Saturday, September 26, 2015

KHÁCH SẠN BAY





Khách sạn Hotelicopter trong hình là chiếc máy bay MI-12, loại trực thăng lớn nhất thế giới. Phải mất 5 năm công ty SBCC mới hoàn thành công trình độc đáo này.

 



Hotelicopter có 18 phòng, trong đó có cả máy pha café, kết nối Internet và những chiếc giường lớn.

 



Khách sạn ‘bay’ có cả khu spa, lớp học yoga, các trò chơi và một khu vườn nhỏ.

 



Khách sạn máy bay này dài 42m và cao 14m.

 



Hotelicopter dự định tiến hành các chuyến du ngoạn dài từ 14 đến 16 ngày từ thành phố này sang thành phố khác. Chuyến bay quanh châu Âu sẽ bắt đầu ở London qua Dublin, Paris, Barcelona, Rome, Frankfurt và Copenhagen rồi trở lại thủ đô nước Anh.

 



Khách sạn sẽ tiến hành chuyến bay đầu tiên vào 26/6 tới.

 

 


The Hotelicopter chính là mô hình khách sạn bay đầu tiên trên thế giới. Nó cũng là chiếc may bay lên thẳng lớn nhất từng được sản xuất từ trước đến nay.




The Hotelicopter có 18 căn phòng sang trọng độc nhất vô nhị sẽ mang đến cho mọi người những kinh nghiệm du lịch nhớ đời.




Mỗi căn phòng được trang bị trang bị một chiếc giường với ga, gối trắng muốt bằng vải lanh nguyên chất, một quán bar nhỏ, máy pha café, hệ thống kết nối internet wireless… Tất cả trang thiết bị trong căn phòng sẽ khiến bạn được hưởng thụ những giờ phút nghỉ ngơi trong một khách sạn bay 5 sao.




Công tác phục vụ phòng được tiến hành một giờ trước và sau khi máy bay hạ cánh. The Hotelicopter sẽ thực hiện hành trình bay đầu tiên vào mùa hè này, ngày 26/6 với mức giá hiện vẫn được bí mật.

Hotelicopter là một mô hình của chiếc máy bay lên thẳng Soviet Mil V-12 cũ.



Một số hình ảnh độc đáo từ khách sạn bay:

 

 


Bề ngoài nó là một chiếc máy bay lên thẳng

 



Được trang bị rất kĩ trước khi cất cánh

 

 




Những phòng ốc sang trọng bên trong thực sự gây bất ngờ

 

 





KHÔNG ẢNH

Do Nhóm AirPano thực hiện

Quận Westerdok , Amsterdam, Hà Lan

aerial-photography-air-pano-26

Nhà Thờ Saint Basil’s , Moscow, Nga

aerial-photography-air-pano-14

Công viên Central Park, New York, Mỹ

aerial-photography-air-pano-27

Thác Iguasu , Argentina và Brazil

aerial-photography-air-pano-11
aerial-photography-air-pano-12

Vịnh Dubai ,Tiểu vương quốc các nước Ả Rập Thống Nhất


aerial-photography-air-pano-4

Thác nước Churun-meru , Venezuela


aerial-photography-air-pano-17

aerial-photography-air-pano-1

Barcelona, Tây Ban Nha


aerial-photography-air-pano-15

aerial-photography-air-pano-2

Vịnh Hạ Long, Việt Nam


aerial-photography-air-pano-5

Khải Hoàn Môn, Paris, Pháp


aerial-photography-air-pano-10

Santorini (Thira), Oia, Hy Lạp


aerial-photography-air-pano-24

aerial-photography-air-pano-23

Flamingo, Hồ Bogoria,  Kenya


aerial-photography-air-pano-19

aerial-photography-air-pano-18

Đầm băng Jokulsarlon , Iceland


aerial-photography-air-pano-6

Hồ Powell, Utah-Arizona, Mỹ


aerial-photography-air-pano-9

Hồ Baikal, Nga



aerial-photography-air-pano-7

Đàn cừu ở cánh đồng thung lũng Tuscan
Marcin Sobas
Marcin Sobas
Marcin Sobas
Marcin Sobas
Marcin Sobas
field-landscape-photography-only-sheep-marcin-sobas-tuscan-2
Marcin Sobas
field-landscape-photography-only-sheep-marcin-sobas-tuscan-4
Marcin Sobas
field-landscape-photography-only-sheep-marcin-sobas-tuscan-3
Marcin Sobas
Marcin Sobas
Marcin Sobas
Marcin Sobas

