Tổng cộng từ bệ lên tới đỉnh tháp bút cao 41.23 mét và nặng 312 tấn.
Hai bên có hai bể nước (fontaine) khổng lồ giống nhau, mỗi phút có 38,400 lít nước đổ vào. Vòi nước phun có thể lên cao 14 mét.
VI. Mộ Thánh Phêrô
Như đã nói trên, khu vực xây Ðền Thờ Thánh Phêrô trước kia là một nghĩa trang thời La Mã, và được khám phá trong thập niên 1930, được khai quật trong hai đợt: từ 1939 đến 1949, rồi từ 1953 đến 1958. Hai hàng nhà mồ với những hốc mộ được khám phá, với rất nhiều bích họa, tranh khảm, cùng với một khu vực với những ngôi mộ đơn sơ hơn.
Các cuộc khai quật dưới Bàn Thờ tuyên xưng Ðức Tin đưa tới sự khám phá mà Ðức Phaolô VI tuyên bố ngày 26-6-1968: “Hài cốt thánh Phêrô được nhận diện đến độ chúng tôi coi là có lý”.
Từ đó đến nay, công việc này vẫn được tiếp tục và đồng thời cũng được mở cho các du khách thăm viếng kể từ năm 1975. Nhưng trong những thập niên gần đây, nghĩa trang dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô đang bắt đầu có lỗ và bị lở. Theo các chuyên gia, một vấn đề lớn là sức nóng do hệ thống đèn điện cùng với sức nóng do cơ thể của 250 du khách mỗi ngày đến viếng thăm phát sinh ra. Sức nóng đó làm nảy sinh rêu và mốc từ tường của các ngôi mộ, đồng thời tạo nên các lỗ nhỏ, các nấm mốc, muối và dần dần làm hư hỏng các di tích lịch sử này. Thực tế là nhiều bức bích họa vẽ trên tường các ngôi mộ cổ dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô đã bị phai nhạt, cùng với các hàng chữ viết trên tường. Một số nhà mồ trước kia được mở cho du khách thăm viếng, nay bị đóng lại, vì bị hư hỏng. Một phần của nghĩa trang ở dưới mức sông Tevere gần đó, nên sự ẩm thấp là một vấn đề liên tục, nhất là ở khu vực phía đông của nghĩa trang.
Ðể góp phần tu bổ và cứu vãn mộ Thánh Phêrô cũng như các ngôi mộ khác, công ty điện lực của Ý, tên là ENEL, đã tình nguyện tài trợ dự án với phí tổn khoảng 1 triệu 700 ngàn mỹ kim. Trong những năm gần đây, Công ty ENEL đã góp phần tài trợ việc thiết lập các hệ thống đèn điện cho các đền đài công cộng và nhiều nhà thờ tại Ý. Những ngân khoản đó được rút tù số tiền lời do sự gia tăng tiêu thụ năng lượng điện ở nước này.
Dự án tu bổ Mộ Thánh Phêrô và cải tiến việc bảo trì nghĩa trang bên dưới Ðền Thờ kéo dài nhiều năm trời, và trong giai đoạn thứ nhất, cho tới tháng 11 năm 1999, có biện pháp giới hạn số người thăm viếng nghĩa trang dưới hầm Ðền Thờ Thánh Phêrô. Trong Năm Thánh 2000, việc viếng thăm đang được mở lại theo mức độ cũ, rồi sau đó, lại bị giới hạn. Hãng ENEL dùng những kỹ thuật tân kỳ nhất để thẩm định đầy đủ tất cả những vấn đề của nghĩa trang dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô, thiết lập thành hồ sơ. Tiếp đến các kỹ sư đề ra phương thức để giảm bớt tối đa sự thay đổi nhiệt độ trong khu vực này, và đồng thời kiến thiết một hệ thống đèn điện mới, cùng với hệ thống an ninh.
Cho đến nay, số người viếng thăm Nghĩa Trang bên dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô tương đối ít ỏi, và nhiều du khách không biết là có khu vực này. Ðể viếng thăm, cần phải giữ chỗ trước tại Văn Phòng khai quật của Vaticano, và có người hướng dẫn từng nhóm đi thăm.
Tuy số người viếng thăm ít ỏi, nhưng các chuyên viên công ty ENEL cho rằng 250 người mỗi ngày kể là quá nhiều. Họ đề nghị rằng trong tương lai, một hệ thống bằng máy điện toán các ngôi mộ trong nghĩa trang dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô sẽ được dùng để trình bày cho phần lớn các du khách, thay vì họ đích thân đi thăm các ngôi mộ như hiện nay.
Vào cuối công cuộc tu bổ, kinh nghiệm về các hoạt động này được trình bày trong 2 cuốn sách: một cuốn về mộ Thánh Phêrô được tu bổ và chiếu sáng, cuốn thứ hai về toàn bộ Nghĩa Trang Vaticano.
Cũng nên nhắc lại rằng, trong ngày kỷ niệm một năm lên ngôi Giáo Hoàng, 16-10-1979, chính Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho mở một cổng cao 2.5 mét rộng 2.3 mét để các tín hữu có thể bước vào mộ Thánh Phêrô dưới hầm Ðền Thờ.
Tóm lại, kính viếng Ðền Thờ Thánh Phêrô là một cuộc gặp gỡ với 2 ngàn năm lịch sử Giáo Hội. Qua bao nhiêu thăng trầm của Ðấng kế vị Thánh Phêrô không ngừng nâng đỡ đức tin của các anh chị em mình rải rác khắp nơi trên thế giới, trong các giáo hội địa phương.
Thực vậy, chính vì thánh Phêrô đã tới Roma và mộ ngài được lưu giữ tại đây sau khi chịu tử đạo, nên các tín hữu cũng đã tới hành hương nơi đây, và ÐGH người kế vị thánh Phêrô cũng ở gần mộ tiền nhiệm tiên khởi của ngài. Cả hai sự kiện có cùng một nguồn gốc. Ngoài ra, nơi xây Ðền Thờ không phải được chọn một cách tuỳ ý, nhưng chủ ý được xây trên mộ của Thánh nhân, và điểm hội tụ của Thánh Ðường này chính là nơi được gọi là “Bàn Thờ tuyên xưng đức tin”, ngay trên mộ của Thánh Phêrô.
Ngày 4 tháng 7 năm 1979, khi mừng lễ thánh Phêrô và Phaolô lần đầu tiên ở Roma, ÐTC Gioan Phaolô II nói rằng: “Tại đây, trung tâm của chính Giáo Hội, mầu nhiệm của ơn gọi đặc biệt này đã dẫn thánh Phêrô từ hồ Genezareth đến Roma, và cũng dẫn theo Phaolô thành Tarsa, theo vết của Thánh Phêrô, mầu nhiệm ấy mạnh mẽ nói với chúng ta về thực tại lịch sử của ngài… Tất cả chúng ta đang sống trong cơn lốc của nền văn minh hiện đại, trong sự lo âu của đời sống tân tiến, chúng ta phải dừng lại đây và suy niệm về thể thức phát sinh Giáo Hội này, một Giáo Hội do ý Chúa, đã trở thành trung tâm và “thủ đô” của một sứ mạng rất cao cả: Giáo Hội mà tất cả các Giáo Hội khác đến đây hành hương, tìm thấy trong đó nền tảng sự hiệp nhất của mình… Sự kế nhiệm trên ngai tòa Giám Mục này có một ý nghĩa, không những đối với Giáo Hội địa phương ở Roma này, nhưng cho cả Giáo Hội hoàn vũ nữa, nghĩa là mỗi Giáo Hội địa phương đều thuộc về cộng đồng hoàn vũ. Tất cả điều đó có một ý nghĩa rõ ràng, thực vậy, chính Chúa Kitô đã ban cho Thánh Phêrô quyền cởi mở và đóng lại”.
Ngày thứ 13 ( thứ
3 22/10)
Viếng Thánh Đường Gioan Laterano . Thánh đường nầy là thánh đường cổ nhất
trong lịch sử công giáo La Mã. Là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma. Giáo
hoàng cũng là giám mục của Roma được phong chức tại đây. Khởi công xây dựng từ
năm 311. Thời xưa ĐGH đã cư ngụ nơi đây từ thế kỷ thứ IV đến Thế kỷ thứ XIV mới
đời về Vatican như hiện nay. Đàng sau dinh thự và giữa trung tâm quảng trường
Laterano là cột tháp hoa cương bằng đá cẩm thạch cao nhất thành Rome, hai bên là tượng 12 thánh
tông đồ cao gần 5 mét. Quan trọng nhất là bàn
thờ dành riêng cho ĐGH dâng thánh lễ,phía trái cung thánh là Tương Mẹ sầu
bi bằng đá cẩm thạch montanti. Bên kia đường là
Thang thánh ( Holy Stairs) theo truyền thuyêt thang có 28 nấc, bằng đá rộng
4 mét. Thang nầy do thánh nữ Helena đã
tìm thấy trong cuộc khai quât vào thế kỷ thứ IV những bậc thang nầy trong dinh
Philato nơi Chúa GieSu đi lên nhiều lần để nghe phán xét . Thang nầy được mang
về bọc gỗ và thiết trí nơi đây nếu ai quỳ leo lên và hôn vào dấu thánh giá ở
nơi bậc cuối sẽ được tha tội. Đa số anh chị em trong đoàn đều leo lên thang nầy
mặc dầu rất khó nhọc. Leo hết 28 bực thang
là vào nhà nguyện Holy of Holies xưa kia là nhà nguyện của ĐGH.
Cùng ngày đến viếng Vương cung thánh đường ĐỨC BÀ CẢ đây
là thánh đường đầu tiên dâng kính Đức Mẹ với những đường nét kiến trúc thời phục
hưng đã được trùng tu vào năm thánh năm
2000. Cột tháp hoa cương trước sân cao 16 mét xây vào thời ĐGH Phaolo V. Trên đỉnh
tháp là Tượng Đức Mẹ bằng đồng. Cột tháp phía sau cao 20 mét xây vào thời ĐGH
Sixtus V. Đền có 42 hàng cột cẩm thạch, trên trần chạy từ cửa đến cung thánh được
lát bằng vàng thật sáng lóng lánh, hai bên là 43 hoa,5 phẩm Mosaic diễn tả sự
tích trong cựu ước và cuộc đời Chúa Kyto. Bàn thờ chính được thiết kế ngay trên
hầm mộ nơi có đặt thánh tích Máng cỏ Chúa Hài đồng do thánh nữ Helena mang từ đất
thánh sang Roma. Đặc biệt hôm nay cha sở dâng thánh lễ nơi nguyện đường bên phải
dành cho các cặp hôn nhân trong phái đoàn tái tuyên hứa có tất cả 10 đôi uyên ương dẫu tóc đã hai màu
nhưng vẫn một lòng yêu thương và tôn trọng suốt đời. Sau Thánh lễ cha sở tặng mỗi
đôi quà kỷ niệm của ngài và cha con chụp
hình lưu niệm trước bàn thờ . Tiếp tục cuộc hành trình là viếng thánh đường Thánh Phaolo ngoại thành (
BasilicaOf Saint Paul ouside the walls)xây trên ngôi mộ thánh Phaolo, trong một
nửa thế kỷ lại đây người ta đã đào thấy
bia mộ của thánh Phaolo. Thánh đường có 80 cột bằng đá cẩm thạch đường kính 1
mét , nhà thờ mở cửa lại năm 1840 sau trận rủi ro hỏa hoạn. Nơi đặt di ảnh của
266 vị giáo hoàng kể từ thánh Phero. Bên trong nhà thờ gồm 4 gian hình thánh
giá Ai Cập rộng 55m dài 132m và cao 30m.
Trên có hình Chúa Giesu dang tay ban phép lành. Trước khải hoàn môn là hai tượng Phhero và Phaolo. Bên cạnh
nhà nguyện là thi hài các thánh. Thánh Phaolo là vị thánh ngoại đao vã trở lại.
Ngài đã thực hiện 4 cuộc truyền giáo từ Jesusalem đến Roma và bị chém đầu vào
năm 67. Bên cạnh bàn thờ là cửa Thánh ( holy door) Cửa nầy chỉ mở vào các năm thán,DGH J.Paul II mở vào năm 2000.
Ngày thứ 14( Thứ Tư 23/10) Tham dự Papa Audience
Hằng tuần vào Thứ Tư thì Đức Thánh Cha xuất hiện
trước quảng trường Thánh Phêrô để ban phép lành Tòa Thánh cho giáo dân khắp nơi
tụ về . Có gần 100 ngàn người từ mọi quốc gia - Quảng trường không còn chổ chứa
phải kéo dài ra ngoài đường phố thuộc Roma. Để lấy được chỗ đứng gần hành lang
ĐGH đi chúng tôi phải thức đậy trước 4:15 nhận khẩu phần sáng mang theo và 5:00
đã có mặt sắp hàng tại Quảng Trường. 10 giò Đức thánh cha mới xuất hiện ngài
dùng xe đi theo các lối đi sắp sẵn trong quảng trường để chào mừng giáo dân. Có
cả trăm phái đoàn trong được giới thiệu
bằng bốn ngôn ngữ La tin- Pháp- Anh và Tây Ban Nha. Trong bài giảng Đức Thánh
cha nhắc lại vai trò của Mẹ Maria trong giáo hội và gia đình. Sau đó ngài ban
phép lành tòa thánh .
Đoàn nghỉ và dùng bửa trưa tại khung viên Quảng
trường và sau đó đi thăm viếng các nơi trong thành phố. Chiếc xe bus chạy từ từ
qua nhiều dãy phố và chạy quanh Sân đấu
súc vật, cổ thành mặc dầu đã qua bao lớp phế hưng nhưng còn giữ nguyên nét kiến
trúc thời La Mã triều đại Constentinal.và sau đó thăm hồ Trevi ngoài thành . Hồ
nầy lấy nước từ Giếng phun Trevi từ Vatican chảy ra. Nước trong lành có thể uống
nếu ai ném một đồng tiền ken xuống hồ thì sẽ may mắn sẽ đến với mình nhất là ai
có ước nguyện về tình yêu thì sẽ như ý . Trong đoàn đa số là người có tuổi nên
rất ít người làm việc nầy. Tiếp đến viếng nhà thờ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội
ngoài Vatican. Ngôi thánh đường nằm trên một ngọn đồi cao phải nhiều tam cấp,
đoàn phải dùng thang máy để lên . Nơi
nào đoàn đến ngoài tham quan đều để lại lời cầu nguyện cho Cộng đoàn
giáo xứ, cho giáo hội, cho quê hương và cho gia đình. Sau cùng về dâng thánh lễ
tạ ơn tại Thánh đường thánh Phero xiềng xích. . Ngôi thánh đường rộng lớn với
tượng Thánh Phero bị xiềng tay chân . Đây là bức hình trước khi ngài chịu nạn ,
người bị treo ngược trên thánh giá vì ngài không dám cho mình ngang hàng với
chúa khi chịu nạn. Trong bài giảng cha sở cảm tạ Thiên chúa qua 14 ngày hành
hương gặp nhiều may mắn về thời tiết cũng như mọi việc đều được viên mãn. Trong
lời nguyện giáo dân : mỗi người được tự do dâng lời cầu xin của riêng mình với
tôi không gì hơn trong tháng Mân côi hành hương qua bao nhiêu linh địa cảm thấy
mình quá nhỏ bé, quá ích kỷ chỉ sống cho bản thân và gia đình nhiều hơn, sợ
chúa hơn là kính mến Chúa , sợ mất nước Thiên đàng hơn là chia xẻ với tha nhân
. Xin chúa và mẹ Maria mở lòng mở trí con để con được đem lòng mến chúa hơn và
xin tình yêu ngài đồng hành trong sinh hoạt đời thường của con và con cauu62
xin Chúa giảm cơn thịnh nộ ban cho quê hương và giáo hội Việt Nam thoát ách thống
trị Cộng sản vô thần. Tạ ơn là bữa cơm tối do Holy tour khoản đãi Tại một
nhà hàng Thái với các món Á châu thật thịnh
soạn , một bữa ăn ngon trong suốt cuộc hành trình.
Ngày thứ 15 ( thứ Năm 24/10)
Suốt buổi tối ai cũng náo nức , có kẻ không
ngủ lo sắp xếp quà biếu, kiểm tra hành lý hơn nữa là nỗi nhớ nhà, nhớ người
thân..5 giờ đánh thức và nhận phần ăn sáng lên xe Bus ra phi trường cho kịp
chuyến bay từ Rome bay sang Amsterdam Thủ đô Hòa Lan quê hương
xứ ngàn hoa Tulip và tự hào về “:cối xay gió” Chúng tôi chờ nơi đây đổi
máy bay
Chuyến Delta 233 đưa doàn về Seatac lúc 10:30 . Trong 10
giờ bay tôi có dịp xem lại các hình ảnh do Diệu Review qua máy điện toán của
anh.
Tạ ơn Chúa ! Cảm
ơn Cha linh hướng xin Chuá ban nhiều hồng ân cho ngài, Soeur Theresse và Thầy 6
những người đã chịu nhiều khó nhọc trong chuyến hành hương nầy
Amsterdam- Hà Lan23/10/2014
Tuyển tập truyện Ký
Trôi theo dĩ vãng
Cao thy yên
PHÓNG KHÚC ĐÊM NOEL
Viết kính dâng hương hồn cố Trung tá Nguyên Bình Trung đoàn
Trưởng SĐ I BB
Bị
Việt cộng sát hại tai trại Tù Tiên Lãnh 1978
Trên
ngọn đồi phía tây trại tù thôn 1 Tiên
Lãnh ,bỗng có 3 phát súng và tiếp theo sau là tiếng kẻng báo động ,các đơn vị
lao động lẽ quanh trại phải vào trong trại
và đóng cửa buồng . Yên lặng trở lại, ngồi
cạnh khung cửa sổ tôi nhìn ra phía cơ quan lực lượng vũ trang thấy bọn công an
bảo vệ đang tập họp .Giữa lúc đó tin bên ngoài Trung Quốc đang tấn công các tỉnh
phía Bắc trong căn phòng nhỏ anh em chúng gốm 12 người thuộc tổ chuyên môn làm việc riêng lẻ ngơ ngác nhìn nhau và
có liên tương một việc gì bất an sẽ đến với
những người tù chính trị ,mỗi người một
nhận định. Người bạn nằm cạnh tôi BS Phùng Văn Hạnh cải tạo với tội danh
Y sĩ Thiếu tá kê miệng bảo thầm tôi “”hãy đọc kinh ăn năn tội kẻo tụi nó bắn chết
tươi không kịp trăn trốị ,ông kể lại những thủ đoạn thủ tiêu tù chính trị của
chế độ Stalin thời cộng sản Xô-Viết . Người nhỏ tuổi nhất là Hồ Văn Sinh lúc đó
chỉ mới 22 tuổi các anh có trối lại gì thì để lại cho Sinh chuyển cho , Sinh
chưa muốn chết lúc nầỵ “Tôi xì một cái ”bộ
tụi chúng chừa mầy sao” ?
Sinh bảo chẳng lẽ chúng ta nhắm mắt cho họ hành xử hay sao,.? Có chết cũng bằm
thây một vài thằng rồi có ngũm cù tèo cũng hả dạ chứ và hơn nữa tôi còn muốn sống
để làm chứng nhân ; chúng ta có gần 1000
người tụi họ may ra chỉ bốn măm chục thằng
là cùng .Anh chàng xã trưởng” đầu bạc” phụ trách máy gạo nói nhỏ qua tai tôi
“lúc nầy đi lao động xa hết , chỉ có mấy thằng mình làm được
gì ? , chúng muốn thịt lúc nào chẳng được, chúng tôi thì thầm với nhau mỗi người mỗi ý,một điều
may là lúc đó anh chàng V ...đội trưởng (,anh nầy là tay chân của quản
giáo)không có tại phòng, anh ta theo đội 7
ra rẫy, cho nên không sợ mật báo , những tên
Juda nầy chúng tôi gọi là những tên thầy, bán Chúa
. chúng tôi suốt một buổi sáng được
nghỉ trong lo âu và sợ hải . Đúng 1:00 chiều tên công an trực trại vào gọi
tôi sang cơ quan ,trên đường đi hắn ta bảo:”
sáng nay nhà 10 đi vác củi có có
hai bông mai bạc và sáu bông mai
đồng ( có nghĩa là một trung tá và hai đại úy) đã tình nguyện theo Quân đội giải phóng
Trung quốc hắn
đùa vì lúc nầy Trung Quốc tấn công phía Bắc Việt Nam tôi hiểu ngay là ông ta gọi tôi giúp ông làm bản báo cáo trốn trại, khi lập xong bản báo cáo
tôi đọc lại cho ông ta nghe và ông cảnh cáo tôi không được tiết lộ ra ngoài
.Buổi chiều chúng tôi được phép xuất trại đi lao động bình thường trở lại và một
ngày bình an đã trôi qua trong phập phồng lo sợ,sau khi cơm chiều xong
chúng tôi theo hiệu lệnh 3 tiếng
kẻng phải tập trung ra trước phòng giam để điểm danh.Trong giờ nầy họ dùng hệ thống phóng thanh loan báo tin trốn
trại của Trung Tá Nguyễn Bình Trung Đoàn
trưởng Thuộc sư đoàn I Bộ binh và Đại úy Trần
Quy Đại Đội trưởng BĐQ, Đại úy Lâm Văn Chõi Tiểu đoàn trưởng địa phương
quân kèm theo những lời răn đe với những ngôn ngữ thiếu văn hóa ,tôi hậm hực
chửi thầm trong miệng, nhưng không dám nói nên lờị
Tối hôm đó
chúng tôi bò vào mùng sớm ,Hồ Văn Sinh chun chung vào
nằm với tôi và người nằm kế
là Phùng Văn Hạnh BS quân ỵ
Sinh hỏi nhỏ mấy
cha nội bây giờ chạy đến đâu rồi? Còn nằm trong rừng (tôi trả lời)
Sinh nói nhỏ vừa đủ nghe :” em có cho anh Bình cái họp quẹt
trên đó có khắc tên Đặng Thái nhà mình, rủi ra bắt lại ,anh ấy khai ra
vào cùm cả lũ, cầu xin mọi sự may mắn đến với các anh Tôi nằm yên lặng ,nhắm mắt
và cầu kinh ,lâm râm khẩn nguyện cho cuộc vượt thoát của những người đồng
cảnh trót lọt bởi vì chúng tôị đang chuẩn
bị đón hài nhi Giêsu giáng trần để cứu chuộc muôn dân….. .tôi cầu nguyện cho
chính tôi cho bạn bè,bằng hữu và nhất là cho những người tù khốn khổ không chịu
nỗi cảnh hành hạ phải chấp nhân hiểm nguy tìm đường vượt thoát hôm nay , xin
Chúa Hài Đồng soi đường dẫn lối
và chúc lành cho họ đến bến bình
an..
Mấy ngày tiếp
theo trong tuần đội bảo vệ An ninh chính trị Ty
công An Quảng Nam Đà Năng dùng chó đi săn lùng,nhưng không kết quả. Rồi
một ngày qua ..ngày qua vẫn im hơi vắng
tiếng.Chúng tôi những tưởng là các anh đã trót lọt lưới bọn Công An. Hôm ấy Chúa Nhật chúng tôi ở nhà nghỉ ngơi ,thằng
bạn học cùng lớp khi còn ở Trung Học với Tôi tên N.Thái là Trung úy biệt phái
nha tuyên úy Tin Lành Quân khu I , lẻn sang láng của tôi ăn trưa và khẳng định
các bạn ấy có thể thoát nạn truy lùng .Vì Thái cho
biết họ tổ chức từ lâu có bản đồ, la bàn dụng cụ mưu sinh v v v
lộ trình là lên núi cao định hướng đi về hướng Kontum và nhập vào biên giới Lào
tìm gia nhập lực lương Fulro hay vượt
biên sang Thái Lan tôi xì một tiếng và
nói nhỏ :Sao mầy không đi cùng họ” ?
-N.Thái trả lời yên chí lớn nếu tụi nó lọt thì mình
tính chuyện mình..
Tôi bảo mầy
có tin tao đị báo cáo để họ treo cổ mầỵ ? Tao thách mầy Ng Thái nói)
vì mầy là Thiên Chúa Giáo ghét mấy tên Juda hơn nữa
chúng mình có một thời gian dài chung lớp,chung trường nỡ nào làm chuyện
phi đạo nghĩa phải không? ( Autre temps . . .autre meur) mỗi lúc mỗi khác mầy hiểu câu đó chứ ? (tôi hỏi) Thái cười khề
mầy có thể hiểu rằng con người đến
một lúc nào đó không còn nghĩ gì cho
chính mình nữa không ? Tao không tin .Thái
tâm sự với tôi sở dĩ nó không trốn
đợt nầy là vì vợ con nó,chàng ta móc túi đưa cho tôi bức thư của vợ phía dưới
có mấy hàng chữ lơn do con gái nó
viêt cho nó,cháu mới học lớp mẫu giáọ .
Đọc xong bức thư tôi nhận thấy sự hy
sinh và sức chịu đựng của nàng quá to lớn so với chúng tôi trong tù.Bà ta kể những
khó khăn bất hạnh mà bà ta phải gánh chịu kể cả hai phía: gia đình và Xã hội,
phải nuôi con,nuôi mẹ chồng trả thêm phần
nợ của chồng là sĩ quan (ngụy)trong lúc túng bấn vì sinh kế
bị bọn công an kinh tế thu luôn cả vốn lẫn lời bởi không thỏa mãn theo yêu cầu dục tính của
chúng, giữa lúc tóc còn xanh má còn hồng. Hết đường cô phải đi bán máu mình lo
chạy thuốc cho con chỉ có 12.000 đồng
mua môt lọ thuốc ngừa bệnh” phong đòn gánh” mà chạy mượn chẳng ra. Tôi buông tiếng thở dài
và Lạy Chúa tôi có cách nào cứu vớt và giải thoát cho những con người khốn khổ
không còn lối đi và đất sống trên chính
quê hương mình .và tôi hiểu bạn tôi hơn
với lời chia xẻ..