3 CÁI SÀNG

Lời đồn đại còn đáng sợ hơn dao kiếm, nó có thể làm sát thương người khác một cách vô hình. Người đồn đại những tin đồn không có thật chẳng khác nào đang vui vẻ trên nỗi thống khổ của người khác. (Ảnh minh họa - nguồn: internet)
Lời đồn đại còn đáng sợ hơn dao kiếm, nó có thể làm sát thương người khác một cách vô hình. Người đồn đại những tin đồn không có thật chẳng khác nào đang vui vẻ trên nỗi thống khổ của người khác.

Có một lần, một người bạn của Socrates vội vàng chạy tới tìm anh ta, cậu bạn này vừa thở vừa cao hứng nói: “Mình nói với cậu chuyện này, đảm bảo là ngoài sức tưởng tượng của cậu.”
“Chờ chút!” Socrates vội vã ngăn cậu ta lại và nói: “Những lời mà cậu định nói với mình, cậu đã dùng ba “cái sàng’ để lọc qua chưa?’
Anh bạn của Socrates với vẻ mặt không hiểu, lặng im và lắc đầu.
Socrates nói: “Lúc mà cậu muốn nói cho người khác một việc gì đó, ít nhất cũng nên dùng ba “cái sàng” lọc qua một lượt. Cái thứ nhất gọi là chân thật, cậu phải xem xem chuyện mà cậu muốn nói cho người khác có đúng sự thật không?”
Anh bạn tiếp lời: “Mình là nghe được trên đường đi tới đây, mọi người đều nói như vậy chứ mình cũng không biết là có đúng sự thật không.”
Socrates lại nói tiếp: “Vậy thì nên dùng “cái sàng” thứ hai của cậu để kiểm tra đi, nếu như nó không phải là sự thật, thì ít nhất cũng là có thiện ý chứ? Chuyện mà cậu muốn kể với mình có phải là có thiện ý không?”
Anh bạn nghĩ nghĩ một chút rồi nói: “Không có, thậm chí còn ngược lại nữa”, người bạn này nói xong dường như anh ta cảm thấy chút xấu hổ liền cúi mặt xuống đất.
Socrates không ngần ngại mà nói tiếp: “Vậy thì chúng ta lại dùng cái sàng thứ ba xem thử xem, việc mà cậu vội vã để nói cho mình biết có phải là việc quan trọng không?’
“Cũng không phải là quan trọng!”
“Một việc không quan trọng mà lại không xuất ra từ thiện ý, hơn nữa cậu còn không biết có phải là sự thật không, thế thì cậu cần gì phải nói ra? Nói ra cũng chỉ tạo thành phức tạp cho hai người chúng ta mà thôi.”
Socrates cũng từng nói: “Đừng nghe và tin vào lời nói của những người bàn luận thị phi hay là người gièm pha, phỉ báng. Bởi vì lời mà họ nói cho bạn không phải là xuất từ thiện ý, họ đã vạch trần việc riêng tư của người khác thì đương nhiên cũng sẽ làm như vậy với bạn.”
Vì vậy, mọi người trước khi muốn nói ra một chuyện gì đó hãy dùng ba cái sàng để lọc một lượt, không làm người đầu tiên đưa đẩy thị phi thì đương nhiên cũng đừng để bị người khác lợi dụng làm người truyền bá thị phi.Lời đồn đại còn đáng sợ hơn dao kiếm, nó có thể làm sát thương người khác một cách vô hình. Người đồn đại những tin đồn không có thật chẳng khác nào đang vui vẻ trên nỗi thống khổ của người khác. Nói chuyện sẽ phản ánh trí tuệ của một người, trong cuộc sống hàng ngày chúng ta hãy thận trọng từ lời nói đến việc làm nhé!