Trời hôm đó
mừa mù chúng tôi nghỉ Lễ Giáng Sinh ,các buồng giam đều đóng kín cửa ,đa số thì
ngồi tiêu khiển qua các trò giải trí ,cờ tướng
,Domino , có người vá áo quần hay tán dzóc…..Đúng 11 giờ mới mở cửa cho
các phòng đi nhận cơm,nước các người già
thì ra sân làm một vài movement cho đỡ
mõi ; Trời vẫn mưa mù. Anh Trung Trynh
ghé phòng BS Hạnh xin thước dạ dày ngồi
chờ anh nói chuyện lung tung , hết chuyện
nói anh chàng nỗi máu thi sỹ anh ta ngâm
nga:
Trời buồn
trời đỗ mưa - con chim buồn con chim bay
cao – Ta buồn ta ta nghĩ mênh mang
Hồ Ngọc Châu
nhìn ra ngoài trời mưa thấy ông Hạnh đi
nhận thuốc ở trạm xá về và một cô nữ tù
đi theo để lấy phần thuốc cho trai Nữ
anh ngâm tiếp theo Trung Trynh:
Trời hôm nay mưa mù
giăng khăp nẽọ
Thương nhìn về cô gái bến Sông
Tranh (1)
Ông Hạnh bỏ họp
carton đựng mấy lọ thuốc xuống bàn đếm
thuốc giao cho trại nữ xong ông ta nói
với Hồ N Châu .Mầy sửa lại hai câu mới đọc thế nầy:
Trời hôm nay mưa buồn giăng khăp lối
Thương nhớ về một kẽ mới ra đi..
Tao ra trạm xá
nghe tụi Công an nói trung tá
Bình bị bắt lại và xử bắn rồị. Tôi hỏi còn Quy + Chõi thì saỏ ? không rõ, mình chỉ nghe vậy thôị . Thì ra khi trốn trại
họ đã tính rất kỹ lưỡng nhưng không ngờ khi chiến tranh chấm đút các láng
Thương di chuyển về chỗ cũ cho nên hôm ấy khi dừng nghỉ ở một ngọn đồi họ nhen
lửa để nấu ăn ,du kích làng Thương phát hiện thấy khói và báo đông dân làng ra
vây bắt hai anh.Lúc nầy sau khi ra khỏi trại cùm Đại Uy Quy
và Chõi kể lại rằng các anh định
dùng 1chỉ vàng để đổi cây súng
nhưng tên du kích không chịu .Họ bèn cướp
súng nhưng ngặt nỗi cây súng chỉ ngụy trang chứ không có đạn cho nên các anh bị bắt và giải giao lại cho Trại giam
Tiên Lãnh ,khi dẫn về gần trại Thôn 5 (Dốc Sơn đường về trại 5) thì tên Liên
Thượng sỹ từ phía sau bắn tới và Trung Tá Bình
trồng lên trước khi ngả xuống không kịp nói lại lời gì.Trung Tá Bình chết lúc đó chỉ mới 33 tuổi chưa có vợ ,thi thể giao Trại Thôn 5
chôn beb6 cánh rừng nơi ông chết không
hàm không vải .Nhà ông ở Đường Thanh Sơn Đà Nẳng ,sau nầy khi ra trại
tôi có ghé nhà nhưng đã bị Việt Công trưng thụ
Tôi nhớ
mãi tối hôm đó thú Tư ngày 24 tháng 12 năm 1979.Chúng tôi sáu người
gồm hai nhà
giáo,một Bác sỹ một Xã trưởng tôi và Hồ Văn Sinh ngồi nhìn trời mưa càng ngày
càng nặng hạt,không biết làm gì cho hết thời gian.Tôi xuống nhà bếp xin người bạn
tôi là tổ trưởng “cấp dưỡng” hai củ sắn đem về
mài ra và dùng lò lửa nâú kim chích của BS Hạnh nướng một bánh Giáng
Sinh .Hồ Văn Sinh ôm đàn và chúng tôi
cùng hát bài” Đêm Đông Lạnh lẽo Chúa Sinh ra đờỉ “ cùng những bài thánh ca khác
như Silent night… cùng chia bánh để đón
mừng Chúa giáng trần. Khi bẻ bánh nhà
giáo V.V.Phùng.. lấy một miếng để riêng
và đề nghị phần nây là chúng ta mời Bình
có linh thiêng về cùng hưởng reveilloner giáng sinh trong tù.Mỗi người
chúng tôi đều lặng thinh trong giây lác để cầu nguyện cho anh ấỵ Mỗi chúng tôi
mỗi người một tôn giáo khác nhau,Tôi thì thâm nơi vủ trụ nhật quang, anh yên
nghỉ có thể giờ đây anh đang hòa nhập với
không gian vô tân và nương theo mây trắng
về với quê hương và đồng đội bên kia thế giới,không còn phải chứng kiến cảnh
hành hạ mắng chửi của một lũ vô lương, bất nhân và nguyện xin thiên Chúa ngôi
hai cứu vớt linh hồn anh trong nước hằng sống,Phần chúng
tôi còn phải tiếp tục đi sưôt chặn đường còn lại đẻ có thể làm một chứng nhân
cho một thời kỳ đen tối của đất nước và tộc..
Chúng tôi mỗi người một câu
tạo thành một ca khúc :”gọi là Phóng khúc đêm Noel:để nhơ’ về một đêm Giáng sinh trong tù cũng như tưỡng niệm một
người bạn tù xấu số , nhạc sĩ trẽ Hồ Văn Sinh
người tù trè nhất trại Tiên Lãnh ôm đàn solpher và hát:
Đêm
đông mịt mù
Núi
rừng âm u
Có
một người tù
Về
cõi thiên thu
Đêm
nay lạnh lùng
Cùng ngồi vây chung
Xin
dâng lời cầu
Bằng
lời kinh chung
Người ơi – ngủ đi
Bên kia
bầu trời
Tên
anh ngàn đời…
(1) Tên con sông lớn của Tỉnh Quảng
Nam
BÊN DÒNG KÝ ỨC
Cứ mỗi lần khu rừng phiá bên kia nhà, cây cối trơ truị lá, chỉ còn lại những con
chim qụa cô dơn trên những cành trơ
trong buốt giá . Qua khung cửa kính nhìn
những giọt sương mai như lệ đêm thoát xác, như những hạt kim cương trong hừng
đông mỗi sáng,
lòng tôi nhớ lại như một góc quê hương
hiện diện trước mắt. Tôi muốn gọi thầm những dòng ông đang chảy trong hồn
, Ly Ly, Thu Bồn Hàn giang ….với những Trà mi Tiên phước Cửa Đại, Hội An - ĐàNẳng
với ngôi trường cũ Sao Mai ngôi trường ba từng nầy nằm bên bờ Sông Hàn chính nơi đây đã đào tạo tôi biết được lý lẽ
cuộc đời biết nhận rõ chân tướng cuả thiện , ác..Có người bạn
học cũ nhà thơ Vũ Hoài Mỹ, gọi
cho hay là ngôi trường sắp
bị xoá sổ để xây khách sạn. Thật buồn vô hạn ngôi
trường đã cho tôi nhiều kỷ niệm, có phải đối với CS chữ nghĩa không cần mà chỉ
có có nhiều tụ điểm ăn chơi cho đảng kiếm
tiền là trên hết . Một số chuyên gia
chính trị nhận xét về hiện tình xã hội Việt nam hiện nay:”yếu kém về Văn hóa, Y tế, xã hội nhưng lại
đứng đầu về tham nhũng” đúng như lời nhận xét cuả Hà sĩ Phu trong
: (Đôi điều suy nghĩ cuả một công dân): .Chủ nghiã vô hồn tạo ra một khoảng trống
ghê rợn.về Văn Hóa, lý tưởng và nhân cách. . Chữ nghiã ích gì thời buổi ấy “
Các lãnh đạo nhà nước Cộng sản không cần đòi hỏi về học thức mà chỉ cần tính trung
thành có nghiã là chỉ biết ”
cầm gươm ôm sung xông tới” bất kể đó
là nhân dân cuả mình.. Ngược lại các nhà lãnh đạo các quốc gia tư bản cần phải
có kiến thức phổ thông khả dĩ ít ra là phải tốt nghiệp Đại học, nhưng ngược lại
lãnh đạo Việt Nam một ông thử tướng 14 tuổi làm giao liên, 18 tuổi đi thanh
niên xung phong , rồi Công an Biên phòng
và cuối cùng làm Thủ tướng thời gian nào còn
để trau dồi kiien61 thức phổ thông,
nghe đâu ông cũng có bằng cử nhân; như vậy đất nước sẽ đi về đâu? Một nhà trí thức không nhớ rõ bên Pháp từng nói về
giới lãnh đạo đảng công sản Viêt Nam:( Les occupants des postes dans
l’administration ne brillent pas par leưr savoir ou leur competence, mais par
leur inculture et leur ignorance = những kẻ giữ chức vụ trong chính quyền không
sáng
giá về kiến thức và năng lực, nhưng lại tỏ ra càng kém văn
hoá và nhất là ngu dốt) Điễn hình nhất
là gần đây người ta bàn tán nhiều về những lời phát biểu cuả ngài cựu chủ tịch nước nói về Thánh
Gióng.. về tham nhũng) Cùng lúc một nhân vật cuả quân đội Trung Cộng , Tướng Lưu Á Châu bí thư quân
uỷ Bắc Kinh lại có cái nhìn khác,
ông lên tiếng cảnh báo Đảng
cần phải chọn người lãnh đạo có kiến thức như các lãnh đao các nước tân tiến , đứng đầu là Mỹ để canh tân và xây dựng
đất nước có hiệu quả hơn.
Ngày ngày đọc nhiều bản tin từ trong nước báo nào cũng
đưa tin về nạn tham nhũng đang hoành hành , chính ngài thủ tướng cũng đã lên tiếng cảnh
báo, nhưng không trừng trị . . Năm 1945 khi đồng minh tiến vào Bá linh ho gom thu tất cả chuyên gia trí thức để làm
giàu cho họ, còn Bắc quân khi cưỡng chiếm
Miền Nam họ tống giam tất cả chất xám Miền Nam vào tù cho đến xương tàn, thịt rửa để đến bây giờ 37
năm cây rừng đã thay bao nhiêu lá mà Việt
Nam một bài toán giải không xong, quốc gia
còn lạc hậu, dân tộc vẫn còn nghèo đoi….?Văn hóa suy đồi
,chính quyền bóm vào đám tư bản đầu
tư bán đất, bán biển, bán họp đồng để kiếm tiền chia chát cho nhau; xã hội thì
bỏ ngỏ các thông tin về bạo lưc, sex.. ngược lai ngăn cấm về những thông tin
văn minh bên ngoài, tuổi trẻ Việt Nam bị đầu độc bởi một nền giáo dục mà thầy lừa
trò , trò lừa cha mẹ lao mình vào nếp sống sa đọa thì tương lai đất
nước sẽ đi về đâu trước họa ngoại xâm ?
Nhân ngày Chúa nhật Muà vọng Giáng sinh , lục lại trong ký ức kéo theo cùng vận nước ;
nhớ lại những năm tháng trong chiến tranh, Gia đình tôi phái lìa bỏ quê cha nơi
chôn nhau cắt rốn, cái vùng đất nghèo nàn đã bị
chiến cuộc tàn phá và đã nhận lãnh không biết
bao nhiêu bom đạn có thể nói từng tất đất
là mỗi mãnh đạn , Vì nơi đây diẽn ra nhiều trận đánh ác liệt 1965 mỡ màn với liên đòan 61 Biệt
động quân , cùng với trung đòan 5 Sư đòan 2 BB Quân lực VNVH, địa phương quân,
nghiã quân đối địch với công trường 2 Bắc Việt và lực lượng chủ lực huyện ,
ngôi nhà ba gian mà cha mẹ tôi đã khom lưng cả cuộc đời tần tão để có được đã bị tiêu tan thành mây khói bởi bom đạn hai bên, vì chính ngôi nhà nầy
là Bộ chỉ huy Bắc quân trú đóng. và khởi
đầu đánh dấu một khúc quanh trong cuộc đời tôi . Mẹ tôi bóm ruộng vườn, cha tôi
dắt anh em chúng tôi chạy trốn giặc,
vì ông là một viên chức xã trong nền đệ
nhất công hoà. Từ một điền chủ cha tôi
phải làm thuê để nuôi hai con . Trà Kiệu ,Hội An rồi Hoà Khánh
là những nơi chúng tôi đã đi
qua trong cuộc chạy nạn nầy
Tết 1966 , cha tôi
tin vào lệnh hưu chiến cuả đôi bên , ông bường bộ trở về quê với mục đích bán
tháo ruộng vườn để lo cho anh em chúng tôi ăn học . Nhưng nào ngờ đây là chuyến
đi vĩnh viễn không trở về, Cộng quân đã bắt
giam và cuối cùng đã thủ tiêu bằng
cách chôn
sống trong một hố bom, mãi đến 40 năm sau mới tìm được mộ vị và cải táng. Do vậy mà anh em chúng tôi không có cơ hội bước
vào Đại học , tốt nghiệp trung học phaỉ vào lính theo tiếng gọi cuả đất nước và cuối cùng
chung số phận cuả quê hương phải
vào tù .qua biến cố 4/75
…….…….
Nhớ lúc đó cha trở về bán ruộng
Cho hai con ngày hai buổi
đến trường
Nào ngờ đâu giữa đường bị
chúng bắt
Đem đi đày đến thịt nát xương tan
Mồ vô chủ bao năm rồi hoang
lạnh
Xương đã tàn nơi rừng núi
hoang vu
Đã bấy nhiêu năm không
người chăm sóc
chạnh long đau qua những tháng năm dài
X
Và
từ đó con bỏ ghế nhà trường
bước vào đời làm lính giữ
biên cương
hoà bình về theo cha vào ngục tối
sáu, bảy năm trường dày vò thân phận
ngày trở về trái đắng trải đồng xanh
nhà cũ vườn xưa thay ngôi
đổi chủ
Mẹ cũng buồn rồi thác giữa
đêm mưa
…………………………… (
.. Tội tình )….
Năm 1979 lúc còn ở trong tù, khi Tàu Cộng tấn công vào phiá Bắc cuả Tổ
quốc. ,tin nầy được mấy anh em
theo xe lấy hang cho trại tù mang vào , một số anh em tù nhân muốn trốn thoát may ra tìm được ánh sáng cuối đường hầm. Trong chuyến trốn
thoát nầy có hai sĩ quan cấp uý và một Trung ta; trung đoàn trưởng , nhưng con
đường đi không trót lọt, quí anh đã vào nhầm một làng cuả người thượng
( dân tộc) và đã bị bắt gọn trại tù lên nhận lại trên đường
về trại bọn cai tù đã xả súng từ phía
sau hạ sátTrung Tá Bình và lấp xác bên bờ suối thuộc Xã Tiên Lãnh, Tiên Phước. Trung Tá Bình
nguyên là trung đoàn trưởng thuộc Sư
đoàn 1 Bộ binh. Bọn chúng giết người một
cách bừa bải nầy nhằm răn đe những ai muốn trốn thoát vì chúng sợ tù sẽ nỗi lọan.. Đêm Giáng sinh
năm ấy phòng giam chúng tôi thật buồn thảm nhóm chúng tôi nằm kề nhau , cưả
phòng đóng
kín mấy anh em ngồi quay quần đón Chúa
ra đời trong tù cùng nhau hát thánh nhạc và cầu nguyện cho người anh em vừa ngã xuống hôm qua Nhạc sĩ
H.V.S ôm đàn và nhóm ngũ quái
chúng tôi mỗi người một đọan tạo thành bán nhạc
:
Đêm đông mịt mù – Nuí rừng âm u – có
một người tù - ngủ giấc thiên thu
Sương
đêm lạnh lùng – mây giăng bịt bùng - Từng cơn gió thét – đau thương tột cùng
Thôi
ngủ đi anh - ngủ đi anh ,,một giấc bình
yên = bên lưng Mẹ hiền - cuối trời vô biên....
( phóng khúc đêm Noel)
Sau
ngày ra tù tôi trở về quê , nơi chốn sinh ra làm một con người mới , như một đứa trẻ thơ chỉ biết cuí đầu và nghe những lời phỉnh gạt . Có một ngày Giáng
sinh năm 1991 những người theo đạo Thiên Chúa được Ban Tôn giáo vận huyện tập trung cho học tập về chính sách tôn giáo
cuả nhà nước. Khởi đầu tên trưởng ban tôn giáo tỉnh thuyết trình thao thao về những đóng góp cuả đồng bào Thiên Chúa giáo vào
công cuộc xây dựng XH/CN. Trong phần giải đáp thắc mắc có một bà cụ người theo
đạo Tin Lành, bà nêu câu hỏi rất thực tế”:
“ Tôi nghe Cán bộ nói là đồng bào theo đạo Thiên Chuá đã đóng góp nhiều thành quả vào
công cuộc xây dựng XHCN. Như thế tại sao con tôi là con cuả một liệt sĩ, chồng
tôi là Cán bộ nông hội đã hy sinh trong chiến tranh, nhưng con trai tôi xin thi vào Đại học đem lý lịch cá nhân lên
Công An phê thì ông trưởng CA nói rằng “
theo đạo tin lành thì chỉ có đi chăn trâu mà thôi, tôi không tin mang lên hỏi
phòng tuyển sinh huyện họ cũng nói là như vậy: con bà theo đạo Thiên Chúa không
thể đào tạo lâu dài được. Như vậy thì đạo
Thiên Chúa xấu ở chỗ nào mà phải đi chăn trâu . Tôi nghĩ chăn trâu cũng có giá
trị cuả nó, chứ đâu có phải ăn cắp hay lấy vợ người ta “ cả hội trường cười ầm , tên Cán bộ thẹn quá ông xin phép ghi nhận câu hỏi và sẽ nhờ cấp
trên trả lời sau. Tiếp đến một ông theo đạo công giáo cho ý kiến rằng “ trước
đây tôi theo đạo công giáo , nhưng bây giờ xa nhà thờ quá nên tôi đã bỏ đạo xin
quí vị sau nầy đừng bắt tôi phải đi học tập nữa, Ôngt cán bộ bảo thế thì tốt lắm.
Một người khác lại hỏi lại . “ Tại sao ông gọi bỏ đạo là tốt, như vậy từ sang đến
giờ quí ông cho chúng tôi ngậm củ cà rốt bây giờ lấy gậy đập chúng tôi phải khổng”
. Tôi ngồi bên anh ta ghé tai nói nhỏ chỉ
vừa hai người nghe (hãy ghi nhớ lời ông TT Thiệu nói .. đừng nghe những gì……”)
Thôi biện giải làm gì, cư để cho hết giờ mà về duy vật biện chứng là thế đó ….
Biết mà không nói là kẻ ác ông biết không .? Tôi trả lời “ Tôi chỉ có tai để nghe, có mắt để nhìn
nhưng cái miệng bị bịt rồi” Ông Cán bộ hướng dẫn thấy tôi và anh ấy nói xì xầm
với nhau tưởng co; thắc mắc gì ông liền gọi tôi : “ anh gì ấy ơi , anh có ý kiến
gì thu họach không ? Tôi đứng dậy và lễ phép thưa rằng : dạ không có ý kiến ạ ;
ông nói anh nói gì bịt.. bịt tôi nghe
không rõ : Tôi thưa rằng anh ấy hỏi tôi
sao hút thuốc liên tục , tôi nói là trời sinh cái miệng để nói , nhưng tôi hay
nói bậy nên trời bịt miệng lại bằng cách phải hút liên tục để kẻo lỡ nói điều gì phạm chính sách thì khổ thân
. Ông ta cười thế cũng lả cách học tập tốt đấy
. Có một điều tôi ngộ ra rằng”: Học tập
dưới
XHCN thật là tự do , mỗ người
đêù mỗi cặp nói chuyện riêng Cán bộ ôm tài liệu đọc một mạch
xong là hỏi lại có tiếp thu được không mọi người thưa tốt là xong và cũng thú thật mấy ông ấy đọc cũng
có trời mới hiểu , hoặc Nhà thơ Bút Tre may ra mới cắt nghiã được ( Ví dụ (
….nhà nước ta đang . caỉ ( nghỉ một lúc)…………….tạo xã hội …….).
Lễ Têt của người Mỹ bắt đầu Giáng
Sinh trở đi cũng là ngày những ngày lễ
quan trọng nhất cuả những người Tây
Phương có dấu ấn rất an bình và hạnh phúc, là nhận lãnh ơn cứu độ..;.phố xá
giăng đèn đèn Từ Trung Tâm thương maĩ
New-York đến Thủ đô Hoa Thịnh Đốn cây
Giáng Sinh cao hàng
trăm fêet với hơn 3000 bóng đèn là nơi để cho những du khách chiêm ngưỡng và người dân tổ chức
đêm thánh. Trong một xã hội nhân bản mọi
quyền tự do được tôn trọng nhất là Tự do tín ngưỡng không những được tôn trọng đúng mức mà chính
phủ có trách nhiệm bảo vệ trong mọi nhu cầu về tổ chức khác với nhà nước cộng sảnVN mà tôi thường thấy:
Tại họ đạo cuả tôi Xuân Thạnh Quế Sơn,
không cho cử hành Thánh Lễ nửa đêm 24/12
mà chỉ đước cử hành trước 9:PM và lúc nầy cái loa bên cạnh nhà thờ cùng
lúc phát sóng cuả chương trình phát thanh hằng đêm nhằm phá họai đạo qua các bài viết ngụy tạo chỉ trích một số nhà lãnh đạo tôn giáo nhằm phân hoá niềm tin cuả
các tín hữu đối với các vị chủ chăn., họ tìm đủ mọi cách để tiêu diệt các tôn
giáo. Người Cộng sản có lắm điều khôi hài, rêu rao tự do tôn giáo, song lại cho
phép truyền bá tư tưởng duy vật chống tôn giáo. Marx phủ nhận Thượng đế, tôn
giáo là thuốc phiện , là lừa bịp..Chủ nghĩa tư bản Tôn giáo là cái mốc dể răn
đe, là toà án vô hình để hương dẫn nhân loại hướng đến chân, thiện ,mỹ, là
tránh điều ác. người cộng sản VN không tin vào sự trừng phạt cho nên tha hồ làm
những điều phi nhân, phi nghiã và dẫn đưa đất nước và dân tộc vào một thời kỳ
phá sản cả về luân lý và đạo đức. Thánh kinh Thiên Chuá
giá o có ghi là sẽ
có giáng thế 2( tận thế) dể phán xét, ngày ấy sẽ diễn ra khi nào trái đất có
những dấu hiệu, thiên tai, dịch bệnh,chiến tranh…; những tiên tri giả xuất hiện…
Hiện nay những khoa học gia cũng đã tiên đoán
trái đất bị hâm nóng băng hà ở
Nam,Bắc cực sẽ tan ra dẫn đến cho nhân
loại một cơn đại hồng thuỷ thứ hai , những
động đất tại Hiti, Tân Tây
Lan , lụt lội tại Úc, bão Sandy tại
Mỹ…
có phải là một cảnh báo trước
Trong thánh lễ Giáng
sinh tại họ đạo của tôi rơi vào tuần cho nên đồng hương lương giáo đều đến tham dự
nhà thờ không còn chỗ chưă phải đứng ngoài hành lang. Họ đến để tham dự đêm
canh thức Vọng Giáng Sinh và nghe thánh nhạc , phải là đêm cực thánh , đêm cuả
ơn cứu độ , bài Silent Night được cất lên trong tiếng dương cầm du dương trầm bỗng
cùng với tiếng chuông ngân thánh thót giữa đêm đông giá lạnh “”Đêm Đông lạnh lẽo
Chúa sinh ra đời… “ Sau phần thánh nhạc là phụng vụ lời Chuá, trong phần “ Lời
nguyện giáo dân , người phụ trách đọc đến
phần cầu cho Tổ quốc có đọan : Xin
Chúa ban phúc
lành cho những nhà lãnh đạo VN được ơn an bình,………”
một niên trưởng ngồi cạnh tội ông hậm hực nói nhỏ nhưng có nhiều người nghe:’
.. tống cổ tụi nó xuống chứ cầu con mẹ gì” Xong lễ trong phần tiệc
Réveilloner tôi tâm sự với ông rằng :’
năm rồi có một linh mục từ VN sang ghé thăm tôi, ông cũng là tù nhân chính trị
bị bắt 1974 và sau 75 ông được thả về tôi hỏi ông về tình hình chính trị và
sinh họat giáo hội VN , ông nói rằng “ cộng sản là cái roi Đức Chúa Trời đánh
vào tội lỗi dân tộc ta, bởi vậy phải gánh chịu, v ề phần tôi là Linh Mục cũng
luôn cầu nguyện cho Đảng biết tôn trọng những quyền lợi thiêng liêng cuả con
người , đó là ân sũng cuả Thượng đế ban
cho và phải biết dặt quyền lợi cuả đất nước lên trên quyền lợi cuả đảng chứ biết làm sao trước họng súng .. , người Công giáo sống bằng
lời cầu nguyện. Tôi rất cảm thông với vị Niên trưởng vi ông nguyên là Trung tá
QLVN-CH bị câm tù 13 năm tại Miền Bắc. Ông hỏi tôi có bao giờ đọc E.M.
Remarque trong The Night in Lisbon” Khi thế giới còn những bọn dả man tàn bạo,
mà mình còn khả năng chống lại mà không làm đó là tội ác biết không ? Tôi rất tâm phục cõi lòng cuả ông , cuả một quân nhân VNCH. Ngược lại có những
người trước đây là người đứng đầu một tổ chức hay điều hành cuộc chiến
bảo vệ Miền Nam lại có lời cho rằng chúng ta lên án Việt Cộng có vội quá không
?, vì họ cũng yêu nước.
Trong quần đảo ngục tù cuả Solzenitsyn ông khuyên đảng Cộng sản Liên Xô rằng “ Dẫu cho XHCN có
tốt đẹp đến đâu mà phải xây dựng trên ngần ấy máu xương và nước mắt cuả dân tộc thì có đáng lắm không? Đảng CS liên Xô đã gíác ngộ và cuối cùng phải sụp đỗ
vào 1990 mở đầu cho cả khối CS Đông Âu
theo chân.
Chúng ta cầu
nguyện cho người dân Việt Nam biết theo chân
dân tộc Liên Xô và các nước Đông Âu mà vùng lên đòi quyền lãnh đạo đất
nước như dân tộc Ba Lan tháng 4/89 Hy vọng bình minh sẽ ló dạng trên que hương một
ngày không xa
André Gide nói
rằng con người phải vươn lên theo ý hướng
cuả mình ( Que chacun suit sa pente, mais en momen) Xin tỉnh thức hởi quê hương yêu dấu. và dân tộc mến
yêu..
Tacoma Muà
Giáng Sinh 2011
ĐÊM
TRẮNG
Cao Thy Yên
Chiều
cuôí Đông Thành phố Sai gòn lên đèn rất sớm, mặc dầu phiá Tây mặt trời chưa
chen vào nuí. Đứng trước hành lang Bưu điện trung ương Saì gòn , tôi nhìn sang
dinh độc la , nơi tập trung quyền lực cuả VNCH trước 1975, Dinh thự nầy
nay đã đổi chủï, lòng buồn nhớ ;
những tiếc nuối cho một thơi liệt oanh nơi vùng đất ấy chốn quê xưa, trong tuổi
thanh xuân đầy dẫy hiểm nguy, tang
thương và quá đỗi nhọc nhằn, nhưng ta đã tìm ra chính trong những khổ đau khốn
khó ấy niềm hạnh phúc êm đềm bên đồng
baò, đồng đội mà tất cả đã quyện nhau chiến đấu và đứng vững bên bờ sống chết
, bên bờ vực thẳm hiểm nguy bằng một thứ
tình cảm tuyệt vơì trong sáng : đó là
tình quê hương , tình bè bạn và nhất là
tình đồng đội đã dành cho Tổ quốc mến yêu.
Hai mươi năm một chuổi ngày daì cuả Miền Nam kiên cường giữ vững
cho Saì gòn hòn ngọc viễn đông ngạo nghễ sánh vai cùng bè bạn năm châu; mà bây giờ đã thay tên
đổi họ và chỉ còn caí tên trong kỷ niệm, biết ngày nào Saì Gòn được phục hồi
tên tuổi như Volgagrad hay
Peterburg ? ?? ( 1)
Ngày
mai đây
ta sẽ bỏ người mà đi, con đường phía trước vẫn là
một bóng mờ trên bước
Lưu vong nơi vùng đất lạ chưa một lần mơ
đến Màn đêm đã xuống bao giờ;
phố xá thật ồn aò náo nhiệt cuả
những ngày cuối năm.
Tìm một chiếc ghế ngồi chờ thằng bạn đi nhờ
cơ quan chuyển dịch các văn kiện bằng Anh ngữ để gởi tôi mang sang cho gia đình hiện định cư bên Hoa Kỳ; châm không biết bao điếu thuốc ngồi nhìn trời, nhìn dòng người xuôi ngươc cuả quê
hương qua lại và chiêm nghiệm đoạn đường đã qua mà ta đã
đi trong những bước truân chuyên mãi hoài chưa tói đích , cuối cùng vì vận nước
hẩm hiu phaỉ đành đọan chấp nhận cuộc ra đi, mang theo những
ngậm nguì chua
xót trước nghịch cảnh trái ngang cuả
một canh bạc chưa chơi mà đã
cháy tuí. Anh ta trở lại lúc nào , ø
vì maĩ nghĩ suy mà tôi không hay
biết,. Nó cất tiếng :”
Thôi về
chứ ! tôi bật dậy như điện giật và
chúng tôi về đến nhà trọ lúc 10
giờ tối . và chuẩn bị cho bửa cơm Việt Nam cuối cùng với bà con ,bằng hưũ trước lúc chia tay . Thật diệu kỳ đúng tối
ấy là đêm giao thừa năm dương lịch (
(94-95) và là năm cuối cùng bạo quyền Hà Nội sẽ cấm không cho đốt pháo, bởi thế người ta
mang hết ra để chơi một lần cạn
tàu, raó mán như nổ tung sự nghiệp và cháy rụi niềm tin trong bóng tối quê
hương, để rồi ngày mai và maĩ maĩ không
còn được nghe tiếng pháo đêm trừ tịch ,
caí thông lệ vốn có tự ngàn xưa .. cuả phong tục Việt . Đoàn Ngọc
H.. . sau khi được thả về sau 16
tháng tù , hắn ta hợp tác với một người bạn
tù về hành nghề pháo tại Nam Ô
, Hòa Vang , khi nghe có
lệnh đình chỉ việc sản xuất pháo
; nó gom góp số vốn còn lại vào Lâm Đồng mua mấy sao đắt trồng chè (trà) để kiếm
sống, hắn ta than thở có vẻ tiếc rẽ. , Nhưng Võ Thanh L.. ù
tiếc làm gì ? mầy biết không . taị sao
hoà bình mà không cho đốt phaó: taị vì tuị
chúng run sợ
trước sự sụp đỡ cuả bức tường Bá
Linh, Liên Xô của
Đông Âu … sợ VN rồi cũng chung số phận…
.
Đúng 11 giờ
pháo bắt đầu nỗ vang và sáng rực
khắp phố như trút hết tâm can một lần
sau cuối , tôi có linh cảm như chính
bản thân tôi là cô dâu ngày mai sẽ bước lên xác phaó theo chồng về xứ lạ
. Chúng tôi quây quần trên một tấm chiếu đặt dưới
nền xi măng ,thức nhấm mỗi đứa tự mang đến để
cùng nhau đánh chén ly bôi và tâm tình một lần sau cuối cùng tôi trên quê hương ngàn đời yêu dâu , một lần được
ngồi cùng nhau ôn lại caí thuở vàng son
của tuổi học trò và ngoaì kia pháo vẫn nổ liên hồi .
Đến
khi pháo giao thừa ngưng , là
lúc chúng tôi hơi men đã làm chủ.
Thật một kỷ niệm khó quên Thằng Xuân…
một giáo sư Triết..bị thất sủng sau ngày giặc đến
Tháng 4/75,mất
dạy di lang thang nghêu ngao khắp Saì gòn, lục tỉnh như một người mất trí
May nhờ
một người con gaí và cũng là người bạn đời sau này của hắn đa cưu mang và đưa hắn thoát
ra khỏi vòng lẩn quẩn ,đứng dậy làm lại cuộc đời , họ hợp
thức hóa hôn nhân và dựng một quán ăn
trên đường Âu Cơ . Hắn
gõ đuả trên vành chén ngâm nga
baì Hồ trường
Cuả Tiêu Đấu Nguyễn Bá Trạc. . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Vỗ gươm mà hát,nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang,ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường
Hồ trường,
hồ trường- ta biết rót về đâu > ? ?
.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
chén tri kỷ chúng tôi uống đêm
nay như một lần ngồi lại để dựơc nhìn
nhau và nói chuyện thoả maí trên quê hương sau ngày giặc đến .Hắn ngâm xong bỏ đuã và
nói tiếp:
<< tuị tau còn ở laị chỉ có
đầu để gật, có tay để nắm cuốc, nắm cày, có đôi vai để gánh trọn đắng
cay và có đôi chân để kéo lê cuộc đơì khổ aỉ
trong cái thiên đừơng nầy
, mầy được giải thoát ra ngoài
vòng tăm tối mịt mù nầy ; tụi tau chúc mầy
va gia đình thượng lộ bình an và dựng lại cuộc đời mới phía trời Tây
và ở đó có thể là một chiến trường hoàn toàn mới lạ đối
với mầy >>
Tụi chúng tôi
năm đứa cùng chung
nhau dươi mái trường trung học . một thời vàng son trong
tuổi học trò và đời linh chiến , rồi rã gánh , tan hàng theo mệnh nước; mỗi đứa mỗi nơi trên vạn
neõ đường đất nước , mỗi dứa có mỗi điều kiện sống và hoàn cảnh khác
nhau sau năm 1975, nhưng hầu hết la những con chiên ghẻ cuả xã hội mới , có những đắng cay naò mà họ chưa
từng nhấm qua trong cuộc mưu sinh trầm luân khổ aỉ.. Tôi như đứng giữa ngả ba
đường cuả những dòng suy tư cho mình cho cả
quê hương , cho bè bạn dưới vòm trời đầy ắp những kỷ niệm vui
buồn một thời đã qua và tôi sẽ gom
góp tất cả kết lên
boong tàu giả biệt làm hànhn
trang trong cuộc hành trình mới nầy,
chúng tôi đã trút hết tâm tình cho nhau từ thượng vàng đến hạ cám, quá khứ vị
lai..và cuộc ra đi nầy không phải
là một chọn lựa, dúng hơn là cuộc chạy trốn(escape) vì hai chữ
tự do .
Đúng 1
giờ sáng ,có tiếng gõ cửa Trần Kim Ng..một quan 3 Hải quân trốn “cải
tao” ra mở cửa không ai xa la đó là Phan
Văn Th..,quan 1 binh chủng truyền tin( tù thiếu thước) hắn
đèo theo một cậu thanh niên khoảng
30 tuổi . Cậu tạ chắp
tay và thưa :” chaú chaò các bác ạ “ Tụi
chúng tôi hay bị dị ứng bởi gịong Bắc
vì e sợ những anh Bắc Kỳ
75 thì không mấy ưa . Thằng Đoàn Ngoc
H.. mở miệng ‘
không biết cậu là bắc aó đỏ hay là Bắc
aó xanh , (vì sau 1975 người Miền Nam thường gọi Bắc 54
là aó xanh và Bắc 75 là aó đỏ “) . Phan Th baỏ
nó là loại đỏ vỏ nhưng xanh lòng các cụ yên trí.
Cậu ta tâm sự “ cháu là con
của một cưụ chiến binh đã chiến đấu
qua ba thời kỳ. Bây giờ ngồi ở viã hè Hà
nội vá xe đạp kiếm sống qua ngày bên cạnh những con ông cháu cha tiêu tiền như nước, còn cháu là một Y sĩ sau khi
tốt nghiệp vì không có tiền chạy
lót phải được cắt
cử làm công tác diệt trừ sốt rét Miền
nuí với mức lương bèo không dủ hút thuốc lá. Cháu bỏ vaò Nam làm đường dây cao thế với một người bạn kỷ
sư và bây giờ theo anh Th . làm nghề khai thác gỗ . Thú thật cháu đã chán ngán caí lý thuyết caí gì gọi là duy vật biện chứng, duy vật sử
quan.. vạn vật tương quan , caí gì là xã hội
CN hay CS chủ nghĩa hoàn toàn là
những điều hoang tưởng: Bơỉ vì chủ nghĩa
Cộng sản lấy tiền đề lỗi thời làm đối tượng đấu tranh . Vì thế không có nơi nào trên thế giới đã áp dụng
thành công chủ nghĩa Cộng sản. Cho nên cháu biết các chú không sai lầm, và thật tế nhất ta hãy nhìn Nam và
Bắc Hàn ; Đaì Loan và Trung Quốc . Những
người Miền Bắc bị bịt mắt trong suốt 20
năm, khi tiếp quản Miền Nam họ mới
vỡ lẽ… Do vậy sau thời gian sống làm việc
taị Miền Nam cháu đã học hỏi và biết
thêm những thực tế cuả một thể chế mà từ trước tụi cháu bị mê hoặc bởi một hệ thống tuyên truyền lừa bịp nay thì ngược laị ..Hiện nay taị Miền Bắc có rất nhiều trí thức trong hàng ngủ đảng đẵ thức tỉnh
vì đã hy sinh và cống hiến công sức
cho một chế độ phi nhân phi nghĩa.
Trong đó có Lý thuyết gia Marx Lénine
Giáo sư Trần Văn Giàu có lần
đã than rằng <<Tôi là thằng đã từng dạy chủ nghĩa Marx Lénin hàng
ngàn lần , nhưng cũng chẳng biết giảng thế nào, đớ là một học thuyết thầy chẳng
muốn dạy , trò chẳng muốn học >>
Chúng
cháu bị giáo dục bằng những hận thù và ghen ghét trong suốt tuổi học trò . Nhưng nhờ các chú , nhờ Miền
Nam đã làm cho cháu được
biết đâu là chính nghĩa , đâu là
phi nghĩa.
Sau khi
nghe cậu ta nói qua về quá khứ của y, chúng tội bán tín , bán nghi nhưng mặc kệ
cứ uống và trò chuyện thật lý thú
. Thằng Th giật cây đàn trên tay tôi , so giây
dạo baì “ Baì học đầu tiên “ phổ thơ Đỗ Trung Quân và cất tiếng ….
Quê
hương là gì hở mẹ ?.... Ai đi xa cũng nhớ
về
.. . .. . Quê hương là đường đi học . . Con
về rợp bướm vàng bay
. . . . . . . .Quê hương là con đò nhỏ . .. .êm đềm khua nước ven sông
. . . . . . . .
.Quê hương nếu ai không nhớ . Sẽ không lớn nổi thành người.
Tuy không phải
là ca sỹ , nhưng trong lúc nầy tuị tôi cảm
thấy âm thanh cuả nó đã vổ cánh bay lên giữa không gian của Saì gòn ồn aò đêm
Tân Niên . Thằng Xuân gõ nhịp
trên vành cái thau nhôm hắn dừng
lại khi baì hát chấm dứt và bảo “ cho mầy độc diễn đêm nay…”
Hắn biết chúng
tôi thích nghe nhạc thính phòng cho
nên nó ca những baì phổ nhạc cuả Phạm Duy phỏng theo
thơ của Apolinaire , Paul Verlaine và nhất là baì << Tiển
em >> cuả nhạc sĩ họ Phạm
phổ thơ Cung Trầm Tưởng cho tôi cảm nhận
được caí gía buốt cuả muà Đông Bắc Mỹ
nơi mà tôi sẽ đến trong ngày mai:
. .( . Tuyết
rơi phủ con taù .. Ga Lion đèn mờ )… chập chờn một nổi xót xa trong âm thanh viển
mơ đó.
Đúng
2:30 sáng có tiếng ồn aò từ ngòai cưả
tiếp đến là tiếng gõ cưả .
Tôi chửi thề …
Trong bụng !
không biết giờ nầy đứa naò đến nữa
đây.. ? Cưả mở
thì một toán Công an và du kích
vây phía chung quanh nhà trọ. Chúng bảo
:’ mọi người đứng yên tại chỗ đẻ chúng tội làm nhiệm vụ” một người cao
nhưng ốm teo có lè chef bảo chủ nhà cho xem
hộ khẩu , bà chủ nhà là vợ cuả thằng bạn tôi đêm đó
có chuyện cần nên ông ta rời nhà lúc
12:00. Bà trình tờ khai gia đình , xem
xong và trả lại, hắn ta baỏ
“ Thế thì các anh cư trú bất hợp pháp và tụ họp trái phép“ mấy thằng bạn tôi đều cư
ngụ Saì gòn chỉ riêng Thằng Liêm giáo sư sử địa cũng bị “mất dạy” .. không
có giấy tờ cư trú hợp lệ . Tôi trình bày mọi sự việc và gia đình tôi đến cư ngụ
tại đây có trình giấy xin tạm trú cho chủ nhà
Tên Công An
khu vực bảo không có:
bây giờ ông phải đóng tiền phạt mỗi người là 20.000 đồng . Sở dỉ có việc kiểm tra nầy là vì tôi bị đổi chuyến bay cho nên hôm đó dịch
vụ lo phương tiện , tìm điạ chi của
tôi để thông baó không được , họ đến hỏi Công An khu vực cho nên tối đó họ đến kiếm chát .
Thực sự lúc đó tôi cũng không còn tiền
, bà xã tôi chỉ giữ 20 Dollars
để làm lộ phí , tôi trả lời : tôi
không còn tiền vì ngày mai tôi đã rời khỏi
chốn nầy ,chúng tôi tranh luận qua lại rồi họ
đòi đưa chúng tôi ra phường , tôi cương quyết không đi vì tôi đã làm đủ
các thủ tục xin tạm trú giao chủ nhà
sáng mai ông ta về quí ông hoỉ lại
thì rõ , hơn nữa gia đình tôi
đã có lệnh xuất cảnh
trong chuyến bay trưa ngày mai
cho nên vấn đề sức khỏe của người
nhà cần được bảo vệ
, cuối cùng họ đòi
thu tất cả giấy tờ ngày mai đến phường
giải quyết. Tôi nhất định không
giao vì nếu giao ngày mai tuị chúng
đòi cả triệu bạc lấy gì mà trả.
Hôm đó mấy đứa con và gia đình tôi nằm
ngủ ở trên gác leo lên bằng cái thang
, sau khi lên thì dẹp
cái thang là xong chuyện cho nên
họ vẫn ngủ yên chẳng biết gì về chuyện xét nhà.
Tuị
chúng vẫn khăn khăn đòi phạt tiền về tội
cư trú bất hợp pháp . Tội bực và trả lời
“” tôi là người Việt Nam cư trú trên đất
nước Việt Nam taị sao là bất hợp pháp “
cho nên các ông chờ ông chủ nhà về rồi hẳn hay .
Không biết bà chủ nhà nói gì vơí
ông khóm trưởng và hắn ta baỏ , thôi
ngày mai ông chủ nhà đến phường để giải quyết. Bà chủ nhà ký Biên bản
và chúng rút lui trong trật tự . Tôi nhìn đồng hồ đã 3 giờ sáng , vặn bếp châm ấm trà ,lúc nầy cả bọn
dường như đã tỉnh rượu . Bay đưá
ngồi uống trà nhìn nhau mà không nhắc đến chuyện vừa xảy ra. Tôi nhắm mắt như để ghi vào ký ức hình ảnh cuả
những thằng bạn thân quen một thời đèn
sách …. Và thế là chúng tôi < Trắng đêm >
không ngủ ( Blanc nuit )
Nhưng vẫn nói
chưa hết những gì thường
xãy ra trong cuộc sống hằng ngày trên
xứ sở mà người ta gọi là nghịch lý nầy
vì có lăm chuyện thật buồn cười
….Có tiếng kẻng cuả người lâý rác ,
chúng tôi mở cửa và trời đã sáng dẫn nhau ra quán café rồi tan hàng.
Sáng
hôm sau ra phường tôi sợ
chủ nhà bị đóng tiền phạt cho nên tôi đi theo, nhưng
không phaỉ ông ta có đến khu phố nơi khai báo và nọp giấy xin tạm trú
cuả tôi có ghi trong sổ, nhưng vì thay đổi nhân viên không bàn giao . ông mang
sổ ra phường và mọi việc đều êm xuôi. Tôi trở về thu xếp hành lý và kiểm
tra giấy tờ tùy thân giao cho mỗi đứa
con ./
Chuyến
xe chở 12 người đưa gia đình tôi đến phi
trường dọc theo đường Lý Thường Kiệt , rồi qua Lê Văn Duyệt (cũ) người Saì gòn đã baỳ bán đồ Tết khắp nơi ; naò bánh mức,
tiếng rao inh ỏi , người xe tấp nập ;
chợ hoa muôn sắc , nhưng họ có biết đâu có một người đã bỏ nước mà
đi giữa buổi Xuân về , Tết đến mang theo
bao nổi nhớ thương vô bờ .
Chúng tôi đã làm thủ tục ký gởi hành lý trước đó
ba ngày do vây còn
nhiều thì giờ trò chuyện ngoài
hành lang phòng đợi và đủ thì giờ chụp một vaì tấm hình lưu niệm cùng bạn bè và người
thân. Trước khi vào phòng cách ly.
Chuyến
bay khởi hành lúc 1:30 PM . 1/1/1995 gia đình chúng tôi 7 người
đi bộ ra phi đạo và lên thang máy bay
Đứng trên sân
thượng phi cảng Tân Sơn Nhất nhìn xuống,
những người than và bạn bè cùng vẫy tay chào nhau , lòng buồn rũ rượi có lẽ tôi
đang khóc , khóc cho thân phận quê hương
đen tối , khóc cho những đồng đội bị ngược đãi phải cù bất cù bơ lê tấm thân
tàn phế trên khắp phố , khắp phường ,
khóc cho những người thèm khát tự do ,
khóc cho đất nước có 4000 năm văn
hiến mà nay trở thành đống gạch vụn bởi biết bao tệ nạn …và
tôi khóc cho chính tôi một thằng lỡ vận
phải đành bỏ quê hương.
Trên đường bay daì 8 tiếng đồng hồ , nhìn ra khoảng không gian mờ
mịt nổi cô đơn đặt quánh trong tôi dường như tan dần theo những dòng nghĩ suy về những biểu tượng , hình thái tâm
cảm của thân phận quê hương , những vui buồn
sướng , khổ ; những thành công hay thất
bại hòa cùng nhau trong tiếng động
cơ aò aò và những tiếng sột sạt của cánh máy bay lướt qua
làn mây trắng ; như tiếng cựa mình của cây
lá hay tiếng gõ nhịp gọi nhau
mùa gặt đến.; những hôì tưởng một thời trên
xứ sỡ ; nơi chôn nhau cắt rốn , con đường đất đỏ 105 của mấy chục năm về trước , những chuyến xe băng qua lớp bụi mờ của mùa
hè 1972 xác chết cuả dân lành
nằm ngổn ngang bên đường vì đạn pháo VC
,hoặc những thành phố tỉnh Đồng bằng
Nam bộ những nơi mà tôi đã từng đi qua trong cuộc chiến không cho tôi một ranh
giới để phân biệt .Xa hơn nữa
là những chiều Đà Thành hay những
sáng Hội an cùng nhau bách phố ghé quán Lộng Ngọc uống trà cúc nghe nhạc Trịnh
hay xuống Cửa Đại bẽ bắp trộm…lên vườn ương
mò dưa hấu..
Tất cả đã kết thành một kỷ niệm dưới mái trời quê hương và đã thấm vào hơi thở, đã chảy vào huyết quản để trọn đời vẫn hòai vọng , khắc ghi và ngậm ngùi
khi xa cách.
Đến SEATAC
lúc 7 giờ sáng hôm đó bạn bè đến đón rất đông chúng tội nhìn nhau ôm nhau mừng , tủi vì giờ nầy là
giờ tôi chính thức bắt đầu cuộc sống
mới , trên quê hương mới Sau khi về đến nơi
là một bửa tiệc thật linh đình và thịnh sọan nhất trong đời tôi do Anh NQT tổ chức .trước khi
về nhà chính của tôi do người bảo
trợ thuê sẵn .
Hôm
nay ngồi viết lại những dòng nầy đã gần
9 năm trôi qua ; ngồi nhìn lại thời gian cái chốn mà mình đang ở , những việc mà mình đã làm và được sắp xếp trước khi từ gỉa Tổ quốc và
trong lòng tôi giờ nầy vẫn rực rỡ nhất
là hình ảnh quê hương với Đà Nẳng – Hội An – Saì gòn của những ngày trưóc khi bị giặt
cưỡng chiếm mà tôi chưa được một lần về
thăm /
(1) 1961
Stalin city trả laị tên cũ Volga
ĐÓN XUÂN NẦY LẠI NHỚ XUÂN XƯA
Trời
Tây Băc Mỹ đã vào Xuân, dường như muà Đông không muốn ra đi ; đã tháng hai mà
khí trời vẫn lạnh cóng xương. Mỗi sáng các kiếng xe đều bị đông đá phải cào sạch
và nổ máy ít nhất 15 phút trước khi cho xe chạy . Tôi có thói quen không thể bỏ
quên được là mỗi khi đưa bà xã đến sở trên đường về phải ghé quán cafe Lavie,
nơi tập trung của những ngườilớn tuổi, hình như mỗi người là mỗi cá thể đơn thuần mang trong mình những cái nhìn riêng lẽ về những suy tư cuộc
đời . Họ ngồi tụm năm, tụm ba hút thuốc lá, uống cafe nghe nhạc, đánh cờ tướng
, tán gẫu, nói những chuyện trên trời dưới đất, qúa khứ hiện tại , vị lai.
Có một sáng tôi đến sớm ngồi một mình nhìn ra ngoài đường phố sương
mai mờ mịt những chấm sáng của những chiếc đèn xe nối đuôi chớp nháy hai chiều
tù xa đến gần và từ gần đến xa, cứ thế mãi nối
tiếp nhau , đi đâu, về đâu .. hởi những cổ xe bất định làm sao tôi biết
được, lúc nầy tôi đang đứng giữa hai đầu nổi nhớ . Bởi vì chính sáng nay tôi
tình cờ đọc được Email cuả một thằng bạn học cũ, nó là một phế binh hiện sống tại
quê nhà:
Nội
dung bức điện thư chỉ có mấy dòng “Kính
ông “:…T” Tôi dược người bạn đồng cảnh
ngộ cho hay la nó được một hội từ thiện tại My õtrợ giúp tài chánh cho những
thương binh VNCH và cho địa chỉ để tôi liên lạc . Tôi thấy địa chỉ giống tên cuả
thằng bạn học cũ , nếu đúng như vậy thì cho tôi gởi lời thăm hỏi và nhắn tin là
tôi vẫn còn sống và kéo lê cuộc đời bất hạnh để gặm nhắm những nổi đau cuả những
kẻ bị bỏ quên khi tàn cuộc chiến ! ! !