CON NGƯỜI THẬT CỦA PHẠM DUY

Bác sĩ Nguyễn Văn Bảo

Lời nói đầu:
Nghĩa tử là nghĩa tận. Trước một “nhân vật của quần chúng” (public figure) vừa nằm xuống, giữ im lặng là thái độ nghiêm chỉnh nhất. Nhưng sự ra đi của Phạm Duy là một ngoại lệ. Nhiều người khen qúa độ. Nhiều người chê qúa lời. Nhiều người muốn khen, chê đúng mức mà không lên tiếng vì e ngại phản ứng của cả đôi bên. Đài BBC cũng tường thuật rất tỉ mỉ về đám tang của ông.

Hãy thử tìm con người đích thực của PD qua tác phẩm, hành động và lời nói của ông để biết nguyên do của cái dư luận ồn ào sau tin ông qua đời.


A/ NHỮNG LÝ DO KHIẾN PD ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI NHẮC TỚI

1/ Ông là một nhạc sĩ được ngưỡng mộ bởi hàng triệu người Việt từ thế hệ trẻ tới thế hệ gìa, từ giới bình dân tới giới trí thức, từ thời chiến tới thời bình, từ chủ nghĩa Cộng Sản tới chủ nghĩa Tự Do, từ chính quyền độc tài tới chính quyền dân chủ, từ trong nước tới hải ngoại.

2/ Cảm tình của quần chúng đối với ông rất phức tạp. Nhiều người khen. Nhiều người chê. Nhiều người vừa khen vừa chê. Nhiều người trước khen nay chê. Nhiều người trước chê nay khen.

Phe Việt Cộng, sau nửa thế kỷ căm thù ông, nay mua chuộc ông để làm mồi cho chiêu bài “Hòa Giải Dân Tộc”.

Phe Tự Do, qua nửa thế kỷ quý mến ông, nay ruồng bỏ ông vì nghĩ rằng ông bị kẻ thù mua chuộc.

Những biểu lộ ấy (khen-chê, yêu-ghét, mua chuộc-ruồng bỏ) rất thường tình. Thiên hạ không ngẫu nhiên (mà có lý do thầm kín) gán ghép cho ông. Ông cũng không cố ý gây ra. Lối phát ngôn vụng về và nếp sống buông thả của ông đóng một vai trò quan trọng trong sự phán xét của họ.

3/ Những tác phẩm của ông, từ dân ca, tình ca, quân ca, đạo ca, nhi ca v. v.. đều có gíá trị độc đáo: mang âm giai ngũ cung hài hòa của dân tộc và lời ca truyền cảm của ca dao.

4/ Nhạc phổ thơ của ông là một tuyệt kỷ. Giới truyền thông đã liệt ông vào hàng “phù thủy” của loại nhạc này. Dù phổ nguyên văn bài thơ (như Ngậm Ngùi của Huy Cận..) hoặc chỉ lấy ý thơ (như Tiếng Sáo Thiên Thai của Thế Lữ..) ông cũng làm cho thơ tăng thêm gía trị.

5/ Đời tư của ông có một vài tì vết. Ông sống buông thả theo thú vui xác thịt, bất chấp hậu quả (vụ Khánh Ngọc và Julie Quang) khiến những người đạo đức khinh bỉ và những người đối lập khai thác.

6/ Lòng yêu dân, yêu quê, yêu nước trong những tác phẩm của ông rất hiển hiện. Một người có tình yêu giả tạo không thể nào làm được những bài Tình Ca, Tình Hoài Hương, Quê nghèo, Về Miền Trung, Bà Mẹ Gio Linh, Nhớ Người Thương Binh, Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê, Ngày Trờ Về, Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam, v.v…

B/ KIỂM ĐIỂM NHỮNG LỜI KHEN

Hầu hết những người khen đều công nhận rằng ông là một “đại thụ” của nền tân nhạc Việt và là một nhạc sĩ có thiên tài, có lòng yêu dân, yêu quê, yêu nước chân thành. Có người đã tặng ông những đức tính mà thực sự ông không có (như khiêm nhượng, cao siêu). Thậm chí, có người còn vinh danh ông là chiến sĩ chống Cộng hoặc  nhà tư tưởng thâm thúy. Những nhận xét như vậy chỉ đúng nửa vời:

1/ Quả thực ông là một đại thụ của nền tân nhạc Việt. Nhưng đại thụ ấy có tỳ vết: ông đã 2 lần vi phạm luân lý Việt (vụ Khánh Ngọc và Julie Quang).