Nguyễn Thanh H..”. Chính những lời nầy khiến lòng tôi ray rứt, ngồi thừ
người và cầm điếu thuốc trên tay mà không bao giờ châm lửa, cố đào lại những đọan
đường quá khứ ròng rã 40 mươi năm qua ; tuổi học trò, đời lính, tù đày, lưu
vong . Nhớ lại những năm tháng tù đày tôi chưa bao giờ rơi nước mắt, nhưng khi
được thả về đi giữa quê hương hoà bình nhưng điêu tàn, xơ xác hơn thời chiến,
trường cũ thay tên, phố xưa đổi chủ, bạn bè lưu lạc. Đất nước nầy không còn chỗ
cho tôi an thân, 12 năm học sáu năm lính, sáu năm tù, để rồi phải tha hương biệt
xư ở độ tuổi không còn để vươn lên, nhưng phải tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt
ngã.. Quê hương tôi đó, nơi chôn nhau cắt
rốn , nhớ tuổi thơ với những chiếc lá me bay, màu cỏ xanh sân trường , cây phượng
già cuối xóm mà mỗi buổi trưa hè đánh bi dưới tàng bóng mát.. tất cả vẫn còn đó
nhưng đã nhuốm mau øthời cuộc. Nhớ Đà Nẳng những buổi trưa hè thả bộ dưới hàng
phượng đỏ ghé ngang tiệm Ngọc Hưng lấy vài cục nước đá lén bỏ vào trong các cặp
sách cuả các cô ả nữ sinh trước giờ vào lớp; hoặc những buổi chiều mưa những tuị
học sinh con trai tập trung trưóc thềm giờ tan học lén đẩy các ả ra mưa cho aó ướt thấm vào da để
tìm một chút thoả mãn vụng trộm trên thân thể những cô gaí đang độ tuổi biết thẹn thùng và hả hê một tran cười
trừ qua nhũng lời chuỉ mắng thậm tệ.. Chiều hôm sau một thằng đồng bọn cùng lớp, anh chàng nhà
quê Đaị Lộc trồng cây si một cô nữ sinh
con một ông chủ tiệm may có tiếng tại Đà
Nẳng , cô rất kiêu sa có cách phục sức
theo kiểu con gái nhà giàu . Tuị chúng
tôi cá với hắn ta là”mầy
tán được con đó thì bao mầy và cô ta một chầu phỡ Ngã Năm” . Hôm đó nó gọi
chúng tôi lại cho xem bức thư của cô nàng hội đáp bức thư tỏ tình cuả hắn gồm bốn
câu tứ tuyệt:
Chiều
mưa ngập cả lối đi về
Mỗi chiều tan học thấy buồn
ghê
Ngồi trong lớp học nhìn mưa đổ
Đọc mãi trang thư chẳng muốc
về.
Tụi
tôi baỏ hèn gì hôm qua không thấy cô ta phơi xác dưới mưa , may cho mầy.”. “ cảm
ơn tụi bay, hôm qua nàng bận ở lại lớp đọc
thơ tau mà khỏi bị tuị mày làm quê! hắn
trả lời” . Cũng chính những trò chơi ngỗ nghịch nầy mà chúng tôi bị thầy giám thị chiếu cố phạt một
giờ làm công tác tạp dịch tại trường vào
ngày thứ bảy trong dó có cả anh chàng nhà quê Đại Lộc Nguyễn Thanh H. . Tôi và
H ở trọ nhà gần nhau cho nên ngày hai buổi đến lớp đều có nhau song hành trên Đại
lộ Độc Lập thẳng tới Trung học Sao Mai
Cuối năm 1966. H . hỏng Tú tài và bị gọi nhập ngủ khóa 67 hạ sĩ quan Nha trang
và chúng tôi chia tay nhau vào muà hè năm ấy .
Năm 1968 tôi cũng phải xô ghế nhà trường vào lính ngành XDNT nhưng có cơ
duyuên phiêu bạt khắp nơi tại các tỉnh phía Nam Miền Nam tuy không lâu lắm
nhưng cũng có nhiều kỷ niệm ...
Tháng 7
năm 1972 . Từ vùng cực Bắc Hoà vang tôi được
lệnh thuyên chuyển về phía Tây tận cùng cuả quận Quế sơn các bạn tôibảo : mầy bị đày đến vùng đất chết
. Chiến cuộc rất khốc lietä trong cái gọi là “muà hè lưả đỏ 1972” Khu Tây Quế
Sơn bị Bắc quân tấn .kich phải bỏ mà chạy
kéo theo toàn thể dân chúng về khu quận lỵ, đồng bào chưa lập xong các
trại tạm trú thì lại bị cuộc tổng công kích vào toàn diện lãnh thổ quận Quế sơn tháng
8/72 với hai sư đoành chính quy Băc Việt.
Chiều hôm đó mưa phaó dồn dập đổ về
quận đường một trái đạn đụng ngay
kho vũ khí cuả bộ chỉ huy cảnh sát tạo nên một đám cháy cùng những tiếng nổ
kinh hoàng . Tôi cùng Nguyễn Văn T.. , Trần Thanh L.. núp phía sau một chiếc
GMC trước văn phòng quận đoàn dùng ống
nhòm để quan sát hướng pháo cuả địch, ngoài đường lộ tấp nập từng đoàn người gồng gánh chạy về ngã Hương
An, co ùnhóm khác tách sang ngã Thăng
Bình chạy về phía Hà Lam. Đó là thói quen người dân Miền Nam khi nghe
hai tiếng VC
Vì nhu cầu chiến trường lúc bấy giờ không đũ
quân số tăng viện để giữ vùng nuí phía Tây Quế sơn cho nên toàn bộ lực lượng phòng thủ phải bỏ khu quận
ly rút về giử vùng biển vàù quốc lộ I . Sự rút lui nầy đã taọ nên cảnh tháo chạy
vô trật tự làm chết không biế bao thường dân vô tội dọc theo con đường tỉnh lộ
105 vì bị pháo cuả Bắc quân, bọn chúng xả đạn thẳng vào đám dân lành chạy trốn vì sợ đạn cuả cả đôi bên .Trên đường tháo chạy tình
cờ tôi gặp lại Nguyễn Thanh H.. thằng bạn cùng lớp ngày trước nó đang trên đường
rút quân và dẫn theo một cô gái bị thương nhẹ vì mãnh pháo ,chúng tôi chưa kịp
hỏi thăm nhau được gì, nó nhờ tôi đưa cô
về bệnh xá Hương An vì cô gái nầy có bà dì làm việc ở đó. Tôi bỏ cô ta
xuống bệnh xá và quay xe laị để đón một số trẻ em ,vì lúc đó quân đội VNCH còn
làm chủ từ sông Chợ Đụn trở xuống khu đông. Lúc quay lại tôi không gặp H. nữa
vì đơn vị H tái phối trí lại làm phòng
thủ ngăn chặn bước tiến cuả địch cùng với sư đoàn 3 bộ binh. Chúng tôi đón dân
tại Hương An đưa lên xe nhà binh chuyển về trại định cư Cẩm Hải . Đây là căn cứ
cuả lử đoàn Thanh Long Đại Hàn trú đóng trước rút về nước.
Lúc đó tôi là đơn vị trưởng một tổ chức bán
quân sự chuyên công tác dân sự vụ. Bởi vậy
việc làm trước tiên là ổn định cuộc sống cho dân chúng lo công tác tiếp cư. Đơn
vị tôi được trưng dụng công tác an dân
và cứu trợ khu 2 cũng là khu lớn
nhất trong ba khu tạm cư taị Cẩm Hải quận
Hiếu Nhơn. Trưởng Trại là Thiếu Tá Ánh , trưởng ban an ninh là Đại uý Diễn (
CSQG) tôi làm trưởng Ban Y Tế xã hội, trong thời gian nầy là lúc bận rộn nhất
trong đời mang súng cuả tôi ,nhưng ngược lại rất vui, vì trong trại gồm có dân
của 6 xã Sơn Long , Sơn Hoà, Sơn Thành, Sơn Thượng, Sơn Thắng, Sơn Lộc. Bảo vệ an ninh khu traiï là một
tiểu đoàn Địa phương quân và các đơn vị nghĩa quân tại địa phương quận Hiếu Nhơn
Ngày 27 tháng 1 năm 1973 hiệp định Paris được bốn phe lâm chiến ký kết
trước sự chứng kiến cuả Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc. Tôi nhớ rất rõ cái đêm hôm ấy là đêm rất dài
vì trước 4 giờ chiều có lệnh cấm trại 100% để chờ lệnh mới . Chúng tôi lúc ấy gồm
có 6 đứa chung đơn vị chiếm một
container sắt mà trước đây quân đội Đại
Hàn dùng làm phòng cấp cứu cho các thương binh ngoài chiến trường, nghe
đâu cái họp sắt nầy sẽ do trực thăng câu
thả xuống chiến trường để xử dụng cho những ca giải phẩu khẩn cấp. Bọn chúng
tôi dự trù sẽ dùng căn phòng nhỏ nầy chuẩn bị đón Xuân tại đơn vị . Vì muà Xuân
hoà bình đang vẫy tay mời gọi
Đất nước gần 20 năm chiến tranh khói lửa người dân Miền Nam phải chịu biết bao tang
thương bi đát; người lính chiến đã đặt tình yêu và nổi nhơ trên đầu điếu thuốc;
trên những lời hứa hẹn một ngày về khi đất
nước thanh bình . Bởi vì suốt trong dặm dài gian khổ đánh bạn với hiểm nguy
chưa một lần được ngủ yên trên một chiếc giường ngay ngắn . Nghe đến hai chữ
Hòa bình ai ai không mở hội trong lòng, một đồng sự của tôi đề nghị mở party cả
bọn đồng ý. Thật đơn giản chỉ một lít rượu đế vài lon thịt họp, và một nồi nước
sôi cùng mấy gói mỳ tôm, đặc biệt hôm đó có Nguyễn Văn T công tác ghé trại định cư và ở lại cùng tham
gia tiệc tất niên.. Chúng tôi đánh chén ca hát đốt lửa cho đến nưả đêm xa xa có
một vài tiếng súng nổ . Một thằng trong bọn hỏi
“hoà bình rồi sao lại nghe súng nổ
. ? Tôi trả lời biết đâu tụi VC đánh lưà cho nên chiều nay tiểu khu ra lệnh cấm trại, thôi hãy
chuẩn bị dừng quá tin tụi chúng” Nói vưà
dứt không bao lâu thì bọn Bắc quân bắt đầu khai hoả, tôi chụp cây M 79 kèm theo túi với mấy quả đạn chạy
thẳng bộ chỉ huy, các bạn tôi ra phòng tuyến
phía Đông nơi dành cho đơn vị chúng tôi và lực lượng Nhân dân tự vệ tác
chiến khi hữu sự. Tại trại chỉ huy đã có mấy vị xã trưởng tập trung để theo dõi
hệ thống truyền tin . Chúng tôi xin pháo binh phong toả bãi cát phía Bắc và
Đông vì mặt Tây và Nam giáp mặt lộ chính
VC không thể nào tiến quân vào hai hương nầy được. Tuị chúng(VC) dùng loa phóng thanh kêu gọi đầu hàng quay về
phiá cách mạng, sĩ quan trực chưỉ thề trên máy và xin pháo binh dẹp mấy cái loa
cuả tụi chúng dùm... “ Bộ chỉ huy tiểu khu ra lệnh hãy giữ vững hệ thống phòng thủ chờ sáng ra sẽ mở cuộc
phản công . Thật sự hôm đó VC chỉ bắn một
vài trái pháo nhưng và rơi ngoài hàng rào mà thôi. Trời vừa sáng ,sương mai mò mịt hai hướng Bắc
và Đông của trại một rừng cờ
nửa đỏ nửa xanh mọc lên ở trong rừng
thông ngoài trại . Lúc nầy đơn vị phòng thủ được lệnh hành quân tảo thanh và
tháo gỡ các cờ VC , chúng tôi gặp sự kháng cự nhỏ, nhiệm vụ chúng tôi là thay các
cờ VNCH vào các cờ cộng sản, lúc đầu thì không gặp trở ngại nhưng bổng đánh ầm
một tiếng khói bay mù mịt một tiếng la thất thanh ở phía bên cạnh đó là một đồng
sự cuả tôi Trần T đã đền nợ nước trên
tay còn cầm chặt lá quốc kỳ thủng trăm vết, nằm kế chừng 5 mét là một quân nhân
cuả đơn vị địa phương quân bị đứt một bàn chân và một chân bị gãy nát . Chỗ tôi
đứng không xa nơi những anh em bị nạn cho nên tôi ghé lại để cùng giúp đõ công
tác di chuyển vào trạm xá. Chứng kiến cảnh nầy tôi thật sự đã rơi nước mắt lúc
nào tội chẳng hiểu vì sao phải hy sinh trong lúc hoà bình và vào những ngày
giáp Tết, không những một đồng đội đã ra đi mà người bị thương không ai khác là
thằng bạn học cuả tôi gặp lại trong chuyến
rút lui tháng 8 vừa qua Nguyễn Thanh H lớp
Nhị C Sao Mai, anh chàng nhà quê Đại Lộc hai chúng tôi gặp nhau lần thứ hai sau
7 năm lìa mái học đường, nó đã bị chiến tranh cướp đi hai bàn chân, tôi biết nó
quí đôi chân nầy lắm vì nó là cầu thủ bóng tròn rất xuất sắc,chúng tôi có một
thời kỳ cùng chơi chung trên sân bóng trường Kỷ thuật Đà Nẳng thuở chung lớp
chung trường. Nó nhìn tôi nói với giọng yếu ớt” tại sao chúng ta gặp nhau trong
hoàng cảnh nầy, đơn vị tau được tăng phái về đây ba hôm để giữ cho dân ăn Tết.
Tôi an uỉ nó đôi câu và hẹn sẽ ra bệnh viện vì lúc đó trực thăng đã đến đến đe åtản thương. Một tuần sau tình hình lắng
dịu, tôi về Đà Nẳng thăm nhà sau Tết
và thăm H .tìm hoài trong danh
sách phòng lựa thương Tổng y viện Duy Tân không có tên nào là Nguyễn Thanh H..cả.
Tôi nói chuyến bay tải thương ngày giờ
đó,họ xem lại chỉ có một người tên Lê Văn T đang điều trị tại ngoại thương 8
,tôi đến thử để xem hư thật không ngờ
chính là hắn ta và chân còn lại thứ hai cuả nó cũng không giữ được, nếu giữ lại
thì sẽ kéo dài sự hành hạ thể xác rất lâu mà cũng không có khả năng xử dụng cho
nên phải đành bỏ luôn. Lần nầy chúng tôi trò chuyện rất lâu, nó kể về cuộc đời
lính trận sau khị ra trường nó được bổ sung đến sư đoàn 25 BB sau trận hành quân sang Campuchia, nó nhận
được tin mẹ bệnh nặng và qua đời
. Tôi hỏi
nó về cuộc tình giữa hắn với cô
nàng nữ sinh Phạm Tuyết Mai thế nào ? Hắn cười khổ “ đọc mấy câu thơ :
Yêu là chi nếu không là thoả
mãn
Trắng tay rồi tình cũng sẽ ra
đi
Tiềm
thức nhỏ theo camê hờn trổi dậy
Tim
sẽ buồn bật khóc giữa bơ vơ.
Cô
ta cặp bồ với một quan ba haỉ quân nghe đâu đã cưới nhau. Tớ và nàng sau nầy có sự cách biệt về giai cấp
cho nên xãy ra một cuộc cải vả không thể
hàn gắn chính cô ấy đã thốt “ Tant qui
‘il y a des homes” có nghĩa là khi không còn loài người mới chọn ta
Bởi vậy không còn gì để lưu luyến . Tôi không
dám hỏi nhiều , bởi không hiểu vì sao tôi cảm thấy lúng túng vì đã vô tình khơi
thêm vết thương lòng của bạn. Chúng tôi
im lặng nhìn ngoài trời mưa vẫn rả rích rơi không lớn lắm nhưng gió từ hướng sông
thổi lên hắc nước vào hành lang cho
chúng tôi tìm lại chút dư âm ngày
cũ lúc hai chúng tôi ngồi gặm bánh mì buổi
trưa trong hành lang Cổ Viện Chàm và
nhìn mưa rơi trên sông Hàn nó vẫn nghêu
ngao mấy câu : trời mưa ngập cả lối đi về-
Mỗi chiều tan học thấy buồn ghê”- Bỗng
chốc nó trở thành hậm hực “ Hoà bình -- bình – hoà bình ư ? “ Bố mẹ nó : tụi nó nâng ly chúc nhau ăn mừng tại Paris
còn riêng chúng ta còn phải đổ máu, tụi chúng mình phải làm một con thiêu thân
cho những tham vọng của bọn bất lương .
Cay đắng và thật mỉa mai đôi chân nầy hy sinh
có phải uổng phí hoặc là quá vô nghiã phải không ? Tôi bảo
sự hy sinh nào cũng có giá trị đích thực cuả nó. Người lính Miền Nam
trong suốt 20 năm lấy “ Tổ Quốc- Danh Dự
– Trách Nhiệm” gắn lên tầm đạn của kẻ thù. Người lính Cộng Hoà đã căn rộng tấm
poncho che phủ vùng trời bình an cho đồng bào , lấy hết máu trong tim tưới thắm
hoa lá ruộng đồng , đem những nắm xương khổ nạn cắm khắp nẽo đường quê hương, để
cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn
tại. Để cho người dân Miền Nam sống ấm no
ở hậu phương trong đó co cảù đôi
chân cuả mầy làm sao mà vô nghĩa . Hãy cho đó là niềm tự hào là trả nợ nam
nhi..dẫu sao mầy cũng chọn cái nhân sinh
quan cuả Nguyễn Công Trứ trong những trận
tranh luận với nhau kia mà.
Từ giả hắn tôi về lại đơn vị chuẩn bị khóa huấn luyện về công tác đấu tranh chính trị tại trung tâm
Vũng Tàu. Đây là một khóa huấn luyện đõan kỳ dành cho mọi cấp rất là hào hứng . Trong dịp nầy sau khi về
đơn vị chúng tôi được phối hợp công tác cùng các sinh viên khóa 28 võ bị Đà Lạt
những chàng trai đã chọn con đường binh nghiệp để phục vụ tổ quốc, họ rất linh
hoạt, năng động và đầy nghị lực và kiến thức phổ thông . Rất tiếc cuối cùng chịu chung số phận cuả quê hương
vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Đêm hôm nay , đêm ba mươi Tết và là
đêm thứ mấy trong gần 20 mười năm làm tên lưu vong lạc xứ, bước ra ngoài ngồi
nhìn vầng trăng khuyết để “ Cử đầu vọng minh nguyệt và Đê đầu tư cố hương” người ta bon chen tranh giành những hư danh, bôi mặt đấu đá
nhau hầu tìm cho mình một chỗ đứng trong
xã hội phồn hoa nhưng tình người thì kém xa.
Quê hương còn đó nhưng rách nát tả tơi như lá Quốc kỳ phủ lên chiếc quan
tài thằng bạn tôi trong chiến dịch cắm cờ giành đất năm xưa ; 36 năm tôi nhận
được mấy lời nhắn ngắn gọn cuả thằng bạn học cũ. Ba mươi sáu năm vòng thời gian oan nghiệt cuả đất nước,
cuả đồng bào sau cái hiệp định lưà gạt cuả những tên trùm chính trị , có đến 12
quốc gia và hội đồng baỏ an liên hiệp quốc chứng kiến và kývao, ngược lại họ
làm ngơ cho i bọn cộng sản phản bội cưỡng chiếm Miền Nam, chôn sống hàng triệu
quân dân trong trại tù trên đường vượt
thoát..và có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập môn.
Phần chúng ta có cơ may có bầu trời tự
do để thở, con cái có điều kiện học hành để thăng tiến không phải cầm xấp vé số
đứng ở các bến xe hay bới từng đống rác
bẩn thỉu, hoặc cĩ thểû bị khai thác trong các nhu cầu tình dục ở nước ngoài, huỹ diệt tương lai,
chôn vuì tuổi thanh xuân ..
Hiện nay có những người vô tích sự ngồi
nghiền ngẫm viết những baì phân tích lộn ngược hàng mấy chục trang phê phán chỉ
trích , hăm dọa nhữngb kẻ còn chút lưả trong lòng.. Tại sao họ không biết xử dụng
cái thời gian nhàn rỗi trên phần đời còn lại làm một việc hữu ích có nên chăng
?. Tại sao không mở vòng tay góp sức cùng mọi người trong công tác lạc quyên
gây quỹ giúp những người bạn năm xưa đã để lại những phần cơ thêû trên chiến
trường khốc liệt phải chấp nhận cuộc đời
bất hạnh trong sự hành hạ đắng cay cuả những kẻ bị bỏ quên ? Ngược lại còn bày trò ăn xén , ngăn chặn vì tự aí ích kỷ nhỏ nhen..
Mấy hôm nay tôi nhận rất nhiều Email
cuả những đồng đội bất hạnh năm xưa cảm ơn
với những ngôn ngữ chân thành và thống thiết của những người nhận quà “ cây muà xuân chiến sỹ cuả hội QN/ĐN ./
WA) .Qua thông tin dóđã cho tôi tìm lại tin tức người bạn học năm xưa hòa chung
cùng nổi đau cuả quê hương triền miên trong đói nghèo và lạc hậu tôi vội vàng
trả lời cho H thằng nhà quê Dặi Lộc ,, nội
dung rất ngắn gọn :
Đúng mầy rồi vẫn cái giọng cay cú như ngày
nào, tớ đây thằng Th.. mầy còn sống hả ? đã nhấm đủ muì vị khổ đau chưa ? Theo
tớ hiểu đã quá thưà rồi phải không ,. ? Tớù sẽ tìm cơ hội chia xẻ cùng mầy, mầy
cò nhớ bài hát cuả một cô giáo người Pháp mà thầy Phạm Ngọc Vinh thường đọc
trong giờ Pháp Văn ? Tớ chép lại để nhắc nhau một niềm mơ ước chưa thành sự thật ..
Quand tout renait à l ‘espérance
Et que l‘hiver fut loin de
nous
Quand la nature est reverdie
Quand l‘hirondelle est de
retour
J ‘aime à revoir ma Normandie
C‘est le pays qui m ‘a donné
le jour
Tạm dịch :
Khi nào hy vọng trở về
Và khi muà Đông đi xa
Khi thiên nhiên trở lại xanh
thẳm
Khi chim én trở về cùng ta
Tôi mơ ước nhìn lại Normandie
Là nơi tôi đã chào đời.
Ta
cũng mơ ước khi nào niềm hy vọng trở về,
ta và mầy ra laị cổ viện Chàm ngồi nhìn mưa đổ trên dòng Hàn Giang, ghé Cafe
Nhân nghe Thái Thanh hát bài “Ngày trở về”à cuả Phạm Duy chắc chắn sẽ không
xa...
Viết những lòi tâm sự đầu Xuân nầy nàng Xuân
đã chễm chệ giữa phòng khách vắng vẻ vì
ngày thứ tư có người phải bận ba bốn lớp aó để đi cày và tiếng nhạc từ nhà người
hàng xóm vọng sang lời nhạc du dương :
“ Đón xuân nầy ta nhớ xuân xưa
Hẹn gặp nhau khi pháo giao thưà
Em đứng chờ anh dưới song thưa
Anh đi qua đầu ngõ hỏi nhau rằng : Xuân đã về
chưa ? “
Cao Thy Yên
Môt thoáng kinh hoàng
* Cao Thy-yên
Viết đôi dòng tâm sự nầy vào lúc trời tháng 9, những
cơn mưa đầu muà đã xua điu những nóng bức
muà Hạ. Vùng Tây Bắc năm nay Cộng đồng người Việt rất bận rộn trước những biến chuyển thời cuộc,
nhất là việc chống VietWeekly tuần baó
thân cộng và nhóm cò mồi cho “vẹm” Nguyễn Minh Triết cùng như chuẩn bị “đón tiếp Thủ tướng VC Nguyễn
Tấn Dũng đến Hoa Kỳ vào hạ tuần tháng 9
. Ngồi trong quán café cạnh góc đường Yakima khu thương mại Việt. Nam thành phố
Tacoma,WA đọc qua các tờ tuần báo Việt
ngữ tại địa phương; tờ nào cũng đưa những tin sinh họat nóng bỏng ấy Bất chợt bỗng nhớ lại một người con gái rất
xa lạ chỉ một lần gặp mặt trong một tình cờ, nhưng có nhiều việc thật đáng nhớ.
Trời hôm đó nắng ấm và thật
đẹp vô cùng, nhân chuyến đi tham dự Đại Hội Văn hóa Thế giới Lần thứ 16 tại Nữu
Ước, ta thả bộ cùng phái đoàn dạo quanh, thăm viếng thủ đô của nền thương mại
thế giới và là biểu tượng của sự phồn vinh Hoa Kỳ. Nữu Ước là nơi tập trung nhiều
cơ sở Chính trị và Thương mại, đường phố người, xe tấp nập và thật ồn ào. Trong
ký ức ta tìm gặp lại một chút gì của Sàigòn những năm, tháng trước khi bị đổi họ,
thay tên. Đã 12 năm trôi qua thật sự bây
giờ Sàigòn chỉ còn cái tên trong kỷ niệm. Đứng tại trạm chờ tàu ngầm ta ngâm
nga đọc:
Ta
nện bước trên đường chiều Nữu Ước,
Nét
rộn ràng nhớ đến Sàigòn xưa . (một thoáng Sài gòn)
Nói đến New York
thì người ta phải nhắc đến tượng Thần Nữ và Trung tâm Thương Mại Thế giới
(WTC).Hai kỳ quan nầy nằm đối diện nhau trên một vùng đất rộng chừng bốn cây số
vuông mà hằng năm có chừng 30 triệu lần khách thăm viếng đóng góp cho sự phồn
thịnh của Nữu Ước.
Nhưng những đổi thay thật bất ngờ làm ta cảm thấy bàng hoàng. Có ngờ đâu mới
hôm qua lá đại kỳ VNCH được các phi công Việt Nam Cộng Hòa kéo tung bay quanh hai ngôi tháp chọc trời và tượng Nữ Thần
Tự Do. Buổi sáng hôm đó ta thức dậy thật sớm để ghé khu China Town mua một ít quà để trở về miền Tây cho kịp chuyến
bay lúc 11::45 sáng ngày 11-9. Lúc đó gần 9 giờ sáng một tiếng đánh ầm và tiếp
theo những tiếng rên la. Đứng cách chân hai
cây tháp song sinh chừng 500 mét nhìn cảnh hỗn loạn, tiếng còi hụ, tiếng người la ó mà
người bạn ta vẫn cầm máy hình đi gần lại khu nhà cháy và bảo ta" hãy đứng dưới cảnh nầy ta lấy cho một bức hình, ngày
mai và mãi mãi sẽ không còn nó nữa"
và rồi một tiếng vèo vào ngôi tháp thứ 2 bị đánh sập bằng một chiếc máy bay phản
lực và lúc nầy tôi mới biết thật sự là nước Mỹ đang bị tấn công. Những tang
thương xảy ra tại New York chẳng khác gì Đà Nẵng của những ngày, tháng 3-75,
Sài gòn tháng 4-75 và quê tôi Quế sơn mùa hè 72 .Thật ngỡ ngàng chỉ trong nháy mắt hai tòa nhà song
sinh biến mất trên bản đồ thế giới., hàng ngàn người bị chôn vùi dưới lớp đá vụn,
hàng vạn người bị thương và mất tích, hàng trăm hành khách hiện diện trên các
chuyến bay định mệnh đã vĩnh viễn ra đi mà chỉ trước đó một vài phút còn dùng
điện thoại để liên lạc chuyện trò với
người thân..