2/ Ông không khiêm nhượng mà còn háo danh. Một thí dụ: Trong cuốn video Paris By Night 19, ông trả lời ký giả Lê Văn của đài BBC: “Tôi muốn hậu thế nhắc đến tôi như một người Việt Nam”. Khiêm nhượng thay câu trả lời! Nhưng cũng trong cuốn video ấy ông nói: “Tôi sẽ làm trường ca Hàn Mặc Tử bởi vì tôi đã có 10 bài Đạo Ca cho Phật giáo thì tôi cũng phải có một bài cho Công giáo mới công bằng”. Thế ra ông là người ban phát ân huệ cho 2 tôn giáo này! Nét háo danh đã lộ liễu trong lời nói vụng về ấy.

3/ Ông không phải là một chiến sĩ chống Cộng mà chỉ là một nhạc sĩ muốn được sinh hoạt văn nghệ mà không bị chỉ đạo bởi chính quyền. Ông bỏ Kháng Chiến về Thành không phải vì muốn xả thân cho lý tưởng chống Cộng mà vì muốn gia đình được sống thoải mái trong chính thể Dân Chủ và bản thân được tự do sáng tác theo tiếng nói của con tim.

Ông đã hưởng trọn vẹn ân huệ của những người đã hy sinh để bảo vệ chế độ dân chủ tự do cho gia đình ông sống yên vui. Bù lại, ông đã đền đáp công ơn của họ bằng vài trăm bài ca bất hủ xưng tụng những thứ cao đẹp mà họ trân qúy. Tuy ông không hy sinh xương máu cho chính nghĩa tự do nhưng ông đã góp phần không ít vào việc tô điểm nó. Tuy ông có nhiều điểm đáng khen nhưng không nên tặng ông cái vinh dự mà ông không xứng (chiến sĩ chống Cộng).

4/ Ông không phải là một nhân vật thâm thúy. Suốt đời, ông chưa nói được một câu nào xứng đáng cho danh hiệu ấy. Một bài nhạc của ông có câu: “Đừng cho không gian đụng thời gian”. Ông mượn ý đó trong thuyết Tương Đối của Albert Einstein (Einstein cho rằng chỉ có không gian, không có thời gian vì thời gian chỉ là phương tiện để đo lường không gian; thí dụ: hai thiên hà cách xa nhau một tỷ năm ánh sáng). Có người đã xin ông giải thích câu đó nhưng ông chỉ trả lời loanh quanh, vô nghĩa, chứng tỏ ông đã không hiểu ông muốn nói gì.

Thật là khôi hài khi một anh chàng văn sĩ VC nói câu này trong đám tang của ông: “Nhạc PD còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”. Hắn nhái câu thậm xưng của Phạm Quỳnh trong thập niên 1930: “Chuyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”.

(Cũng nên mở một dấu ngoặc ở đây để nói rằng đừng vì một câu của một lãnh tụ CS ca ngợi ông mà chụp cái mũ “thân Cộng” cho ông).

C/ KIỂM ĐIỂM NHỮNG LỜI CHÊ

Những lời chê ông nở rộ trong 2 thời kỳ:

1/ Thời kỳ thứ nhất từ năm 1950 tới 2005:

Khi ông bỏ Kháng Chiến về Thành, VC đã chê ông là phản động.

Ông đã không phản động mà chỉ phản Cộng.

Phản Cộng vì Cộng không thể cung cấp những nhu cầu căn bản (cơm ăn, áo mặc) cho gia đình ông và không cho phép ông phục vụ văn nghệ theo sở trường mà còn buộc ông phải khai tử một bài hát vô tội (innocent): bài Bên Cầu Biên Giới. Giản dị thế thôi !

2/ Thời kỳ thứ hai từ 2005 cho tới nay:

Khi ông quyết định trở về VN để sống nốt tuổi gìa, một số nạn nhân bị CS đày đọa đã chê ông là phản bội những anh hùng chống Cộng.

Công bằng mà xét thì ông không phản bội ai cả. Lý do ông trở về quê bây giờ cũng giản dị như lý do ông về Thành thuở xưa.