Đất nước tôi chiến tranh triền miên trong một
phần tư thế kỷ cho nên tôi không .
xa lạ gì với hoàn cảnh thương tăm ấy. Nữu Ước trong
tình trạng giới nghiêm, phi trường bị đóng, chúng tôi bị kẹt phải lưu lại trong
khách sạn. Tại phòng khách tối hôm đó điện thoại bị cắt, cả hệ thống viễn liên
qua hand phone cũng bị cắt nữa, chẳng có ai gọi về gia đình được. Bọn chúng tôi
những người Việt Nam đến từ khắp nơi trên thế giới về dự ngày Đại Hội, chưa về
được, nên ngồi họp nhau dưới phòng khách
xem TV chiếu những cảnh kinh hoàng được chiếu đi chiếu lại nhiều lần dưới phụ đề
America Under Attack.
Trong những ngày lưu lại vì kẹt chuyến bay chúng tôi
có dịp trao đổi nhau nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống tha hương. Đặc biệt trong
nhóm đa số là người Quảng Nam từ Hạ Uy Di, Gia Nã Đại, Nam và Bắc Cali, và ở
các tiểu bang vùng Trung Mỹ chúng tôi dầu không quen biết nhưng qua âm ngữ đã nhận biết
ra cội nguồn tổ tiên và cái bản chất "Quảng Nam hay cãi" vẫn
là tiền đề cho những cuộc tranh luận của chúng tôi từ Tiên Phước, Quế sơn,
Thăng bình, Hội An, Đà Nẵng, v.v..Buổi nói chuyện để giết thời giờ của chúng
tôi thật lý thú. Hiện hữu nhiều thế hệ của xứ Ngũ Phụng Tề Phi nói về những ưu
tư đến quê hương, đồng bào, đất nước và
thân phận lưu vong, v.v..như ấm lại hơi thở của một con dân xứ Quảng giữa lúc một
biến cố khủng khiếp vừa xảy ra trên quê hương mới, liên tục trình chiếu trên
màn ảnh làm ta chợt nhớ đến lời điêu khắc gia Lazarus tạc dưới chân tượng Thần
Nữ " Hãy cho tôi những người mỏi mệt, nghèo nàn, những người muốn thở không
khí tự do. Hãy gởi đến tôi những người không nhà, những người vì bão bùng trôi
giạt ."
Có phải ta vì bão bùng trôi giạt về đây nương nhờ bóng
dáng Thần Nữ ? Ta nhớ hôm đó trời nắng,
từng tia nắng chảy qua từng bực thềm cao ngất nơi Nữ Thần ngự trị. Người ngươi mệt mỏi vì thang
máy chỉ dành cho người khuyết tật, các bạn đều bỏ cuộc khi bước vào tầng thứ nhất
của ngôi tháp. Ta bảo thầm đi tìm Tự do chớ bỏ cuộc, trên đỉnh tháp là nơi mà người
Mỹ tự hào gọi là " Nước Mỹ nhìn ra thế giới bên ngoài".
Ta
mỏi gối tìm nàng! Ôi Thần Nữ.
Trời
vào thu tia nắng chảy qua thềm(lãng du)
Chính nơi nầy ta tình cờ gặp một du khách người Pháp,
cô ta là một nghiên cứu sinh ngành xã hội học cũng ngồi nghỉ chân ở tầng thứ ba, trên tay cô ta cầm cuốn sách "Les
nuits d' Octobre et L 'April noir ".
Tánh hiếu kỳ và dòng tư tưởng có liên quan đến tháng
Tư đen của Việt Nam, ta mở chuyện để làm quen và hỏi thăm về tháng Tư đen ( April noir)
đó là tháng Tư của Ba Lan nói về cuộc đấu tranh của Công đoàn Đoàn kết
Ba Lan. Cô ta nói rành tiếng Anh, cô biết tôi là người Việt Nam cho nên hỏi qua một số vấn đề có liên quan đến Việt Nam. Cô đã có một vài lần đến thăm
viếng VN trong năm 1999. Tôi trình bày những vấn nạn của đất nước trong giai đoạn
hiện tại về Tư ï do, Dân chủ , Nhân quyền và đời sống đồng bào tại quê nhà
Thật buồn cười
vì ngôn ngữ eo hẹp cho nên tôi
nói cả ba thứ tiếng Pháp, Anh, Việt xà bần như rau trộn có điều cô ta hiểu được những gì tôi muốn
nói. Cô gởi lời chia sẻ cùng đồng bào tôi. Cô có ghé thăm Non Nước quê tôi
và mở cặp lấy cho xem mấy bức hình cô ta
chụp tại Ngũ Hành Sơn. Cảnh giành giật mua bán, cảnh người ăn xin bu quanh một
người ngoại quốc làm lòng tôi cảm thấy
đau đớn và xót xa cho thân phận quê
hương, đã 26 năm không còn chiến tranh mà các tệ nạn lại
càng ngày càng gia tăng. Tôi xin lỗi cô ta
bởi vì đồng bào tôi phải gánh chịu biết bao tang thương đổ vỡ từ biến cố nầy đến thiên tai nọ không một giờ,
một khắc sống trong an vui của cảnh thanh bình
Cuộc tiếp xúc rất ngắn ngủi, song cũng đã cho tôi một
sự suy gẫm dẫu sao một người ngoại quốc
nhìn quê hương và đất nước tôi từ bên ngoài mà họ cũng hiểu phần nào về
chủ nghĩa Cộng sản, ngược lại có những người Việt Nam chính cống từng chạy trốn
vì chế độ mà đến nay vẫn chưa sáng mắt để nhìn ra sự thật .
Gần một tuần sau phi trường Kennedy vẫn đóng cửa,
chúng tôi phải dùng đường bộ để trở về nhà. Bốn ngày trường trải bằng xe buýt trên đoạn đường dài gần 10 ngàn
cây số. Chúng tôi phải dừng lại biết bao nhiêu trạm từ Đông sang Tây. Trời liên
tục đổ mưa, mây mù giăng che kín núi. Dường
như đất trời cùng hòa với lòng người mà đổ lệ cho nước Mỹ. Nhìn lên TV tại những
trạm nghỉ chân thấy cảnh đào xới ,tìm kiếm những người thân, mang hình người
thân hỏi người qua lại, rồi những tiếng than khóc, những xác nạn nhân được bới
lên bọc bằng những bao cao su xếp hàng, đầu óc tôi lại quay cuồng về một biến cố
Mậu Thân 1968 tại Huế. Hai khoảng thời gian này cách một phương trời, những đồng
cảm những bà mẹ, những góa phụ, những trẻ thơ..ràn rụa nước mắt, gần 40 năm
trôi qua bằng một thảm trạng khủng bố được giữ lại trong ký ức.cuả mỗi một con
dân Việt cũng rất kinh hoàng.
Lynda!! Người con gái chỉ một lần gặp mặt, hôm nay ta
đặt bút viết những dòng nầy, bỗng dưng
qua khe cửa có chút trăng khuyết chiếu vào mà lòng dậy lên niềm đau về quê
hương và than phận. Những người anh em, đồng hương ta đa số đã có một chút
thành công còn ta cứ mãi xoay vần với những dòng suy nghĩ viển vông, vẫn nghiệt
ngã không thôi: không phải vì vô dụng,
phế thải, bất lực như một nhà báo thiên
cộng đã dành cho những người HO trong đó
co’tôi mà vì những thao thức, trăn trở
cho một Tổ Quốc VN thật sự Tự do
và yêu thương Lynda ! “la terre est ronde”ta nhớ mãi lời nầy của
cô..nhưng chẳng biết bao giờ có duyên gặp lại người nữ sinh viên nầy….?
Sau bao nhiêu năm tháng dài biệt xứ chúng tôi vẫn ngồi
nhắc lại những chặng đường oan khiên và nhận
biết được rằng ở cuối chân trời tạm dung nầy chỉ còn lại chúng tôi những
đứa con Việt Nam mới bận lòng cho nhau hơn dẫu có bất đồng nhau về một định luận
quan nào, dù sinh sống từ phương trời nào - sau cơn biến động nầy sẽ gần gũi
nhau hơn trong mọi hoàn cảnh cuả cuộc đời.
Cho nên xin tạ ơn trời đất, tạ ơn đời, tạ ơn những người còn sống, những người
đã chết hôm qua, vẫn mãi là nguồn ơn tiếp
sức cho chúng tôi trên bước đường lưu lạc chưa tìm ra lối quay về..
QUÊ HƯƠNG KHUNG TRỜI KỶ NIỆM
Cao Thy Yên
Hình như sắp tàn Thu từng cơn
mưa nhỏ đầu muà kéo theo những chiếc lá
vàng rơi ngập lối đi. Nhìn từ xa trong vòm trời
ảm đạm từng đàn chim thiên di
dang đôi cánh mỏng như chuẩn bị cho một cuộc di tản tìm về một vùng trời ấm áp
nào đó trước muà tuyết rơi Loài chim
nầy rất chung tình và không bao giờ quên cội nguồn , nơi trốn tuyết chỉ là bến bờ tạm dung mà thôi. còn những con chim Lạc
Viẹt lưu đày tren quê hương tạm dung đã gầmn 33 muà lá đổ vẫn mõi mắt ngóng trông ra biển để nhớ thương
và hoài niệm về một vùng trời quá khứ bi hùng để tích tụ cho một mơ ước ngày trở về trên quê hương không còn Cộng sản.
Muà Thu là muà cuả thi nhân, là muà cuả kỷ niệm ; đó
là muà tựu trường , đối với tuổi học trò
có chút gì quyến rủ và mới lạ như Thanh Tịnh
trong Ngày Tựu trường“ hôm ấy một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh
, Mẹ tôi âu yếm năm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp….
Hôm nay tôi đi học” mà chính tôi cũng đã trải qua những thu vàng chạy dài trên kỷ niệm tuỏi
thanh xuân
Ngày tháng cứ thản nhiên qua
nhanh, nhớ nhung và phiền muộn lúc nào
cũng tràn trề phía sau cánh cửa cuộc đời tạm dung . Làm sao quên được những
tháng năm triền miên khói lửa trên quê huơng , nơi chốn chôn nhau cắt rốn và đầy
ắp những kỷ niệm cuả tuổi ấu thơ. Một vầng trăng khuyết , một đám mây chiều lơ lửng trên mái đình hiu quạnh, và phía lủy
tre xanh mái nhà ai đã lên khói cho bửa cơm chiều cuả những người dân quê chất
phát trên vùng đất khô cằn , quanh năm
suốt tháng vớI đôi chân trần các ngón khẳn khiu bóm chặt vào lòng đất dính đầy
buị phèn . Đó là nơi tôi cất tiếng khóc chào đờI và lớn lên trong từng chặn đường
quanh co cuả lịch sử.
.
Khi
xa Tổ quốc mới biết quê hương là quan trọng , hai tiếng ấy như chiếm trọn cả phần
đời còn lại cuả tôi vì chính nơi đó đã sản sinh và cưu mang tôi trưởng thành
trong nhiều hoàn cảnh khó khăn cuả đất nước.
Th áng 12/ 1994 tôi rời xa Tổ
quốc khi chiếc máy bay lươn một vơng trên phi cảng Sàigòn và mát hút trong
không trung, tôi biết mình đã đánh mất một cái gì quan
trọng nhất trong đời, cái
nơi chốn thân thương . Sau ngày giặc đến, sự đổi thay cuả chế độ, đa số người
dân Miên Nam dường như từ chối sự hiện hữu nầy: một số lớn viên chức trong quân dội và chính quyền chế độ cũ bị cầm tù không có bản án,không có ngày về, chết dần chết
mòn trong sự hành hạ và trả thù cuả kẻ gọi là “ chiến thắng” như Tạ Tỵ kể lại
trong Hồi Ký ( Dưới đáy địa ngục) trong
đó có tôi; một số khác bỏ nước ra đi trong thập tử nhất sinh “ nếu
cột đèn biết đi, nó cũng bỏ mà đi”
câu trả lời cuả một bà cụ trước tòa án nhân dân về tội vượt biên trốn theo địch.
Là thế đó quê hương không những bị chiến tranh tàn phá mà chính sự cai trị hà khắc cuả tập đoàn man di rừng rú đỏ tanh muì maú
Maxít quốc tế cộng sản mang về áp lên đầu , lên cổ cuả nhân dân đã
huỷ hoại cái truyền thống vốn có từ lâu cuả nền văn hóa Việt tộc. Tôi thầm mong
rằng sẽ có một ngày bà con và đồng bào tôi được sống trong an bình, được đứng
thẳng không khom lưng , cuí đầu trước bất
cứ một thế lực nào, được nhận lãnh những ân huệ cuả Thượng đế ban cho loài người. Một xã hội trong thời đaị
con người đi vào khám phá không gian mà
Việt Nam khẩu phân người dân phải bị buột
chặt theo tiêu chuẩn ăn chia công điểm, đôi tai bị bịt kín chỉ cho nghe những
gì đảng nói, mắt chỉ được hướng về phía trước cái đích mà đảng đã đặt..Thời
phong kiến vua là thiên tử nắm toàn quyền sinh sát nhưng phân phát quyền lợi đồng
đều cho thần dân, ngược lại cái gọi là”
độc lập-tự do-hạnh phúc” là thế đó. Đọc
một vài diễn đàn tư nhân trong nước nhân
vật bất đồng chính kiến Hà Sỹ Phu than
thở “ “Việt Nam bây giờ như một đống bùn
nhão, không định hình” thật sự là vậy đồng bào tôi đang ngụp lặn trong vũng
bùn nhầy nhụa ấy với những bất công áp bức, tham nhũng, buôn lậu, ma-cô, đỉ điếm
… thì làm sao có Tự do và công bằng . Có nỗi nhục nào bằng khi đất nước bị ngoại
bang cưởng chiếm mà chính những người gọi là đại diện cho dân lại đi bịt mìệng
, bịt mắt dân không cho ai được bày tỏ
lòng yêu nước của mình qua vụ Hoàng-Trường Sa vì đó là cái quyèn thiêng liêng
đã ghi trong bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền ; thậm tệ hơn còn bắt bỏ tù những
ai đặt ra vấn đề đòi hỏi đó. Quân đội nhân dân, Cảnh sát nhân dân cái gì cũng
cuả dân cả , nhưng chỉ phục vụ cho Đảng
một thiểu số tự cho là “ đỉnh cao trí tuệ , họ xem đất nước như một vật sở hữu cuả
riêng họ. Có một lão thành chống Pháp tặi
quê tôi có 40 tuổi đảng và đã về hưu, sau ngày tôi đi tù về trong một cuộc trà dư tửu hậu ông nói rằng:’
ngày trước sống dưới chế độ thực dân Pháp, nhưng tôi đi đâu và ở đâu măc kệ,
ngày nay hoà bình lập lại đất nước thống nhất , nhưng muốn đi đâu phải xin
phép, cái phép đi thưa về trình thì có gọi là Tự do được không ?; thử hỏi đất
nước mình đang đứng ở đâu ? Cộng sản nguyên thuỷ ư? Như vậy đảng ta đến bao giờ mới tiến tới chủ
nghĩa đại đồng, làm việc tuỳ sức , ăn tiêu tuỳ cần, phải thắt lưng buộc bụng đến
bao đời để có ? là một người tù tôi
không có ý kiến , thế mà sang ngày hôm sau cũng bị kêu đi “làm việc”và cứ mỗI
lần như vậy thì phảI tốn một cuốn vở 50
trang để viết kiểm điểm, thế đó người dân sống trong sự giăng lưới bởi những
đôi mắt cú-vọ chực chờ để cấu xé .
Quê tôi nằm bên dòng sông
Ly-Ly , một vùng đất nghèo nàn trong thung lũng Quế Sơn đất cày lên sỏi đá, những người dân quê mộc mạc
một nắng hai sương bóm lấy thửa ruộng, mảnh
vườn để sinh tồn
thửa ruộng, mảnh vườn để sinh tồn truyền tử
lưu tôn..Trong chiến tranh cái làng nhỏ nầy hứng chịu bao nhiêu bom đạn, nhưng
chưa ai bỏ xứ mà đi- Cây đa, bến nước, dòng sông, lũy tre xanh và nhất là ngôi
đình làng nơi mà hằng năm vào ngày rằm tháng Ba Âm lịch là ngày giỗ kỵ cuả vị khai sinh ra nó . Họ vật
trâu đãi dân và hát xướng ba đêm ngày. Rồi
chiến tranh bùng lên, Việt Cộng về làng đã cướp đi mất cái không khí thanh bình
cuả những người dân quê hiền hoà chất phát
, nhưng dẫu sao đi nữa họ vẫn bóm
trụ để giữ lấy cái vùng đất đã gắn liền
với cuộc đời họ.
Tôi ước mong sẽ có một
ngày trở về ngâm mình trong dòng sông trong mát
để tắm gội những bụi đời trong những tháng năm biệt xứ đang bóm đầy trên
thân thể. Cái dòng sông mang phù sa đem lại cho dân quê niềm vui mùa gặt mới.
Bom đạn đi qua không làm cho đôi bờ loang lở, con nước vẫn êm đềm chảy xuôi về
biển như mang theo ân tình của họ về với đại dương hoà trong dòng sinh mệnh cuả
quê hương.
Ngày nay dòng sông đã lên thac, xuống ghềnh cuồng
nộ, đôi bờ tan nát vì nạn phá bờ để trồng
rau xanh hay dâm vài luống khoai để sinh kế. Bởi vì đất ruộng đã bị tịch thu
vào chế độ công xã . Chủ nghĩa xã hội không những ảnh hưởng đến đòi sống dân
chúng mà còn tác hại ghê gớm đến môi trường sinh thái hặn hán .. lũ lụt thiên tai triền miên. Đa số đã bỏ làng mà đi
vì ông chủ mới đã tóm thu tất cả những gì mà họ đã chắt chiu gầy dựng từ bao đời
nay
Tôi đã đi qua hai phần đời người, một phần còn lại ngồi đây để hoài
niệm, những thăng trầm, những khúc khuỷu quanh co trong cuộc sống. Quá khứ
không chỉ để hoài niệm mà từ đó nhin lại
và rút ra những bài học cho tương lai. Với
tôi tương lai chẳng có gì mà chỉ là một giấc mơ là sẽ có một ngày trở về thăm lại quê hương, ngoặn du mọi miền đất nước trước
khi ngả vào lưng mẹ ngủ giấc nghìn thu. Và giấc mơ đớ lớn theo thời gian và tuổi
tác. Sự chờ đợi nào rồi cũng có hồi đáp Nhà Văn Nga Solzhenisyn Nobel Hòa
Bình
sau mấy mươi năm lưu lạc tạị Mỹ cuối cùng cũng được thấy nước Nga
không còn Công sản
Tôi có một sai lầm là nghe theo lời mẹ tôi trở
về làng cũ sau ngày giặc đến để bóm lấy
ruộng vườn , bà bảo rằng về nhận
phần tài sản mà cha mẹ tôi để lại nếu như cho người ta
thuê mướn cũng đủ sống , nhưng có ngờ đâu sau 1 năm là họ thu vào hộp tác và
tôi bị bắt đi tù kéo theo những thê lương cho cả vợ con
Thời gian trôi thật
nhanh, mới đó mà đã mười mấy năm xa vùng trời kỷ niệm, mái tóc đã nhuộm màu năm
tháng. Trong một phút giây tỉnh lặng nào đó chợt nhớ về Đà Nẳng những chiều tan trường rảo bước
trên đường Độc Lập với những lá me bay, rồi quẹo sang Hùng Vương ghé “ Bình Dân
Thư Quán” mướn một vài cuốn kiếm hiệp cuả
Kim Dung về đọc vào những cuối tuần. Nhớ những muà thi khi đi xem kết quả, những
trạng thái tâm lý vui buồn cuả những sỉ tử
với những ước mơ sau thời gian dài 12 năm cuả bậc Trung Học. Sự quyét định
số phận cuả những nam sinh thời chiến lọan, Câu ca dao “ Rớt tú tài
anh đi trung sĩ” như muối
xát vào lòng những chàng hỏng thi….và có niềm vui nào cho bằng khi được đề tên
trên bản , Niềm vui và nỗi buồn “ Khấp
như thiếu nữ vu quy nhập;tiếu tự thư sinh lăạc đề thì” chuyện cười ra nước mắt
cuả tuổi học trò là vậy .- Nhớ những những
lần ghé Đại học xá Nam Giao cùng bạn đang
lấy court và thi học kỳ cùng với đám bạn đi
ăn bánh bèo “Bến Ngự” rồi ngang ngã trường Đồng Khánh ngắm mấy cô Nữ
sinh duyên dáng cuả xứ thần kinh.
Trời đã vào Xuân có anh’ trăng treo đầu nuí ,
nghĩ phận mình lưu vong , lạc xứ đã mười
mấy năm . Ngẩng đầu về phương Đông mà ngâm câu “ Cố quốc bất kham hồi thủ nguyệt
minh trung” Lý Dục bị lưu đày làm con tin thời chiến quốc khi nhìn trăng mà than
không biết trăng phương ấy có còn sáng soi trên đỉnh đầu nầy chăng ? Quê
hương còn đó với biết bao đổi thay 37
năm một đàn kiến cũng có thể cỏng gạo
xây thành một ngọn dả sơn huống hồ gì là con người . Tôi vẫn nghe những tiếng
kêu trầm thống từ trong nước nhưng nỗi
thương tâm cuả dân tốc đã gánh chịu . Họ đội đơn di khắp nơi cầu xin một chút
công lý . Từ văn phòng 2 Quốc Hội, vườn hoa Mai Xuân Thưởng , Văn phòng tiếp
dân , Thái Hà, Nhà thờ lớn ….Những tiếng thét gào cuả giới trẻ bị bắt đẩy lên xe khi họ lên tiếng bảo vê Tổ quốc trước nạn Bắc
xâm. Những khuôn mặt nhăn nheo vì khắt
khao Tự do cuả Thượng toạ Quảng Độ, Linh
mục Nguyễn Văn Lý, cuả những Nguyễn Văn Đài, Lê thị Công Nhân , Nguyễn Phong, Lê Nguyên Sang ,Cù Huy
Hà Vũ. Lê Công Định và biết bao nhiêu thanh niên sinh viên đã hien ngang bước
vào nhà tù như một niềm hãnh diện..
“ Hãy
xin đơi một nụ cười : Bài hát của Nam Lộc”
….. Tự đo ơi Tự do : Ta trả bằng nước mắt
Tự do hởi Tự do
Ta trao bằng máu xương.
Tự do ơi Tự do Em đổi bằng thân xác
Vì hai
chữ tự do Ta mang dời lưu vong
“La
politique est la science de la liberté
“( Pierre Joseph Proudha) Tự do là một yêu cầu cần thiết cuả loài người mà loài
người phải đánh đổi bằng máu và nước mắt/,
Ký sự Hành Hương
Hướng về năm đức tin (Year of Faith 24/11/2012- 24/11-
2013) cũng như xác tín niềm tin vào Chúa Kito phục sinh giữa lúc thế giới loài
người đang lao vào những tham vọng quyền lực, tranh giành ảnh hưởng, chiến
tranh chết choc, Thiên tai liên tục dẫn đến bến bờ diệt vong. Người Công giáo đứng
trước tình hình băng hoại về đạo đức có thể đánh mất niềm tin.
Cuộc hành trình Đức
Tin do Cộng đoàn giáo xứ thánh Ann
Tacoma Tổ chức cuộc hành hương thăm viếng
những Thánh tích phía trời Âu . Đó là những linh địa mà Thiên Chúa qua Mẹ Maria
đã làm chứng cho Đức tin. Cuộc hành hương do Cha chánh xứ chủ xướng và đã trù bị trước 6 tháng , được tổ chức thành đoàn ngủ . Cha Linh hướng,
Sr và Thầy phó tế phụ tá gồm có 41 thành
viên chia làm 4 tổ có tổ trưởng, tổ phó
trông coi và phụ trách các giờ kinh cũng như lo phần phụng vụ lời Chúa
trong các thánh lễ xuyên suốt cuộc hành hương cũng như phân phát tài liệu - lịch
trình và phòng nghĩ 2 người một phòng.
Trước khi lên máy bay cha sở cho đọc kinh và ngài nhắn gởi đến phái
đoàn những điiều cần thiết:
(Đi hành hương không phải
là đi du ngoạn ngăm cảnh, hương thụ những lạc thú trên đời mà là sự dấn thân và
hy sinh. Mục đích chính là hướng về năm
Đức tin của Hội thánh, thánh hóa Đức tin để gần gủi với Thiên Chúa hơn. Cuộc
hành trình dài 15 ngày có thể có những
trở ngại bất ngờ cần phải chuẩn bị trước)
(Đó là lời răn dạy của
cha linh hướng trước giờ lên máy bay sau khi đọc kinh và ngài ban phép lành cho
tất cả)
Chuyến bay Delta 615 khởi
hành từ phi trường Seatac lúc 3:25 ngày thứ năm 10/10/2013 vươt Đại Tây Dương
và hạ cánh tại phi trường quốc tế Charle Degaule lúc 1:30 sáng ngày 11/10 tức
là 10:30 sáng giờ Paris. Sau khi làm các
thủ tục nhập cảnh phái đooàn lên xe bus do do hướng dẫn viên đã chờ
Tại Parking lot
Paris
Theo lịch trình ngày 11/10 trạm đầu tiên là dừng
chân tai Paris Thủ đô nước Pháp và sau
đó tuần tự theo danh sách. Pháp là quốc
gia lớn nhất châu Âu , diện tích gần 700.000 Km2 . Dân số chừng 70 triệu và có
nền kinh tế đứng thứ 5 trên thế giới.
.Rời phi trường lúc
11.00 vào thăm những di tích lịch sử của kinh thành ánh sáng ,xe ngang qua nhiêù xa lộ
phái đoàn đã dùng thời gian nầy để dâng lời kinh nguyện ban trưa . Vào
Paris băng qua cầu vượt nơi mà công
nương Dana tử nạn, xe rẻ vào Đại lộ
Champs Elysees ngắm Điện Elyse, Bảo tàng viện Loui 14, Louis 15, Napoleon Đại đế;
Khải Hoàng Môn, Tháp Eiffel , nhà Thờ Đức Bà ( Notre Dame) nhà thờ lớn của giáo phận Paris, một kỳ quan của thế giới. Mùa Thu dường như về chậm Vườn
Luxembourg cây lá vẫn còn xanh, hoa vẫn
còn khoe sắc. Phái đoàn dừng lại tại khu thương xá Lafayette một trung tâm
thương mại lớn của Thủ đô người xe tấp nập, đa số là những xe ngắn gọn để dễ
dàng vào Parking, thường cư dân Pháp dùng sản phẩm của bản xứ là xe Renault ,
Peugeot, vì đường phố chật hẹp nên đa số dùng xe điiện ngầm, xe bus và nhất là
xe hai bánh. Hôm đó là ngày thứ 6 cuối tuần nên khá đông đúc . Phái đoàn dừng
chân nơi đây nghỉ trưa mua sắm và dùng bửa, giá sinh hoạt nơi đây rất đắc đỏ
nên chẳng ai mua đươc gì chỉ ngắm để rửa con mắt, có người bảo” đến Pháp khi đi
mua hàng chỉ nhìn chứ không được
dùng tay đụng vào thì người ta bắt phải mua”
Chặng cuối cùng là trở lại ngắm cảnh du thuyền
trên sông Sein chạy quanh thành phố với 22 cây cầu bắc qua.
Khởi đầu là cầu Le1na dưới chân tháp Eiffl đến
cầu Alma( Pont de L’Alma) nơi công nương Diana tử nạn rồi đi tiến đến Invalides
tiếp theo là cầu Alexandre cầu nầy xây vào năm 1886 và hoàn thành vào năm 1900
, cây cầu nầy trang bị tốn kém nhất có 4 trụ cột vàng ở 4 góc tượng trưng nền công nghiệp khoa học
nghệ thuật Pháp từ cầu nầy nhìn thẳng là Les Invalides nơi an nghĩ cuối cùng của
hoàng đế Napolon cùng các danh tướng của nước Pháp, quay lưng với Les Invalides
là hai cung điện Grand Palais và petit Palais , kế đến là cầu Concorde. Hạ viện
đối diện cầu concorde , quảng trường Concorde là nơi chém đầu Loui 16. Dọc theo
bờ sông Sein là vườn Tuileries. Nhà thờ Đức Bà nằm bên cạnh ngược dòng sông
Sein ngắm Notre Dame tôi nhớ lại Tác phẩm Les miserables của Victor Hugo một
hình ảnh tôi nhớ mãi từ thời Trung Học.
Lúc nầy là 4:00 chiều là giờ dâng Thánh lễ , đoàn quay ngươc xe đến Thánh Đường Đức Bà làm phép lạ nơi Đức Mẹ
hiện ra với Thánh Catherine Labouré năm 1830. Nơi đây đoàn được chiêm ngưỡng và
cầu nguyện trước Thi hài thánh nữ còn nguyên vẹn trong hòm kính .
Lyon
Sau một ngày mệt nhọc và giờ giấc chưa quen,
cho nên bà con đa số không ngủ được, thức
dậy rất sớm dùng một bủa điểm tâm( Petit
déjeuner) thật thịnh soạn, mùi cafe và bánh mì Pháp tuyệt như lời đồn,trong lúc
điiểm tâm hành lý đã được nhân viên khách sạn đưa ra xe bus và chúng tôi bắt đầu
cuộc hành trình mới
Nhìn đồng hồ trên xe
bus 8:00 sáng nhiệt độ bên ngoài là 10 độ
C xe bắt đầu chuyển bánh ngươc về hương Đông Nam dọc theo bờ sông Sein qua cầu Verseille và vào xa lộ đến Lyon thành phố nằm hướng Đông Nam nước
Pháp , đoạn đường dài trên 400Km xe phải chạy mất 5 giờ .Phái đoàn dành thời
giian nầy để đọc kinh , cầu nguyện và còn lại là phần Văn nghệ giúp vui gồm ca
nhạc hay chuyện kể hay chia xẻ nhưng kinh nghiệm sống đạo.. Tiếp theo Cha linh
hướng sơ lược về cuộc đời của Thánh Nữ Cathherine và Thánh Gioan Veanney vị
thánh quan thầy của các linh mục, bên ngoài trời đổ mưa, xe rẻ vào một làng
nông nghiêp những cánh đồng ruộng bắp mênh mông với nhưng con đương ngoằn ngoèo
chật hẹp và cuối cùng cũng đến được giáo xứ Cure Art nằm bên ngoài thành phố
Lyon, nơi mà cha thánh Vianney đã sống một cuộc đời khó nghèo để rao giảng tiin
mừng nhất là đem những người tội lỗi trở về với chúa trong bí tích hòa giải,
Phái đooàn đi viếng từ nơi ăn, chốn ở, bàn làm việc những lễ phục ngài dùng rất
đơn giản. Đặc biệt nơi đây còn trưng bày trái tim không hư nát cũng như thi hài
của ngài. Phái đoàn đã dâng thánh lễ
ngay trong nguyện đường bên cạnh thi hài của ngài , một ngôi thánh đường
không 1ớn lắm nhưng rất uy nghi ngồi
trong ngôi nguyện đường nầy riêng người viết bài nầy cảm thấy bình an lạ thường
tâm hồn nhẹ nhõm không có chút gì âu lo. Sau thánh lễ cùng chụp hình lưu niệm
phía trước nơi hòm kính đặt thi hài Thánh Vianney. Ngài được Đức Thánh Cha Pio
XI phong thánh năm 1925
Từ giả Cure Art chúng
tôi theo lộ trình đến Lyon và nghĩ đêm tại
đây. Lyon một thành phố miền đông nước Pháp
là nơi nỗi tiếng về các nhà hàng , một thành phố rất khang trang có kiến
trúc theo kiểu Tây.Một buổi tối rất ấn tượng tại một nhà hàng mà thực khách
không còn chổ chứa.
( Lộ
Đức) LOURDRES
Khởi hành lúc 7:30 AM Từ Lyon đi Lourdres nhiệt độ 7.6 C, khá lạnh đoạn đường
dài 430 miles. Cũng như thương lệ là giờ kinh sáng cùng nhau dâng chuổi 50 với
5 sự vui. Trời vẫn tiếp tục mưa nhẹ 7 giờ sáng mà Lyon vẫn chưa tắt đèn,chiếc
Bus Mercedes của Holy tour lướt qua trong mưa bay mù mịt. Đây là đoạn đương xe
bus dài nhất trong chuyến hành hương 9 giờ chạy qua những thảo nguyên mênh
mông, núi đồi khúc khuỷu , bà con phải qua 3 trạm nghỉ để ăn uống và
làm vệ sinh cá nhân.3 giờ kinh sáng, trưa và chiều cũng như những tiếc mục giúp
vui rất hào hứng. Có những hạnh phúc không đến bất ngờ một lần rồi ra đi để nỗi
buồn mang theo từ quê hương ra hải ngoại hay những đau thương nghiệt ngã của cuộc
đời; tất cả những dữ kiện ấy được Chúa Mẹ Maria chữa lành hoặc giải toả qua các
câu chuyện kể của anh chị em trong phái đoàn mà chính bản thân mình đã trải
nghiệm.
Lourdes ( Lộ Đức) là một
thị xã của Pháp , nằm trong bộ phận của Hautes -Pyrenees và vùng
Midi-Pyrenees .
Trung tâm của Kitô giáo hành hương , Lourdes chào đón mỗi năm có hơn 5 triệu người hành hương và du khách từ khắp nơi trên thế giới và 60.000 bệnh và người tàn tật đến để xin ơn
Lourdes cuộc hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria với Bernadette Soubirous vào năm 1858 , đã làm cho thị trấn này, một nơi được biết đến trên toàn thế giới . Thành phố dự kiến gần 10 triệu người hành hương và chuyến thăm của Giáo hoàng Benedict XVI trong tháng 9 năm 2008 .
Lourdes 15.000 dân nằm dưới chân của dãy núi Pyrenees, trong khu vực lịch sử của Bigorre , trên Gave de Pau , phía tây nam của Tarbes . Thành phố này được xây dựng xung quanh một núi đá lộ của người thừa kế dòng sông băng Argeles- Gazost mà trên đó các lâu đài, nhà thờ được xây dựng tại Thị trấn nầy
có 230 khách sạn được xếp hạng thứ ba của thành phố khách sạn ở Pháp sau Paris và Nice và có 22 tu viện lớn nhỏ
Hầu hết các nền kinh tế Lourdaise dựa trên cuộc hành hương du lịch liên quan đến sự màu nhiệm của Đức Maria vô nhiễm tội truyền . Năm trăm cuộc hành hương mỗi năm , điểm cao nhất vào tháng Năm, tháng của Mẹ Maria, và vào tháng Tám , Hồn Xác Lên Trời . Mỗi buổi tối mùa hè lúc nào cũng cử hành đuốc Madonna .
Xung quanh đền thờ , thương mại lưu niệm tôn giáo rất phát triển .. Cửa hàng sang trọng đáng ngạc nhiên đối với một thành phố nơi nghèo trước đây chỉ có chừng 4000 cư dân và sống băng nghề chăn nuôi và đẻo đá
Trung tâm của Kitô giáo hành hương , Lourdes chào đón mỗi năm có hơn 5 triệu người hành hương và du khách từ khắp nơi trên thế giới và 60.000 bệnh và người tàn tật đến để xin ơn
Lourdes cuộc hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria với Bernadette Soubirous vào năm 1858 , đã làm cho thị trấn này, một nơi được biết đến trên toàn thế giới . Thành phố dự kiến gần 10 triệu người hành hương và chuyến thăm của Giáo hoàng Benedict XVI trong tháng 9 năm 2008 .
Lourdes 15.000 dân nằm dưới chân của dãy núi Pyrenees, trong khu vực lịch sử của Bigorre , trên Gave de Pau , phía tây nam của Tarbes . Thành phố này được xây dựng xung quanh một núi đá lộ của người thừa kế dòng sông băng Argeles- Gazost mà trên đó các lâu đài, nhà thờ được xây dựng tại Thị trấn nầy
có 230 khách sạn được xếp hạng thứ ba của thành phố khách sạn ở Pháp sau Paris và Nice và có 22 tu viện lớn nhỏ
Hầu hết các nền kinh tế Lourdaise dựa trên cuộc hành hương du lịch liên quan đến sự màu nhiệm của Đức Maria vô nhiễm tội truyền . Năm trăm cuộc hành hương mỗi năm , điểm cao nhất vào tháng Năm, tháng của Mẹ Maria, và vào tháng Tám , Hồn Xác Lên Trời . Mỗi buổi tối mùa hè lúc nào cũng cử hành đuốc Madonna .
Xung quanh đền thờ , thương mại lưu niệm tôn giáo rất phát triển .. Cửa hàng sang trọng đáng ngạc nhiên đối với một thành phố nơi nghèo trước đây chỉ có chừng 4000 cư dân và sống băng nghề chăn nuôi và đẻo đá
. Đến Lộ-Đức lúc 4 giờ chiều Chúa Nhật vì để kịp dâng
thánh Lễ , cho nên cất hành lý và nhận phòng tại khách sạn , đoàn lập tức đến Nhà thờ chính để viếng thăm
và dâng lễ. Lộ Đức là trung tâm du lịch lơn nhất cho nên lương người
quá đông nếu không có tổ chức kỷ lưỡng thì dễ bị lạc lối, do vậy cha linh hướng
đi trước cầm cây cờ vẫy vẫy để làm hiệu, có người phía sau nói đùa rằng “ nếu
cha Tuấn thêm cây gậy thì giống Môi-Sen khi dẫn dân Irael về đất hứa” và chính
chúng tôi cũng có cảm nghĩ như vậy.Đức Mẹ Lộ Đức chính là biểu tượng cũa yêu
thương của hòa giải, là những ngườiViệt Nam lưu vong đủ mọi thế hệ mang tâm trạng của nhưng người Do Thái phiêu
linh của hai ngàn năm trước. Chúng tôi
đi qua nhiều con phố phố nào cũng toàn là các cửa tiệm bán các vật dụng lưu niệm
và đó là ngành kinh doan chính và biến nơi đây thành trù phú nhất.
Chiều Chúa Nhật Lourdres có nắng ấm chúng tôi đến dâng
thánh Lễ tại nguyện đường cạnh vương cung Thánh đường, phía bên ngoài khu Vương
cung thánh đường từng đoàn người đi rước
kiệu đẩy theo những chiếc xe và trên đó là những bệnh nhân có lẽ là y khoa đã
bó tay họ đến để cậy vào lòng từ ái Mẹ( có rất nhiều trường hợp được công nhận chữa lành bởi phép
lạ được giáo hội công bố) và thường những cuộc rước kiệu sẽ kéo dài đến nửa
đêm.
Xong thánh lễ chúng tôi đi viếng hang đá phía sau núi
nơi Đức Mẹ hiện ra cùng Thánh Nữ Bernadette có tất cả 18 lần có sự chứng
kiến của nhiều người và Đức Mẹ cho biết “ Ta là đấng vô nhiễm nguyên tội” Những tảng đá nơi hang đá bóng láng vì nhiều
bàn tay của khách hành hương sờ vào để xin ơn cứu chữa. Nhìn lên Hang đá tượng
Mẹ vô nhiễm đứng rất uy nghi nhìn ra từ bốn phía. Nơi đây cách mỗi giờ có một
thánh lễ Tạ ơn, đèn nến sáng rực không giờ nào tắt.
Sau khi cơm tối xong chúng tôi mỗi người ý,
có người tham gia kiệu mình Chúa, có người đi xin nước Thánh, có người đi đốt nến
cầu nguyện nơi hang đá Massabielie.,tắm giếng Thánh..có ít nhất cả triệu người
đến tắm hằng năm.
Hai đêm và một ngày phái đoàn dừng chân nơi đây anh chị em có dịp chứng kiến quyền phép của Thiên
Chúa với những công trình xây dựng mang tính thời đại của giáo hội Thiên Chúa
giáo La Mã tiền bán thế kỷ thứ 19. Do vậy phái đoàn hành hương Giáo xứ Saint
Anne Tacoma cùng hiệp thông với khách hành hương khắp nơi đốt sáng niềm tin qua
hai đêm thắp nến và đi kiệu cũng như đi
viếng 14 chặng đường khổ nạn Chúa Ky tô vòng quanh trái núi. Đặc biệt ngày thứ
2 được dâng thánh lễ ngay trong nguyện đường Thanh Gioan Vianney cũng là bổn mạng
của các linh Mục , sau đó đi thăm viếng những di tích 2 nơi ở của gia đình
Thánh Nữ Bernadette sinh sống :Đó là gia
đình của Ông Francoise Soubirous và Bà
Louis Casterot là thân phụ mẫu của
Thánh Nữ. Ông bà sinh hạ 9 người con 6 trai 3 gái, có 3 người con chết trước 10
tuổi . Sau Cách mạng Pháp gia đình sơ sút gia đình không đủ tiền chi trả tiền
nhà cho nên dọn về ở nơi một phòng giam trước cách mạng,một căn phòng chật hẹp
chừng 6m vuông mà chứa cả 6 người ăn ở cuộc sống rất khó
khăn và nơi đây Thánh nữ nhận ơn rửa tôi và sau đó vào dòng tu
Lộ Đứclà nơi bình an,chốn cầu nguyện không phải
là công trình của loài người mà là quyền năng của Thiên Chúa qua trung gian Mẹ
Maria truyền cho Bernadette:( Là ta không làm con sung sướng ở đời nầy mà là ở
đời sau “)Bernadette chết 1879 và 30 năm sau được bốc xác một trong những bước
phong thánh xác minh về thể nhục, có ba lần bóc xác lần cuối vào ngày 18/5/1925
trước sự chứng nghiệm của chính quyền và y, bác sĩ và thi thể hiện quàng tại
nnguyện đường dòng kín để mọi người viếng thăm. Bernadette đã được Đức GH Pio XI phong thánh ngày 8/12/1933.
Phái đoàn được tham
quan 3 nhà thờ lớn: Nhà Thánh Holy Rosary, Nhà
Thánh Bernadette , Nhà Thờ Thánh Pio và ngôi nhà thờ Thánh Phero nơi đây có giếng rửa tội
Bernadette. Tất cả các công trình kiến trúc là một kiệt tác.
Tây Ban Nha
Giả Từ Mẹ Lộ Đức chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình đến Thánh địa Fatima ( Bồ Đào Nha) sau 3 tiếng
thì vào biên giới Tây Ban Nha . Tây Ban
Nha nằm về phía Tây Nam Châu Âu giáp Địa Trung Hải. Diện tích chừng 500 Km2 Dân
số 47 triệu 75% theo đạo công giáo. Quê hương của danh họa Picasso và nằm trong
dãy Picos Europes với những đồi núi và thảo nguyên tạo quang cảnh rất hùng vĩ của
xứ mặt trời. Đoàn dừng chân tại thành phố Salamanca cách thủ đô Marid 250 Km. Salamanc a chiềucuối Thu lá vàng đầy phố
Salamanca chiều cuối Thu lá vàng đầy phố,Bà
con phải đi bộ trên lá khô một đoạn khá xa để đến khách sạn vì không có lối để
xe lớn vào. Hôm nay cha linh hướng phải dâng thánh lễ ngay tại phòng ăn của khách
sạn không rượu lễ không chén thánh Cha sở dùng chén và ly tại khách sạn cũng
như rượu vang ngoài chợ để làm của lễ cha con dâng lễ và bẻ bánh chia nhau làm
tôi nhớ lại buổi tiệc ly của chúa cùng các môn đệ .
Sang 16/10 trong giờ breakfast thì hướng dẫn
viên du lịch đến , cô là người bản xứ nói tiếng anh rất thông thạo. Trước tiên
cô đưa chúng tôi đến dâng thánh lễ sang tại nhà thờ của các Soeur dòng kín Dòng
Elizaberth , nhà thờ tường mạ vàng và công trình xây dựng gần một thế kỷ. Dâng Thánh lễ xong . Chúng tôi từ
biệt các soeur và gởi gắm một số lời càu nguyện đến thăm trung tâm thành phố
nơi đây là khu thương mại một quảng trường rộng không mái che , các thương nhân
đến dọn quay và bày bán , xung quanh là những cao ốc là bản doanh của các cơ
quan kinh doanh lớn , phía đông là hoàng cung của hoàng hậu cuối cùng của hoàng
gia Tây Ban Nha sinh sống. Sau đó viếng nhà thờ chính tòa giáo phận Salamanca
nhà thờ xây theo kiểu Gothic có tháp chuông cao và cửa vòng cung, nhà thờ xây dựng
trong vòng 230 năm mới hoàn thành. Năm 1947 xãy ra động đất trong lúc dâng
thánh lễ nên một cây tháp bị nghiêng ,nhưng không có thiệt hại về nhân mạng, do
vậy mỗi khi cuối tháng Mân côi 30/10 hằng năm giáo dân cử một người bận áo quần
trắng leo lên nóc nhà thờ múa hát để tạ
ơn. Phái đoàn chụp hình lưu niệm trước cửa trước khi lên xe đi Fatima Bồ Đào
Nha , 11 giờ ra khỏi địa phận Tây Ban
Nha theo hướng Tây Nam qua trạm kiểm
soát vào Bồ Đào Nha phải vươt qua bao nhiêu đường hầm có hầm dài hơn cây số dọc
theo rặng núi Picos De Europs
Bồ Đào Nha
Bồ Đào Nha là quốc gia ở Tây Nam bán đảo Iberia . Có 97%
là Công giáo, Mẹ Maria được người dân tôn sùng là Nữ Thần , Đất nước BĐN là nơi
gặp gỡ giũa đất liền và biển cả, là đất nước tương phản mà những vẽ đẹp được
gìn giữ qua mọi thời gian, là nơi hòa hợp của những huy hoàng của quá khứ và những
nét tân kỳ của hiện tại, xứ sở của những cây sồi , tức là cây Ô-Liu
và Rượu vang Porto là rượu vang ngon nhất thế giới . FATIMA là đất thánh cách thủ đô Lisbon 125 Km. Đoàn ở lại với Mẹ
Fatima một ngày và một đêm đi viếng vương cung thánh đường chính, thánh đường nầy xây năm 1921 ,trong nhà thờ
có mộ của Thánh Luxia, Jacinta và Francisco là ba người được Mẹ trao ba mệnh
lênh
Fatima : Hãy ăn năn đền tội, lần chuổi
mân côi và tôn sùng mẫu
tâm. Thăm và chụp hình bên gốc cây sồi mẹ hiện ra, Viếng thăm bảo tàng viện,
xem video ghi lại bối cảnh lịch sử Fatima trong Chiến tranh thế giới 1914-1918,
tham quan các phẩm và tặng vật của các quốc gia dành cho các triều đại giáo
hoàng vô số kể, viên đạn mà kẻ sát nhân ám sát ĐG.H. J Paul được gắn trên mão triều Thiên Mẹ Fatima trưng bãy trong BTV nầy, nơi
đây anh chị em đã ký vào sổ lưu niệm . Đối diện với Thánh đường Fatima là
chapel mới xây là nơi dành cho khách hành hương đến cầu nguyện , một số anh em
đến sấp mình nơi đây cầu xin Mẹ Fatima ban ơn và che chở cho gia đình, cho quê
hương và dân tôc luôn được an bình , thịnh vượng- một số khác đốt nến cầu nguyện tại địa điểm Mẹ hiện ra . Đặc biệt trên tường
phía cửa ra vào có những lời nguyện bằng nhiều ngôn ngữ có cả tiếng Việt
Ytaly
Ngày 18/10 Thứ 5 : 5 giờ sáng dâng thánh lễ
tại nguyện đường nơi mẹ hiện ra , mỗi phái đoàn chỉ có thời gian 30 phút cho nên trong bài giảng cha sở chỉ nhắc những
điều cần thiết và sau thánh lễ phái đoàn dùng điểm tâm tại Khách sạn và chuẩn bị
một cuộc hành trình mới: Về giáo đô La Mã ( Rome)
Trên đương ra phi trường hướng dẫn viên du lịch
hương dẫn đi thăm làng Valinhos nơi mà các em bị bắt giữ nơi đây là một trái đồi
trồng Ô-liu và là nơi Mẹ hiện ra lần thứ 4 không phải ngày 13 như thường lệ mà
là ngày 19/8/1917 . Đây là khu di tích được bảo quản nguyên trạng từ 1917 đến
nay và chăm sóc kỹ lưỡng những hành lang , lối đi từng bậc rất đẹp mắt chính giữa khu vườn là pho tương Đức Mẹ
dành làm nơi cầu nguyện cho khách vãng
lai . Rời khu vườn Vilinhos chúng tôi đi
thăm làng Aljustre nơi ngôi nhà
và giếng nước phía sau nhà Lucia
chính đây Thiên Thần hiện ra với Lucia.
Các ngôi nhà củ kỷ , các di tích vẫn còn nguyên vẹn: từ chuồng lừa, bếp
nấu, giường nằm vv. Một số anh chị em còn trò chuyện và chụp hình với cháu của
Thánh Nữ Lucie một trong ba người được Đức
Mẹ tỏ mình. Là Lucia, Fracisco và Jacinta hai anh em Franciisco , Jacinta được
Chúa gọi về trước chỉ còn Lucia nhận lãnh 3 mệnh lệnh bí mật vừa mới qua đời và
đã được Đức J Paul II công bố.
Rời làng Aljustre quê nhà của Lucia, chúng
tôi lên xe đi thảng đến Phi trường Lisbon trở lại Paris máy bay cất cánh lúc 11
giờ sáng giờ địa phương đến Paris lúc 3 giờ chiều và đổi đường bay đến Rome Thủ
đô nước Ý lúc 7 giờ đêm, Cô Jack đại diện Holy Tour đã đem xe chờ chúng tôi và
đưa về khách sạn lúc 10 giờ và nghĩ đêm tại nơi đây.
Sáng ngày 18/10 đi San Giovanni Rotondo ở miền
Nam nước Ý để viếng( đền thánh Pio năm dấu thánh (The
Shrine Of ST Padre Pio) là Trung tâm hành hương đứng thứ ba trên thế giới. Khởi
hành lúc lúc 8 giờ sáng đoạn đường dài 257 miles trên đường ngoài giờ kinh Cha
sở review lại ngày qua về những thu hoạch
về đời sống tâm linh, về phong tục và đời sống những nơi đã viếng thăm cũng như
nhắc lại những điều cần để ý.. Đến
Rotondo lúc 2:45 Dâng thánh Lễ dưới
thi hài của Thánh Francisco và sau đó đi 14 chặng đường Thánh giá viếng thăm
các đền thánh và các di tích về cuộc đời Thánh Pio, tham quan căn phòng nhỏ nơi
trưng bày quần áo còn in vết máu của dấu thánh, các vật dựng hằng ngày, tòa giải
tội, cây thánh giá mà từ đó ngài nhân lãnh ơn thông phần. Tất cả được bảo quản
cẩn thận. Viếng thi hài còn nguyên vẹn đặt trong căn hầm của Đền Thánh Pio đầy ánh hào quan ai bước
vào tương chừng như lạc vào những
chuyện cổ tích mà ta thường nghe tại quê nhà lúc còn nhỏ . Ngài nằm như một người nằm
ngụ rất an bình.