Ở Hoa Kỳ, các con của ông không có nghề ngỗng gì ngoài nghề ca hát mà nghề này thì không cung ứng đủ những nhu cầu vật chất cho chúng. Cộng đồng người Mỹ gốc Việt không bao bọc nổi vài trăm ca nhạc sĩ Việt. Những người lớn tuổi, đã về hưu, gắng gượng mới có tiền dự những buổi đại nhạc hội được tổ chức xuân thu nhị kỳ vì giới trẻ trung thì thích nhạc Mỹ do nó phong phú hơn, sống động hơn, giật gân hơn, hợp nhĩ hơn. Bản quyền sáng tác nhạc không được tôn trọng. Đĩa nhạc được sao chép và bán rẻ rúng công khai trong mọi tiệm nhạc. Sống nhờ trợ cấp xã hội thì không cam lòng. Chìa tay nhận 2000$ để phổ nhạc vài bài thơ “con cóc” của “vô thượng thiền sư” Thanh Hải thì tủi thân cho một nhạc sĩ tài danh như ông.

Giữa lúc nghèo túng thì cơ hội chợt tới: một khế ước trị giá 400 ngàn đô-la trong 4 năm để sưu tầm, hòa âm, trình diễn tất cả những bài ca do ông sáng tác tại VN từ 1945 tới 1975. Khế ước đó không buộc ông phải hòa âm những bản nhạc của VC hoặc sáng tác những bài ca mới cho VC. Thính giả của ông sẽ chỉ là những người thích nghe nhạc Phạm Duy bất kể chính kiến. Có thể ông đã biết một cái bẫy vô hình ẩn sau khế ước đó: sách lược “Hòa Giải Dân Tộc” của VC đang ở cao điểm trong thời gian này. Một người có “khí tiết” ắt không chấp thuận. Nhưng Phạm Duy không phải hạng người có khí tiết. Ông không thích sống “gương mẫu” mà thích sống thoải mái, buông thả, sung túc như thường tình.

Thế là ông đưa gia đình về quê hương sống ung dung trong 8 năm cho tới khi ông từ trần. Ông rất thích câu của ai đó nói rằng: “Về đi thôi! Kiếp sau biết có hay không?”. Tính tình của ông khác đời ở chỗ: rất thích thú khi được khen và rất ít phiền hà khi bị chửi.

Trong 8 năm ấy ông đã gặp đủ hạng người, trong mọi lứa tuổi: ca nhạc sĩ đã quen hoặc chưa quen, thính giả yêu nhạc của ông dù đã biết hoặc chưa hề biết tên ông, lãnh tụ CS kể cả những người đã từng cấm hát nhạc của ông như Võ Văn Kiệt, Tố Hữu và Trần Bạch Đằng, người đã tuyên bố một câu vô liêm sỉ năm 1989: “PD hãy tự sát đi, chúng tôi sẽ cho phổ biến nhạc của ông ta”. Dĩ nhiên ông không thể từ chối gặp mặt những lãnh tụ CS đã mở đường cho ông trở về. Cũng không đáng phàn nàn nếu ông muốn gặp một vài lãnh tụ CS đã chơi thân với ông trong thời kháng chiến chống Pháp. Ông rất dễ tính và vô tư trong việc gặp bạn cũ, chuyện làm quà chỉ là chuyện tếu hoặc kỷ niệm xưa, không bàn về chính trị. Chả có gì đáng trách cho những cuộc gặp gỡ lấy lệ hoặc xã giao như vậy.

Có một điểm son đáng ghi nhận: ông không hề bợ đỡ một lãnh tụ CS nào và cũng không hề nói xúc phạm tới bất cứ ai của chính thể VNCH trong suốt thời gian 8 năm ấy (cựu phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đã phạm lỗi này).

Tôi muốn tóm tắt thái độ của Phạm Duy trong một câu sơ sài: Khi sáng tác thì tận tình, khi vui chơi thì tận hưởng, khi nói năng thì thì tận tục. Duyên Anh đã thuật lại rằng PD, trong lúc đùa rỡn với bạn bè, đã nói trong hơi men: “Ai ngu mới thích nghe nhạc của tôi. Chúng đã được làm trong cầu tiêu”. Có lẽ ông đã làm những bài Tục Ca trong cầu tiêu.

D/ KẾT LUẬN:

Nhạc sĩ tài danh Phạm Duy là một người đáng thương hại nhiều hơn là đáng trách cứ. Cuộc đời của ông trôi nổi qua nhiều vinh nhục, thăng trầm. Ông thích sống buông thả và chỉ có một tham vọng tích cực (productive): sáng tác những bản nhạc có giá trị.

Lối phát ngôn của ông thuộc loại Tú Xương (“Một thày, một cô một chó cái” hoặc “Cao lâu thường ăn quịt, thổ đĩ lại chơi lường”). Từ 50 năm nay, chả có ai coi ông như một “quý nhân”. Họ mến ông vì ông đã cống hiến cho họ nhiều bài ca bất hủ, và đi chung với họ trên một đoạn đường dài nhất của cuôc đời để cùng nhau “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”.

Ông chưa bao giờ là công cụ của CS. Trong 5 năm theo Kháng Chiến chống Pháp, ông chưa hề làm một khúc ca xưng tụng một lãnh tụ CS nào mà chỉ xưng tụng những anh hùng, liệt sĩ chống ngoại xâm. Tới khi cáo hồ ló đuôi thì ông bỏ chúng về Thành.

Ông cũng chưa bao giờ là công cụ của chính quyền độc tài. Trong 25 năm sống trong chính thể Quốc gia, ông chưa hề làm một ca khúc suy tôn lãnh tụ nào. Những bài hát “Xây Dựng Nông Thôn" là những bài làm ra bởi một tác gỉa công chức hơn là bởi một nhạc sĩ chuyên nghiệp; chúng đã không thọ lâu (?).

Khoảng 100 bài ca bất hủ của ông đã đi sâu vào mọi làng xóm của thôn quê, mọi ngõ ngách của thành thị rồi “di tản” ra ngoại quốc để ve vuốt nỗi cô đơn của vài triệu người sống lưu vong.

Cuộc “trở về quê” của ông chỉ tổn thương cho thanh danh của cá nhân ông, không có ảnh hưởng đáng kể tới tinh thần chống cộng của quần chúng. Chả có ai “hòa giải dân tộc” với VC chỉ vì Phạm Duy đã hồi hương. Sự hòa giải ấy sẽ không bao giờ xảy ra. Nói cách khác, chỉ có hòa giải khi nào chính thể CS bị giải thể hoàn toàn. Còn nữa, chỉ có lực lượng của quần chúng ở trong nước mới có khả năng giải thể chúng. Vậy thì chả nên quá quan tâm tới cái sách lược “Hòa Giải Dân Tộc” của chúng. Nó đã chết ngay sau khi vừa sinh ra. Chả nên chia sớt bớt nỗi căm thù VC rồi xối vào những ca nhạc sĩ như Phạm Duy, Từ Công Phụng, Khánh ly, Lệ Thu, Chế Linh v.v... Có một cái gì “bất đắc dĩ” trong viêc trở về của họ (như đã nói ở trên). Vả lại, họ không đem đô-la về nước để góp thêm ngoại tệ cho VC (như một số thương gia và những kẻ ham du hí) mà còn tiêu bớt ngoại tệ của chúng (lãnh thù lao bằng đô-la). Hãy thông cảm cho họ (thông cảm không có nghĩa là cổ võ cho người khác trở về) miễn là họ chỉ thân thiện với dân, chỉ hát cho dân nghe những bài ca mà chúng ta chấp nhận và không nói lảm nhảm, xúc phạm tới tinh thần chống Cộng.
Riêng đối với Phạm Duy, hãy để cho ông yên nghỉ, gọi là đáp lễ
những bài ca bất hủ mà ông đã cống hiến trong suốt cuộc đời ông. Nghĩa tử là nghĩa tận! Có cả ngàn người (phần lớn là thường dân) đã tiễn đưa ông tới nơi an nghỉ cuối cùng. Vài nhóm trong số người này vừa khóc vừa đồng ca trước mồ ông một số bài chọn lọc, trong đó có bài Tình Ca và một bài chưa được chính quyền VC cho phép (Những Gì Sẽ Đem Theo Về Cõi Chết). Từ vạn dặm, chúng ta hãy gửi tới ông một chút thương cảm, một chút ngậm ngùi, một chút vị tha. Người yêu chuộng tự do lúc nào cũng tôn trọng tự do ngôn luận (trong đó có tự do chọn lựa lối sống) hơn bất cứ điều gì trên đời.