Cha thánh Pio là một tu
sĩ đã cống hiến đời mình cho Thiên Chúa, ngài được nhận món quà siêu nhiên của
Chúa Kito tặng năm dấu thánh khi ngài cầu nguyện trước tượng Chúa chuộc tội và
những vết thương nầy đau đớn và chãy máu cho
đến khi ngài qua đời. Ngài cũng được Chúa và Mẹ đến thăm cá nhân và lien
lạc hằng ngày qua thiên thần hộ mệnh. Ngài có năng lực siêu nhiên thông công
nói chuyện với các linh hồn .Do vậy cha tận hiến cuộc đời cho những ai tìm đến
ngài nhất là các linh hồn nơi luyện ngục. Ngaì qua đời năm 1968 Thọ 81 tuổi,sau
40 năm giáo hội cho khai quật thi hài ngài vẫn còn nguyên vẹn không bị phân hủy
ngoài trừ một vài bộ phận nhỏ và cho vào hòm kính trưng bàyNhà Thờ Đức Mẹ đầy
ơn sũng ( Santa Maria Delle Grazie) để mọi người chiêm ngưỡng, nhà thờ xây dựng năm 1956 và khánh thành năm
1959 và được thánh hiến bởi giám mục
Foggia . Vương cung thánh đường Mẹ đầy
ơn sũng không những là một cơ sở tôn giáo mà là trung tâm du lịch đã làm cho miền
núi San Giovanni Rontodo trở thành một vùng trù phú không những về phương diện
kinh tế, đời sống xã hội mà cả y tế Bệnh viện Thương Khó cha Pio xây dựng năm
1940 và đưa vào hoạt động năm 1956 nhằm phục vụ người nghèo và được xem là bệnh
viện hữu hiệu nhất tại Châu Âu
Đền Thánh Pio
được hoàn thành năm 2004 là một cong trình kiến trúc tân kỳ bởi kiến
trúc sư Renzo Piano Genoan , có thể chứa
6500 chỗ ngồi và ngoài sân chứa 30.000 người. Cả ngoài lẫn bên trong trang trí
rất đẹp, các cột được trang trí các hình ảnh về cuộc đời cua Cha Thánh Pio và
Thánh Fracisco Assisi.Năm 2010 Thi hài cha Pio dời về chính đền thánh của ngài
Ngày thứ 10( Thứ bảy 19/10).
Rời San Giovanni Rotondo trên đường đến
Loretto 180 miles viếng Thánh đường Mẹ đầy
ơn phước. Trên đường ghé thăm
hang Tổng lãnh Thiên Thần Micae nằm sâu trong hang núi, sách có ghi nơi
đây Thiên thần hiện ra và giúp đỡ dân địa phương chống lại thú dữ và dịch bệnh
và từ dó trở thành linh địa hằng năm có nhiều khách đến tham quan và xin ơn. Đây là một eo núi đèo heo hút gió nhờ vậy trỡ
thành nơi ồn ào và nhộn nhịp trù phú. Rời hang Tổng lãnh Thiên Thần chúng tôi đến
viếng thăm Vương cung thánh đường Mẹ Đầy Ơn Phước tại Thành Phố Loretto, thăm
phòng nguyện nguyện và dâng thánh lễ ngay trong ngôi nhà Nazarette, ngôi nhà nầy
được thiên thần mang Loretto, khách hành hương rất đông ngày hôm nay .Bài Phúc
âm hôm nay “ Mọi tội lỗi có thể đươc tha nhưng xúc phạm đến thánh thần là không
thể tha. Con người là loài thụ tao không sao tránh khỏi sự cám dỗ tội lỗi,
nhưng không được xúc phạm thần khí Chúa. Phái đoàn nghỉ đêm tại khách sạn San
Francesco.
Ngày thứ 11( Chúa nhật
20/10)
Từ giả
Loreto lúc 7:50 - đi Assisi . trên đường đến Assisi ghé viếng Vương cung
Thánh đường “ Đức Mẹ các Thiên Thần nằm giữa Loreto và Assisi nơi đây Thánh
Phanxico về tu học và chết tại đây , xác ngài chôn tại đây. Đặc biệt sau nhà thờ
có vườn hồng không có gai. Phái đoàn đã thăm viếng và chứng kiến Bức tượng ngài
trên bàn tay lúc nào cũng có con chim bồ câu đậu trong lòng bàn tay. Truyền rằng
Thánh Phanxico rất yêu
thích thiên nhiên và chim trời ngài rất gần gũi với chúng . Ngài cũng được nhận
ân huệ năm dấu thánh Như Cha Thánh Pio
Assisi là thành phô có 30.000 dân, cách Rome
175 Km là nơi sinh của thánh Francisco
và Thánh Nữ Clare. Thánh Phanxico con của
một phú hộ chuyên nghề xuất nhập cảng tơ lụa ,sinh năm 1182 và mất 1226 .
Thánh Phanxico trải
nghiệm và chứng kiến những mảnh đời nghiệt ngã trong xã hội. Từ đó đã nãy sinh
ý tưởng phục vụ. Cha ngài muốn ngài phải trở thành một thương nhân để cai quản
sự nghiệp , nhưng ông đã từ chối ,Ông gia nhập quân đội hai năm và sau đó giải
ngũ và sau đó ngài sống đời tận hiến gom góp của cải để xây nhà thờ và lập
dòng. Dòng Phanxico là do ngài lập ra và ngài là bổn mạng của Đức Thánh Cha
Francisco hiện nay
Thánh Nữ Clare sinh năm 1194 là một thiếu nữ
xinh đẹp, con nhà giàu nhưng được ơn Chúa Bà đã từ bỏ và theo Thánh Phanxico lập
dòng” chị em hèn mọn) nhằm chăm sóc bệnh nhân, giúp người hèn mọn, họ sống khắc
khổ trong tinh thần phục vụ .Đến 20 tuổi Bà đươc Cha Phanxico cử làm bề trên.
Thánh Nữ Clare từ trần ngày 11 tháng 8 năm 1253 chỉ hai năm sau được phong thánh và được chôn tại nhà thờ San
Giorgio. Ngày 15/6/1255 Đức giáo hoang
Alexander IV Phong thánh là Saint Clare Thành Assisi. Nhà Thờ Saint Clare hoàng thành năm 1260. Sáu trăm
năm sau Thi hài Saint Clare được chuyển về nhà thờ mới là Basilica Of Saint
Clare. Thánh Phanxico và Saint Clare là hai người bỏ gia đình, bỏ giàu sang quyền
quý vát thánh giá chúa
Để tưởng niệm công đức Thánh Phanxico Giáo hội
cho xây Vương cung thánh đường Basilica of –St Phanxico Assisi hoàn thành 1280
có hai vương thượng và vương cung hạ nằm
trên trái núi trước đây là khu vực dùng làm bải xử tội nhân cho nên người ta gọi là vùng địa ngục nhưng
khi thánh Phanxico về lập dòng trở nên thành phố Thiên Đàng đó là tên do dân đại
phương thường gọi. Assisi chỉ võn vẹn có 2000 cư dân nhưng có đến 5 triệu khách
hành hương mỗi năm thật là ân huệ của Thiên Chúa dành cho.
Thánh đường rộng 50m X
80m cao 18 m xây hai tầng là một trong điểm của thế giới nghệ thuật, nội thất
trang trí theo kiểu Gothic sáng sủa , đầy màu sắc, mặt tiền theo kiểu La
Mã có cửa sổ hoa hồng , khảm đá mosai
vàng
Vương cung Thánh đường
hạ xây trước và nơi đây ghi lại
những hình ảnh và cuộc sống khó nghèo của ngài và thi hài của ngài được bảo vệ
kỷ lưỡng vì trước đây sợ đánh căp, Phái đoàn dâng thánh lễ nơi đây lúc 3 giờ
chiều. Xong Thánh lễ tiếp
tục tham quan các nơi xung quanh Thánh đường và sau đó về lại khách sạn .
Ngày thứ 11 thứ hai
(21/10).
Đây là chặng cuối cùng trong cuộc hành hương
phái đoàn trở về Roma Thủ đô của Nước Ý
và Vatican giáo đô của giáo hội. công giáo
.Trong 11 ngày Chúng tôi đã dùng
chiếc xe bus để làm nơi cầu nguyên , những tiếng cầu kinh đi từ đông sang Tây,
từ nam xuống bắc, qua bao nhiêu đồi núi, phố phường mà chúng tôi để lại những
lời kinh nguyện của những đứa con của Mẹ Việt nam có quá nhiều thương đau và khổ lụy ! Xin Chúa thương xót
chúng con.
Ý Đại
lợi là một đất nước có bề dày lịch sử Thiên Chúa giáo , đã giữ lại vô số di sản của nền văn minh cổ đại, những kiến trúc theo
kiểu Gothic. Giáo đô La Mã có khoảng 80 nhà thờ lơn nhỏ
Giáo đô Vatican nằm quận của Rome được bao bọc
bằng bức tường cao, là quốc gia độc lập
nhỏ nhất thế giới, và cũng là quyền lực nhất thế giới, được cai trị bởi Đức Giáo Hoàng, đó vị vua tuyệt đối của châu Âu.
Có cơ chế chính quyền và quân đội riêng chừng 100 vệ binh người Thụy Sĩ,
quân phục sọc đỏ, vàng, và màu xanh truyền
thống, và cầm pikes thế kỷ 15, trong thực tế có những người lính được đào tạo
chịu trách nhiệm về an toàn cá nhân của Đức Giáo Hoàng. Vatican bao gồm các nhà thờ lớn nhất là nhà
thờ St Peter xây dựng từ năm 1506 đến năm 1626 mới hoàn tất rộng 80 mẫu, bên
trong trưng bày những hình ảnh của nhưng
danh họa lừng danh trên thế giới như Raphael; Bemini, Michelanglo với kiệt tác
“La Pieta Mẹ sầu bi” nơi linh thiêng nhất của đạo Công giáo, nơi thu hút khách
hành hương và khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Không chỉ là các tỷ lệ
áp đảo (mái vòm, được thiết kế bởi Michelangelo tháp cao 136m trên sàn) nhưng như vậy có hàng trăm tác phẩm nghệ thuật
được trang trí bên trong nhà thờ. Properties của Tòa Thánh- thành
phố Roma được hưởng quyền xuyên biên giới là một phần của di sản thế giới
UNESCO.
La Mã là thủ đô của đế chế La Mã ngày nay là Roma là thủ đô Ý nằm trung tâm của đất nước có hình dáng giống chiếc giày và là một trung tâm văn hóa – kinh tế, thương mại, chính trị hàng đầu của nước Ý. Dân số vào khoảng 2,5 triệu người, nếu tính cả khu vực đô thị xung quanh là 3,8 triệu. Thành phố tọa lạc trên hợp lưu của sông Aniene vào sông Tiber. Rome cổ đại được xây dựng trên 7 quả đồi liền nhau nên được gọi là thành phố 7 quả đồi. Trong thành phố có công trình kiến trúc cổ như quảng trường, nhà thờ, tu viện, hoàng cung, trường đấu mãnh thú, miếu thần, pháo đài cổ, các tượng thần, vòi phun nước Trevi
Đến thăm Rome, quý khách sẽ được chứng kiến tận mắt các tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, có cảm giác như đang viếng thăm một viện bảo tàng khổng lồ. Rome cũng khá nổi tiếng với những món ăn ngon, khách du lịch đến từ khắp nơi trên thế giới không những được biết đến với kiến trúc đẹp mà còn được dịp nếm thử một số món ăn truyền thống của rome. Tất cả các con đường đều hướng về Rome nên có câu” đi đâu cũng về La Mã là vậy)
Ngày thứ 12/ Thứ hai
(21/10)
Viếng hang Toại đạo( nghĩa trang chôn những
người chết vì đạo) nằm ngoại thành Roma nơi chôn cất hơn 120 ngàn nạn nhân
trong đó có cả Thánh Phao lo Lô và
Phero, Hang nằm sâu 20 mét dưới lòng đất với những ngôi mộ chất chồng . Nếu ai đã xem
những phim võ hiệp Hồng Kong với những hang động bí mật cất giấu những bí
kiếp như phái cổ mộ trong Thần d9ieu hiệp
lữ thì hang toại đạo giống như vậy , chúng tôi phải đi xuống hầm với nhiều lối
đi ngoằn ngoèo nhờ có gắn dạ quang nếu
không sẽ bị lạc lối. Có một số anh chị em không dám vào. Ra khỏi hang ,cha sỡ
đã dâng thánh lễ sáng tại nguyện đường xây trên hang vào thế kỷ thứ IV sau 1000
năm mới tìm lại và đã được Thánh hiến.
Tiếp tục đoàn đến viếng Điện Sistine là
trái tim của bảo tàng viện Vatican rộng 55 ngàn mét vuông, xây vào thế kỷ 16 bởi
Đ.G.H. Julius II là bảo tàng lớn nhất với những tác phẩm quý giá nhất thế giới
trưng bày trong không gian rộng lớn ai bước vào ai cũng cảm thấy choáng mắt với những trang trí bên trong giáo , có hơn 850 ngàn quà tặng của các quốc gia và tôn giáo khác . Khách vào
thăm viếng phải ăn bân chỉnh tề và phải qua hệ thống kiểm tra an toàn . tuyệt đối
không quay phim, chụp hình. Diện Sistine
do nhiều triều đại giáo hoàng nên có nhiều màu sắc khác nhau.
Viếng Đền Thờ
Thánh Phero ( St Piter)
Ðền Thờ Thánh Phêrô là thành quả công trình
tái thiết đầy công phu ngôi Ðền Thờ cổ kính do Hoàng Ðế Costantino kiến thiết
vào năm 320. Ðể xây Ðền Thờ mới, người ta đã mất khoảng 120 năm, tính từ đầu
thế kỷ 16, dưới sự điều khiển của 12 kiến trúc sư, trong đó có những người nổi
tiếng như Bramante, Michelangelo, Raffaello và Maderno. Cả Ðền Thờ cũ cũng như
Ðền Thờ mới đều được xây trên mộ của Thánh Phêrô tông đồ, được an táng trên
sườn đồi Vatican, trong khu vực nghĩa trang cạnh hí trường của Hoàng Ðế Nerone.
Mái vòm to lớn của Ðền Thờ Thánh Phêrô do Michelangelo vẽ kiểu nhìn xuống thành
Roma, trở thành điểm hội tụ lý tưởng nhắc nhớ ngôi mộ đơn sơ của Thánh Phêrô,
là Ðá Tảng trên đó Chúa Kitô đã xây dựng Giáo hội của Ngài.Hàng cột vòng do kiến trúc sư Bernini thiết kế giống vòng tay mở rộng như một dấu hiệu tiếp đón yêu thương, nhấn mạnh ý tưởng Mẹ Giáo hội, trong Chúa Kitô, trở thành một cộng đoàn các anh chị em, thuộc nhiều dân nước khác nhau.
1. Ðền Thờ Thánh Phêrô thời Hoàng Ðế Costantino ( phỏng theo tài liệu )
Ðức Anacleto, vị Giáo Hoàng thứ 3 của Giáo Hội, từ năm 77 đến 88, đã thiết lập một nhà nguyện nhỏ dâng kính Thánh Phêrô. Về sau, Hoàng Ðế Costantino cho thiết lập tại nơi đó ngôi thánh đường vĩ đại gồm 5 gian và tồn tại cho đến cuối thế kỷ 15.
Các văn sĩ thời đó kể lại: năm 324, Hoàng Ðế Costantino ngự xuống khu vực Vaticano với quân gia hùng hậu, và phủ phục trước mộ Thánh Phêrô, cởi bỏ hoàng bào, cầm chiếc xẻng lớn và chính ngài bắt đầu đào, xác định khu vực xây đại Vương Cung Thánh Ðường mới. Hoàng Ðế cũng đổ đầy và vác trên vai 12 giỏ đất như một cử chỉ tôn kính 12 Tông Ðồ. Con của ngài là Hoàng Ðế Costante đã được vinh dự hoàn tất công trình to lớn xây cất Ðền Thờ vào năm 349, sau 25 năm kiến thiết.
Các bức họa và hình khắc cổ kính cho thấy Ðền Thờ do Hoàng Ðế Costantino xây cất không khác lắm so với các Vương Cung Thánh Ðường Kitô khác ở Roma, xét về cơ cấu kiến trúc. Nhưng qua các thế kỷ, Thánh Ðường này càng trở nên phong phú nhờ sự quan tâm đặc biệt của các vị Giáo Hoàng cũng như của các ông hoàng Ý và nước ngoài.
Sự biến cải Ðền Thờ Thánh Phêrô diễn ra qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong 12 thế kỷ, Ðền Thờ này được trang điểm phong phú hơn với những bức tường được gắn cẩm thạch, các bàn thờ được tô điểm hơn, và các hậu cung Ðền Thờ được trang trí bằng những bức tranh khảm. Ðá cẩm thạch quí giá được gỡ từ các đền đài dinh thự ngoại giáo hoặc được đưa từ Ðông Phương về, các gỗ hương được cắt từ những rừng xứ Liban, kim loại bóng loáng, những cánh cửa đồng từ vùng Bizantine với vải vóc do các thương gia miền Venezia nhập cảng, các men từ các công xưởng miền Lomoge, kiếng từ vùng Renana, các bức thảm từ Thổ Nhỉ Kỳ, Arập Sicilia, vải vóc của Ý, Anh, Tây Ban Nha, các đèn và bình hương bằng vàng bạc, tất cả được dùng để trang trí cho Ðền Thờ, nhà dành cho Linh Mục, cũng như các nhà nguyện, bàn thờ và các tượng đài khác.
Các Hoàng Ðế và Vua Chúa đến Ðền Thờ Thánh Phêrô để được các Ðức Giáo Hoàng phong vương: Carlo Ðại Ðế là vị đầu tiên được Ðức Leo III (795-816) đội triều thiên tấn phong vào dịp lễ Giáng Sinh năm 800. Sau khi chào Hoàng Ðế với danh hiệu “Carlo Augusto Ðại Hoàng Ðế Thái Bình của dân Roma”, ÐGH dùng dầu thánh xức cho Hoàng Ðế và thắt gươm cho ông giữa tiếng reo vui mừng của người Pháp và Ý. Sau vị Ðại Ðế này, những người kế vị ông là Lotario và Ludovico II, và bao nhiêu vị khác cho đến Federico III đều được phong vương trước mộ Thánh Phêrô Tông Ðồ. Cũng như hòn đá ở Campidoglio (nay là Tòa Ðô Sảnh Roma), giữ gìn tinh hoa sống động nhất của tinh thần Roma trong thời Trung Cổ và Phục Hưng, tảng đá phủ thi hài Thánh Phêrô được coi là nơi cực thánh của thế giới Kitô giáo, được bao nhiêu tín hữu sùng mộ, hầu như hơn cả Thánh Mộ ở Giêrusalem.
2. Xây Ðền Thờ Thánh Phêrô mới
Vaticano chỉ là nơi các vị Giáo Hoàng cư ngụ từ năm 1377 và trước khi giáo triều được chuyển sang Avignon (1309-1377) miền nam nước Pháp, dinh của các vị Giáo Hoàng tọa lạc tại Laterano.
Trong 73 năm Ðức Giáo Hoàng ở Avignon, Ðền Thánh Phêrô bị bỏ hoang đến độ hầu như không thể trùng tu được. Thực vậy, sau một ngàn năm huy hoàng, Ðền Thánh Phêrô do Hoàng Ðế Costantino xây bắt đầu có những dấu hiệu tàn lụi, nhất là nơi các bức tường, đặc biệt là những tường phía nam. Những tường này được xây trên những gạch vụn của hí trường và các dinh thực cổ kính khác.
Vì thế, các vị Giáo Hoàng đã nảy ra ý tưởng xây lại hoàn toàn một Ðền Thờ mới. Nói đúng ra, không phải chỉ vì nhu cầu cần phòng ngừa nguy cơ Ðền Thờ cũ sụp đổ, nhưng còn vì tinh thần thời đó không nhận ra nơi Thánh Ðường cũ kỹ ấy sự huy hoàng vĩ đại như thời Phục Hưng đòi hỏi. Ðức Giáo Hoàng Nicolo V (1447-1455) là người đầu tiên đã đi tới quyết định tiến hành việc xây Ðền Thánh Phêrô mới, và ủy thác cho kiến trúc sư Bernardo Rossellino nhiệm vụ xúc tiến. Theo dự án của nhà kiến trúc này, Ðền Thờ mới có một cổng phía trước và có hình thánh giá Latinh, với một mái vòm lớn ở giữa và khu hậu cung có hình bán nguyệt.
Sau khi phá hủy một số phần của Ðền Thờ, người ta bắt đầu xây khu hậu cung Ðền Thờ mới. Nhưng Ðức Giáo Hoàng Nicolo qua đời vào tháng 3 năm 1455, nên công trình xây cất bị ngưng lại. Các vị kế nghiệp dường như từ bỏ ý tưởng xây Ðền Thờ mới, và chỉ nghĩ tới việc trang trí và phong phú hóa Ðền Thờ cũ. Mãi cho đến thời Ðức Giáo Hoàng Giulio II della Rovera (1503-1513) mới tiếp tục công trình bị bỏ dỡ dang, do ý muốn tìm một chỗ xứng đáng cho lăng tẩm của mình, và Michelangelo dã trình bày họa đồ cho ngài. Khi Michelangelo tới Ðền Thánh Phêrô xem nơi nào có thể đặt mộ của ÐGH Giulio II, ông thấy nơi thích hợp nhất chính là khu hậu cung mới do Ðức Nicolo V khởi công xây cất và ông khuyên Ðức Giáo Hoàng tiếp tục xây cất. ÐGH hỏi phí tổn sẽ là bao nhiêu, Michelangelo trả lời là 100 ngàn đồng vàng. Ðức Giulio đáp: “Hãy làm với 200 ngàn đồng”, và ngài sai hai kiến trúc sư San Gallo và Donato Bramante đi xem địa điểm, và ngài muốn xây lại Ðền Thờ hoàn toàn mới.
Khi Bramante nhận lệnh của ÐGH Giulio II (1503-1513) phá bỏ Ðền Thờ cũ để xây Ðền thờ mới, tức là Ðền Thánh Phêrô ngày nay. Dân Roma kinh ngạc theo dõi việc phá Ðền Thờ cũ và họ đặt tên cho ông Bramante là “Kiến trúc sư phá nhà”.
Trong những năm ấy, nhiều dự án nối tiếp nhau, cho đến khi Michelangelo lúc đó đã gần 70 tuổi, bắt đầu xây mái vòm. Sau khi Michelangelo qua đời (1564), 4 kiến trúc sư khác tiếp tục. Mặt tiền do Carlo Maderno làm xong năm 1614.
Ngày 18-11-1626, Ðức Giáo Hoàng Urbano VIII thánh hiến Ðền Thờ mới, nhân kỷ niệm 1300 năm thánh hiến Ðền Thờ do Hoàng Ðế Costantino thiết lập.
Về sau, kiến trúc sư Giuseppe Valadier đã thực hiện hai đồng hồ ở mặt tiền đền thờ vào năm 1822. Dưới đồng hồ bên trái có quả chuông chu vi 7.2 mét, nặng 9.3 tấn.
II. Vài Ðặc Tính Của Ðền Thờ
2. Trong Ðền Thờ có 46 bàn thờ, bàn thờ cuối cùng được Ðức Piô 9 (1846-1878) thánh hiến ngày 16-1-1856. Có 9 bàn thờ dâng kính Ðức Mẹ dưới nhiều tước hiệu khác nhau.
Tầng hầm đền thờ: nền tương ứng với nền nguyên thủy từ thời hoàng đế Costantino. Trong tầng hầm này có nhiều nhà nguyện chung quanh mộ thánh Phêrô, với những bàn thờ để các linh mục cử hành thánh lễ. Mộ của 147 trong tổng số 264 giáo hoàng cũng được đặt tại đây.
3. Cửa Thánh. Trong số 5 cửa vào Ðền Thờ, có một cửa chỉ được mở ra vào Năm Thánh. Cửa năm Thánh 2000 đã được ÐTC mở trong đêm vọng giáng sinh 24-12-1999. Cửa này được đóng lại vào ngày 6-1-2001.
4. Mái vòm Ðền Thờ có chu vi bên trong là 42.7 mét và chu vi bên ngoài là 58 mét, và cao 50.35 mét. Tính từ nền tới đỉnh cao nhất của mái vòm với thánh giá là 135.2 mét. Thánh giá trên đỉnh cao 4.87 mét và thanh ngang rộng 2.65 mét. Trọng lượng của mái vòm theo các nhà toán học Boscovich, Le-Leur và Lacquer, là 56,208,837.46 kílô.
Ngoài 2 cầu thang vòng mà các du khách leo lên mái vòm, còn có 9 cầu thang khác, 7 cái lớn và 2 cái nhỏ, mặc dù đi từ bên trong Ðền Thờ, nhưng đều dẫn tới cùng một đích điểm.
Bàn thờ chính của Ðền Thờ, được gọi là bàn Thờ Tuyên Xưng đức tin, được xây ngay bên trên mộ Thánh Phêrô theo lệnh của Ðức Clemente VIII (1592-1605). Bàn thờ có tán che và 4 cột vòng bằng đồng chống đỡ, do Bernini thực hiện. Tượng các thiên thần ở trên mỗi góc cao 3.5 mét. Tán che đền thờ được khánh thành ngày 29-6-1633.
Dưới bàn thờ này, có một bàn thờ khác của Ðức Giáo Hoàng Callisto II (1119-1124), và bên dưới đó, lại có một bàn thờ khác nữa của Ðức Gregorio Cả (590-604). Ði xuống sâu hơn, người ta gặp một khối hình vuông, bọc cẩm thạch trắng và đá vân đỏ. Ðó là đài do Hoàng Ðế Costantino thực hiện để kính nhớ Thánh Phêrô Tông Ðồ và có lẽ trong dịp lễ tưởng niệm chiến thắng của ông tại Cầu Milvio ngày 28-10-312.
5. Tượng thánh Phêrô bằng đồng, có từ thế kỷ 13, được tôn kính trong Ðền Thờ: chân phải của ngài bị mòn nhiều vì sự hôn kính của hàng triệu tín hữu qua dòng thời gian, kể từ khi Ðức Piô IX ban ân xá 50 ngày cho những ai hôn chân này sau khi đi xưng tội.
Theo một truyền thống cổ kính, ngày 29-6 mỗi năm, lễ thánh Phêrô, người ta mặc phẩm phục giáo hoàng cho tượng thánh Phêrô. Năm 1798-1799, lễ nghi mặc áo bị chính quyền cộng hòa cấm, tạo nên sự bất mãn rất lớn nơi dân Roma, vốn rất trung thành với truyền thống, khiến cho bộ trưởng tư pháp phải cho mặc áo, ngoại trừ chiếc mũ ba tầng.
6. Tượng Ðức Mẹ Sầu Bi (Pietà) – ở bên tay phải, khi mới bước vào Ðền Thờ -, bằng cẩm thạch trắng, diễn tả Mẹ Maria đang ẵm xác Chúa Giêsu từ trên thánh giá mới tháo xuống, do Michelangelo thực hiện năm 1500 khi mới 25 tuổi và là tác phẩm duy nhất mang chữ ký của ông. Tên ông được khắc vào vệt áo băng qua ngực Ðức Mẹ. Cho đến năm 1972, du khách có thể đến gần ngắm tượng, nhưng một người điên Hungari, quốc tịch Úc, đã leo qua rào dùng búa đập vào tượng nhiều lần trước khi bị cản lại. Mũi Ðức Mẹ bị đập vỡ. Người ta thu thập các mảnh vở và gắn lại. Hiện nay người ta đặt kính chắn đạn để bảo vệ kiệt tác nghệ thuật này, nhưng khách viếng thăm cũng khó chiêm ngưỡng pho tượng này hơn so với trước kia.
7. Trong số ngôi mộ của các nhân vật trong Ðền Thờ thánh Phêrô, có 3 phụ nữ là nữ bá tước Matilde di Canossa, hoàng hậu Cristina Thụy Ðiển, và Maria Clementina, hoàng hậu Anh Quốc. Hoàng Hậu Cristina thoái vị sau khi trở lại Công Giáo và được mời tới sống trong triều đình Giáo Hoàng và qua đời tại Roma năm 1689. Tượng trình bày cảnh bà chịu phép rửa lần thứ hai Innsbruck.
III. Mặt Tiền Ðền Thờ
Mặt tiền Ðền Thờ Thánh Phêrô được thực hiện trong vòng 8 năm trời với 700 công nhân và hoàn thành năm 1614.
Ðể chuẩn bị đón mừng Năm Thánh 2000, Ban Quản Ðốc Ðền Thánh Phêrô đã cho tu bổ toàn diện mặt tiền Ðền Thờ, lần đầu tiên kể từ khi được hoàn tất, không kể một lần thanh tẩy vào năm 1985 với kinh phí 2 triệu mỹ kim do Hội Hiệp Sĩ Colombo tài trợ. Lần thanh tẩy đó có nhiều thiếu sót vì dụng cụ không thích hợp.
Công trình thanh tẩy tu bổ toàn bộ được hoàn tất cuối tháng 9-1999 sau gần 2 năm rưỡi tiến hành, từ tháng 3-1997.
Trong giai đoạn đầu tiên, mấy chục chuyên viên đã sử dụng các dụng cụ tối tân để trắc nghiệm mặt tiền Ðền Thờ với phương pháp siêu âm, âm hưởng điện từ và kính hiển vi điện tử. Các kỷ thuật này từ lâu vẫn được ENI, Công ty dầu hỏa Ý, dùng trong lãnh vực dầu hỏa. Quang tuyến X được xử dụng để xác định cơ cấu phân tử của mặt tiền Ðền Thờ và những ô nhiễm. Tiếp đến, họ tẩy sạch lớp đá cẩm thạch trắng đã bị hoen ố, bụi bặm và khói xe bám vào với thời gian, bằng cách dùng các dụng cụ như máy xịt cát mịn, các vòi nước, hoặc các máy khoan nhỏ và máy cạo.
Việc thanh tẩy và tu bổ toàn diện là điều cần thiết vì không khí tại Roma bị ô nhiễm cao độ. Mặt tiền Ðền Thờ Thánh Phêrô được xây bằng lớp đá cẩm thạch có những lỗ li ti rất dễ bị thương tổn vì những lớp sương mù trộn với khói xe ở Roma. Thêm vào đó, mưa át-xít cùng với mốc meo ở trong những lỗ nhỏ trên lớp đá tiếp tục ăn mòn các cột, các góc cạnh và 13 pho tượng trên mặt tiền Ðền Thờ. Vì thế, chỉ trong vòng 10 năm sau khi thanh tẩy, mặt tiền Ðền Thờ cũng đã bị hư hại nhiều và cần được chỉnh trang toàn bộ và sâu rộng hơn.
Một lý do khác khiến cho các vị hữu trách quyết định tiến hành việc tu bổ, đó là một cơ hội tốt đẹp nhân dịp Ðại Năm Thánh 2000, và đặc biệt là có sự tài trợ của ENI, Công ty dầu hỏa Ý có chi nhánh tại 80 quốc gia. Công ty này ý thức trách nhiệm của mình vì đã sản xuất và buôn bán dầu hỏa, nên cũng đã góp phần gây nên nạn không khí ô nhiễm làm hư hại mặt tiền Ðền Thờ Thánh Phêrô, nên cũng cảm thấy có trách nhiệm phải góp phần sửa chữa thiệt hại bằng cách dành một phần tài nguyên kỹ thuật của mình cho công cuộc tu bổ này. Tổng số tài trợ lên tới 9 triệu mỹ kim.
IV. Quãng Trường Thánh Phêrô
Từ cây tháp bút ở giữa quảng trường tới mặt tiền Ðền Thờ có khoảng cách 191 mét, trong khi khoảng cách giữa hai tượng thánh Phêrô và Phaolô là 76.73 mét.
Trên mặt tiền Ðền Thờ, có các pho tượng cao 5.65 mét. Các tượng này nếu nhìn gần thì thấy rất là thô kệch và sơ sài. Nhưng chúng được tạc để nhìn từ xa.
V. Tháp Bút
Tháp bút ở giữa quảng trường Thánh Phêrô là một khối đá hình kim tự tháp bằng đá vân cương đỏ ở Ðông Phương, thoạt đầu được Caio Cornelio Gallo, tổng trấn Ai Cập, dựng lên để tôn vinh bản thân. Về sau được Eliopoli đưa về Roma theo ý muốn của hoàng đế Nerone, với mục đích tuyên dương hí trường do ông khởi xướng. Tháp bị đổ và bỏ rơi trong nhiều thế kỷ, cho đến khi được một vài vị Giáo Hoàng để ý tới (Nicolo V 1447-1455, Phaolô II 1464-1471, Phaolô III 1534-1549). Các vị muốn cây tháp này được đặt trước Ðền Thờ Thánh Phêrô, nhưng sự khó khăn trong việc di chuyển và dựng tháp khiến cho nhiều kiến trúc sư nản chí, mãi cho đến đời ÐGH Sisto V (1585-1590), dự án đó mới thành hình.
Tháp được khởi công di chuyển ngày 30-4-1585 và được dựng tại quảng trường ngày 10-9-1585. Công trình này đòi sự hợp lực của hơn 900 người, với 140 con vật và dùng 47 cần trục cùng với 5 đòn bẩy thật mạnh. Qui luật được ban hành trong công trình dựng tháp là các công nhân phải tuyệt đối giữ im lặng và chỉ được nhận lệnh từ kiến trúc sư Domenico Fontana mà thôi. Ngoài ra, dân chúng hiếu kỳ không được đến gần. Ðức Sisto V còn ra lệnh phạt tử hình những người vượt quá ranh giới, và gây tiếng ồn ào.
Theo một lưu truyền từ năm 1770, trong khi tiến hành công việc, thì những sợi dây thừng đỡ tháp bút bắt đầu giãn ra và có nguy cơ bị đứt. Tình trạng thật nguy hiểm. Một trong những người thợ là ông Bresca, vốn là một thủy thủ đã quen với các dây chão, ông ta hô lớn: “Hãy đổ nước vào các dây thừng”. Nhận thấy tình trạng nguy ngập, kiến trúc sư Domenico Fontana vội ra lệnh thi hành ngay lời khuyên đó, và tai nạn được tránh thoát.
Sau khi hoàn thành công việc dựng tháp, thủy thủ Bresca ấy đã được thưởng thay vì bị tử hình. Ông được triệu tới trước mặt ÐGH và ngài yêu cầu ông hãy xin một ơn. Ông Bresca đã xin cho mình và dòng dõi được đặc ân cung cấp lá dừa cho Tòa Thánh để làm lễ nghi Chúa Nhật Lễ Lá. Lời thỉnh cầu được chấp nhận và ngày nay gia tộc Bresca ở miền Liguria vẫn cung cấp lá dừa cho Vaticano.
Năm 1586, Ðức Sisto cho đặt trên tháp một cây thánh giá lớn bằng sắt, trong có chứa mảnh thánh giá thật của Chúa Giêsu. Ở bệ tháp có khắc chữ: “Ðây là thánh giá của Chúa. Các quyền lực đối nghịch hãy trốn chạy. Sư tử của chi tộc Giuda đã chiến thắng”. Ngoài ra còn có câu: “Chúa Kitô chiến thắng. Chúa Kitô hiển trị. Chúa Kitô thống trị. Chúa Kitô bảo vệ dân ngài khỏi mọi nghịch cảnh”.
Tổng cộng từ bệ lên tới đỉnh tháp bút cao 41.23 mét và nặng 312 tấn.
Hai bên có hai bể nước (fontaine) khổng lồ giống nhau, mỗi phút có 38,400 lít nước đổ vào. Vòi nước phun có thể lên cao 14 mét.
VI. Mộ Thánh Phêrô
Như đã nói trên, khu vực xây Ðền Thờ Thánh Phêrô trước kia là một nghĩa trang thời La Mã, và được khám phá trong thập niên 1930, được khai quật trong hai đợt: từ 1939 đến 1949, rồi từ 1953 đến 1958. Hai hàng nhà mồ với những hốc mộ được khám phá, với rất nhiều bích họa, tranh khảm, cùng với một khu vực với những ngôi mộ đơn sơ hơn.
Các cuộc khai quật dưới Bàn Thờ tuyên xưng Ðức Tin đưa tới sự khám phá mà Ðức Phaolô VI tuyên bố ngày 26-6-1968: “Hài cốt thánh Phêrô được nhận diện đến độ chúng tôi coi là có lý”.
Từ đó đến nay, công việc này vẫn được tiếp tục và đồng thời cũng được mở cho các du khách thăm viếng kể từ năm 1975. Nhưng trong những thập niên gần đây, nghĩa trang dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô đang bắt đầu có lỗ và bị lở. Theo các chuyên gia, một vấn đề lớn là sức nóng do hệ thống đèn điện cùng với sức nóng do cơ thể của 250 du khách mỗi ngày đến viếng thăm phát sinh ra. Sức nóng đó làm nảy sinh rêu và mốc từ tường của các ngôi mộ, đồng thời tạo nên các lỗ nhỏ, các nấm mốc, muối và dần dần làm hư hỏng các di tích lịch sử này. Thực tế là nhiều bức bích họa vẽ trên tường các ngôi mộ cổ dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô đã bị phai nhạt, cùng với các hàng chữ viết trên tường. Một số nhà mồ trước kia được mở cho du khách thăm viếng, nay bị đóng lại, vì bị hư hỏng. Một phần của nghĩa trang ở dưới mức sông Tevere gần đó, nên sự ẩm thấp là một vấn đề liên tục, nhất là ở khu vực phía đông của nghĩa trang.
Ðể góp phần tu bổ và cứu vãn mộ Thánh Phêrô cũng như các ngôi mộ khác, công ty điện lực của Ý, tên là ENEL, đã tình nguyện tài trợ dự án với phí tổn khoảng 1 triệu 700 ngàn mỹ kim. Trong những năm gần đây, Công ty ENEL đã góp phần tài trợ việc thiết lập các hệ thống đèn điện cho các đền đài công cộng và nhiều nhà thờ tại Ý. Những ngân khoản đó được rút tù số tiền lời do sự gia tăng tiêu thụ năng lượng điện ở nước này.
Dự án tu bổ Mộ Thánh Phêrô và cải tiến việc bảo trì nghĩa trang bên dưới Ðền Thờ kéo dài nhiều năm trời, và trong giai đoạn thứ nhất, cho tới tháng 11 năm 1999, có biện pháp giới hạn số người thăm viếng nghĩa trang dưới hầm Ðền Thờ Thánh Phêrô. Trong Năm Thánh 2000, việc viếng thăm đang được mở lại theo mức độ cũ, rồi sau đó, lại bị giới hạn. Hãng ENEL dùng những kỹ thuật tân kỳ nhất để thẩm định đầy đủ tất cả những vấn đề của nghĩa trang dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô, thiết lập thành hồ sơ. Tiếp đến các kỹ sư đề ra phương thức để giảm bớt tối đa sự thay đổi nhiệt độ trong khu vực này, và đồng thời kiến thiết một hệ thống đèn điện mới, cùng với hệ thống an ninh.
Cho đến nay, số người viếng thăm Nghĩa Trang bên dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô tương đối ít ỏi, và nhiều du khách không biết là có khu vực này. Ðể viếng thăm, cần phải giữ chỗ trước tại Văn Phòng khai quật của Vaticano, và có người hướng dẫn từng nhóm đi thăm.
Tuy số người viếng thăm ít ỏi, nhưng các chuyên viên công ty ENEL cho rằng 250 người mỗi ngày kể là quá nhiều. Họ đề nghị rằng trong tương lai, một hệ thống bằng máy điện toán các ngôi mộ trong nghĩa trang dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô sẽ được dùng để trình bày cho phần lớn các du khách, thay vì họ đích thân đi thăm các ngôi mộ như hiện nay.
Vào cuối công cuộc tu bổ, kinh nghiệm về các hoạt động này được trình bày trong 2 cuốn sách: một cuốn về mộ Thánh Phêrô được tu bổ và chiếu sáng, cuốn thứ hai về toàn bộ Nghĩa Trang Vaticano.
Cũng nên nhắc lại rằng, trong ngày kỷ niệm một năm lên ngôi Giáo Hoàng, 16-10-1979, chính Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho mở một cổng cao 2.5 mét rộng 2.3 mét để các tín hữu có thể bước vào mộ Thánh Phêrô dưới hầm Ðền Thờ.
Tóm lại, kính viếng Ðền Thờ Thánh Phêrô là một cuộc gặp gỡ với 2 ngàn năm lịch sử Giáo Hội. Qua bao nhiêu thăng trầm của Ðấng kế vị Thánh Phêrô không ngừng nâng đỡ đức tin của các anh chị em mình rải rác khắp nơi trên thế giới, trong các giáo hội địa phương.
Thực vậy, chính vì thánh Phêrô đã tới Roma và mộ ngài được lưu giữ tại đây sau khi chịu tử đạo, nên các tín hữu cũng đã tới hành hương nơi đây, và ÐGH người kế vị thánh Phêrô cũng ở gần mộ tiền nhiệm tiên khởi của ngài. Cả hai sự kiện có cùng một nguồn gốc. Ngoài ra, nơi xây Ðền Thờ không phải được chọn một cách tuỳ ý, nhưng chủ ý được xây trên mộ của Thánh nhân, và điểm hội tụ của Thánh Ðường này chính là nơi được gọi là “Bàn Thờ tuyên xưng đức tin”, ngay trên mộ của Thánh Phêrô.
Ngày 4 tháng 7 năm 1979, khi mừng lễ thánh Phêrô và Phaolô lần đầu tiên ở Roma, ÐTC Gioan Phaolô II nói rằng: “Tại đây, trung tâm của chính Giáo Hội, mầu nhiệm của ơn gọi đặc biệt này đã dẫn thánh Phêrô từ hồ Genezareth đến Roma, và cũng dẫn theo Phaolô thành Tarsa, theo vết của Thánh Phêrô, mầu nhiệm ấy mạnh mẽ nói với chúng ta về thực tại lịch sử của ngài… Tất cả chúng ta đang sống trong cơn lốc của nền văn minh hiện đại, trong sự lo âu của đời sống tân tiến, chúng ta phải dừng lại đây và suy niệm về thể thức phát sinh Giáo Hội này, một Giáo Hội do ý Chúa, đã trở thành trung tâm và “thủ đô” của một sứ mạng rất cao cả: Giáo Hội mà tất cả các Giáo Hội khác đến đây hành hương, tìm thấy trong đó nền tảng sự hiệp nhất của mình… Sự kế nhiệm trên ngai tòa Giám Mục này có một ý nghĩa, không những đối với Giáo Hội địa phương ở Roma này, nhưng cho cả Giáo Hội hoàn vũ nữa, nghĩa là mỗi Giáo Hội địa phương đều thuộc về cộng đồng hoàn vũ. Tất cả điều đó có một ý nghĩa rõ ràng, thực vậy, chính Chúa Kitô đã ban cho Thánh Phêrô quyền cởi mở và đóng lại”.
Ngày thứ 13 ( thứ
3 22/10)
Viếng Thánh Đường Gioan Laterano . Thánh đường nầy là thánh đường cổ nhất
trong lịch sử công giáo La Mã. Là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma. Giáo
hoàng cũng là giám mục của Roma được phong chức tại đây. Khởi công xây dựng từ
năm 311. Thời xưa ĐGH đã cư ngụ nơi đây từ thế kỷ thứ IV đến Thế kỷ thứ XIV mới
đời về Vatican như hiện nay. Đàng sau dinh thự và giữa trung tâm quảng trường
Laterano là cột tháp hoa cương bằng đá cẩm thạch cao nhất thành Rome, hai bên là tượng 12 thánh
tông đồ cao gần 5 mét. Quan trọng nhất là bàn
thờ dành riêng cho ĐGH dâng thánh lễ,phía trái cung thánh là Tương Mẹ sầu
bi bằng đá cẩm thạch montanti. Bên kia đường là
Thang thánh ( Holy Stairs) theo truyền thuyêt thang có 28 nấc, bằng đá rộng
4 mét. Thang nầy do thánh nữ Helena đã
tìm thấy trong cuộc khai quât vào thế kỷ thứ IV những bậc thang nầy trong dinh
Philato nơi Chúa GieSu đi lên nhiều lần để nghe phán xét . Thang nầy được mang
về bọc gỗ và thiết trí nơi đây nếu ai quỳ leo lên và hôn vào dấu thánh giá ở
nơi bậc cuối sẽ được tha tội. Đa số anh chị em trong đoàn đều leo lên thang nầy
mặc dầu rất khó nhọc. Leo hết 28 bực thang
là vào nhà nguyện Holy of Holies xưa kia là nhà nguyện của ĐGH.
Cùng ngày đến viếng Vương cung thánh đường ĐỨC BÀ CẢ đây
là thánh đường đầu tiên dâng kính Đức Mẹ với những đường nét kiến trúc thời phục
hưng đã được trùng tu vào năm thánh năm
2000. Cột tháp hoa cương trước sân cao 16 mét xây vào thời ĐGH Phaolo V. Trên đỉnh
tháp là Tượng Đức Mẹ bằng đồng. Cột tháp phía sau cao 20 mét xây vào thời ĐGH
Sixtus V. Đền có 42 hàng cột cẩm thạch, trên trần chạy từ cửa đến cung thánh được
lát bằng vàng thật sáng lóng lánh, hai bên là 43 hoa,5 phẩm Mosaic diễn tả sự
tích trong cựu ước và cuộc đời Chúa Kyto. Bàn thờ chính được thiết kế ngay trên
hầm mộ nơi có đặt thánh tích Máng cỏ Chúa Hài đồng do thánh nữ Helena mang từ đất
thánh sang Roma. Đặc biệt hôm nay cha sở dâng thánh lễ nơi nguyện đường bên phải
dành cho các cặp hôn nhân trong phái đoàn tái tuyên hứa có tất cả 10 đôi uyên ương dẫu tóc đã hai màu
nhưng vẫn một lòng yêu thương và tôn trọng suốt đời. Sau Thánh lễ cha sở tặng mỗi
đôi quà kỷ niệm của ngài và cha con chụp
hình lưu niệm trước bàn thờ . Tiếp tục cuộc hành trình là viếng thánh đường Thánh Phaolo ngoại thành (
BasilicaOf Saint Paul ouside the walls)xây trên ngôi mộ thánh Phaolo, trong một
nửa thế kỷ lại đây người ta đã đào thấy
bia mộ của thánh Phaolo. Thánh đường có 80 cột bằng đá cẩm thạch đường kính 1
mét , nhà thờ mở cửa lại năm 1840 sau trận rủi ro hỏa hoạn. Nơi đặt di ảnh của
266 vị giáo hoàng kể từ thánh Phero. Bên trong nhà thờ gồm 4 gian hình thánh
giá Ai Cập rộng 55m dài 132m và cao 30m.
Trên có hình Chúa Giesu dang tay ban phép lành. Trước khải hoàn môn là hai tượng Phhero và Phaolo. Bên cạnh
nhà nguyện là thi hài các thánh. Thánh Phaolo là vị thánh ngoại đao vã trở lại.
Ngài đã thực hiện 4 cuộc truyền giáo từ Jesusalem đến Roma và bị chém đầu vào
năm 67. Bên cạnh bàn thờ là cửa Thánh ( holy door) Cửa nầy chỉ mở vào các năm thán,DGH J.Paul II mở vào năm 2000.
Ngày thứ 14( Thứ Tư 23/10) Tham dự Papa Audience
Hằng tuần vào Thứ Tư thì Đức Thánh Cha xuất hiện
trước quảng trường Thánh Phêrô để ban phép lành Tòa Thánh cho giáo dân khắp nơi
tụ về . Có gần 100 ngàn người từ mọi quốc gia - Quảng trường không còn chổ chứa
phải kéo dài ra ngoài đường phố thuộc Roma. Để lấy được chỗ đứng gần hành lang
ĐGH đi chúng tôi phải thức đậy trước 4:15 nhận khẩu phần sáng mang theo và 5:00
đã có mặt sắp hàng tại Quảng Trường. 10 giò Đức thánh cha mới xuất hiện ngài
dùng xe đi theo các lối đi sắp sẵn trong quảng trường để chào mừng giáo dân. Có
cả trăm phái đoàn trong được giới thiệu
bằng bốn ngôn ngữ La tin- Pháp- Anh và Tây Ban Nha. Trong bài giảng Đức Thánh
cha nhắc lại vai trò của Mẹ Maria trong giáo hội và gia đình. Sau đó ngài ban
phép lành tòa thánh .
Đoàn nghỉ và dùng bửa trưa tại khung viên Quảng
trường và sau đó đi thăm viếng các nơi trong thành phố. Chiếc xe bus chạy từ từ
qua nhiều dãy phố và chạy quanh Sân đấu
súc vật, cổ thành mặc dầu đã qua bao lớp phế hưng nhưng còn giữ nguyên nét kiến
trúc thời La Mã triều đại Constentinal.và sau đó thăm hồ Trevi ngoài thành . Hồ
nầy lấy nước từ Giếng phun Trevi từ Vatican chảy ra. Nước trong lành có thể uống
nếu ai ném một đồng tiền ken xuống hồ thì sẽ may mắn sẽ đến với mình nhất là ai
có ước nguyện về tình yêu thì sẽ như ý . Trong đoàn đa số là người có tuổi nên
rất ít người làm việc nầy. Tiếp đến viếng nhà thờ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội
ngoài Vatican. Ngôi thánh đường nằm trên một ngọn đồi cao phải nhiều tam cấp,
đoàn phải dùng thang máy để lên . Nơi
nào đoàn đến ngoài tham quan đều để lại lời cầu nguyện cho Cộng đoàn
giáo xứ, cho giáo hội, cho quê hương và cho gia đình. Sau cùng về dâng thánh lễ
tạ ơn tại Thánh đường thánh Phero xiềng xích. . Ngôi thánh đường rộng lớn với
tượng Thánh Phero bị xiềng tay chân . Đây là bức hình trước khi ngài chịu nạn ,
người bị treo ngược trên thánh giá vì ngài không dám cho mình ngang hàng với
chúa khi chịu nạn. Trong bài giảng cha sở cảm tạ Thiên chúa qua 14 ngày hành
hương gặp nhiều may mắn về thời tiết cũng như mọi việc đều được viên mãn. Trong
lời nguyện giáo dân : mỗi người được tự do dâng lời cầu xin của riêng mình với
tôi không gì hơn trong tháng Mân côi hành hương qua bao nhiêu linh địa cảm thấy
mình quá nhỏ bé, quá ích kỷ chỉ sống cho bản thân và gia đình nhiều hơn, sợ
chúa hơn là kính mến Chúa , sợ mất nước Thiên đàng hơn là chia xẻ với tha nhân
. Xin chúa và mẹ Maria mở lòng mở trí con để con được đem lòng mến chúa hơn và
xin tình yêu ngài đồng hành trong sinh hoạt đời thường của con và con cauu62
xin Chúa giảm cơn thịnh nộ ban cho quê hương và giáo hội Việt Nam thoát ách thống
trị Cộng sản vô thần. Tạ ơn là bữa cơm tối do Holy tour khoản đãi Tại một
nhà hàng Thái với các món Á châu thật thịnh
soạn , một bữa ăn ngon trong suốt cuộc hành trình.
Ngày thứ 15 ( thứ Năm 24/10)
Suốt buổi tối ai cũng náo nức , có kẻ không
ngủ lo sắp xếp quà biếu, kiểm tra hành lý hơn nữa là nỗi nhớ nhà, nhớ người
thân..5 giờ đánh thức và nhận phần ăn sáng lên xe Bus ra phi trường cho kịp
chuyến bay từ Rome bay sang Amsterdam Thủ đô Hòa Lan quê hương
xứ ngàn hoa Tulip và tự hào về “:cối xay gió” Chúng tôi chờ nơi đây đổi
máy bay
Chuyến Delta 233 đưa doàn về Seatac lúc 10:30 . Trong 10
giờ bay tôi có dịp xem lại các hình ảnh do Diệu Review qua máy điện toán của
anh.
Tạ ơn Chúa ! Cảm
ơn Cha linh hướng xin Chuá ban nhiều hồng ân cho ngài, Soeur Theresse và Thầy 6
những người đã chịu nhiều khó nhọc trong chuyến hành hương nầy
Amsterdam- Hà Lan23/10/2014
No comments:
Post a Comment