TS. Nguyễn Hữu Chi
Tôi kể anh nghe:
Đã lâu, hôm đến nhà anh bạn thân ăn tiệc mừng chúc Thọ Thất Tuần ảnh, có một
ông cỡ sáu mươi tuổi khoe đã mua năm lô đất rất đẹp có nhờ thầy phong thuỷ lưạ
chọn ở môt nghĩa trang vùng “nhà giầu” (đất nơi đây đắt gấp mấy lần chỗ nơi
khác), làm sinh phần cho 2 vợ chồng, và sẽ xây cất, bên trong lát đá Ý Đại Lợi,
trên có mái, giá khoảng trên dưới trăm ngàn đô, chỗ mát mẻ che nắng che mưa
tiện cho người nhà thăm viếng... bữa nào rảnh chúng tôi sẽ mời các bác lên coi,
sau đó ông ta ngỏ ý mời tôi đi xem và lựa đất làm sinh phần vì còn vài lô khá
tốt... – Tôi cảm ơn và nói chỗ đó không thuận như ý muốn vì sau này khó thuận
tiện cho con cháu viếng thăm, nhất là trong tương lai, các con cháu có
thể đi làm xa ở khắp nơi trên thế giới...
– Thế bác chọn nơi
nào?– chỗ chúng tôi đã chọn rộng rãi,
khi chúng tôi từ giã cõi đời, bất cứ lúc nào các con các cháu nhớ, thì cũng ra
thăm được, đêm cũng như ngày, và ở chỗ này chúng tôi lại có dịp ngao du khắp
nơi, đó là Biển Cả...
Ông chủ nhà góp
vô: “ông này thiệt nhìn xa tính kỹ ...con trai có nhà waterfront rộng lớn ở
vùng South sát ngay bờ biển, thật thuận tiện cho các con cháu tổ chức hội họp
cúng giỗ, viếng thăm bất kể ngày giờ nào...”–
Xin lỗi ông chủ
tiệc “Thất Tuần”, đâu cần phải có nhà waterfront ngoài biển, các con cháu, bạn
hữu ở bốn bể năm châu, lúc nào nhớ đến mình đều có thể ra biển khấn vái viếng
thăm...với lại ở Sydney này hàng ngày đi làm,cuối tuần ngoạn cảnh, thường
xuống Ferry qua biển...thì vấn đề để ra đôi phút tưởng nhớ quá nhẹ
nhàng...
Ðời này ai dại, ai khôn?
Sống mặc áo rách, chết chôn áo lành.
Ca dao
Ðược tin ông bạn già bất thình lình “ra đi”, tôi vội mang vòng hoa đến chào
từ biệt. Ông bạn tôi mặc bộ đồ rất đẹp, bình thản nằm đó.
Tôi mừng thầm cho ông bạn đã “ra đi” một cách nhẹ nhàng trong lúc đang ngủ
ngon lành. Sau đó, trên đường lái xe về nhà, tôi suy tư về khoảng thời gian còn
lại trong đời tôi. Dù sao năm nay tôi đã trên bẩy chục tuổi đầu rồi. Theo thống
kê ở Canada, người đàn ông trung bình có thể sống tới năm 76 tuổi mới được phép
“ngao du vùng tiên cảnh”. Có nghĩa là tôi còn có thể sống được chừng 5 năm nữa.
Vì thế, tôi nghĩ rằng đã đến lúc tôi phải phác họa ngay một “chương trình ngũ
niên” cho tôi, kẻo lúc “ra đi” lại tiếc rẻ khôn nguôi.
Cũng may hiện nay tôi vẫn còn khỏe mạnh, tiền hưu trí cũng đủ để “phè phỡn
với đời”. Vấn đề quan trọng bây giờ là phải “phè phỡn” làm sao cho “phải đạo”? Chuyện
“ong bướm” ư? Mục này tôi không còn khả năng để “đụng” tới. Những người đến
tuổi sắp “ra đi” như tôi không nên quá tham lam. Chúng ta hãy để đám con cháu
có dịp “thi thố tài năng”, không nên tranh dành với thế hệ trẻ. Biết nhường
nhịn như vậy mới được người đời kính nể.
Khóc đám ma |
Thế là tôi đã mất hai trong bốn mục khoái lạc mà người đời gọi là “tứ khoái”.
Sau cùng, tôi chỉ còn thấy có hai thú vui hợp với túi tiền và sức lực của tôi:
đó là đọc sách, và đi du lịch. Tôi thấy, đi ngao du những nơi danh lam thắng
cảnh là thuận tiện nhất: ban ngày thì đi tham quan đó đây, tối về khách sạn
ngồi đọc sách. Ðối với người có tuổi như tôi, thời giờ rất là cấp bách, làm “công
đôi ba việc” như vậy mới “tranh thủ được thời gian”. Thế là hai vợ chồng tôi
bàn nhau đi ngao du vùng nắng ấm để trốn mùa lạnh ở Canada. Ôi, mùa đông ở xứ “tình
nồng” này, sao mà lạnh thế! Càng về già, tôi càng cảm thấy lạnh, lạnh từ ngoài
vào tới tận đáy lòng con người.
Tối hôm đó, tôi chui vào mền nằm nghĩ đến ngày mai tới Miami sưởi nắng... Ðang
say sưa mơ màng thì vợ tôi đánh thức:
– Dậy đi anh. Ðến giờ ra phi trường rồi, máy bay không đợi anh đâu. Em đã
chọn cho anh một bộ quần áo rất đẹp để mặc đi đường.
Bỗng nhiên tôi nhớ đến ông bạn già của tôi đã được Nhà Ðòn mặc cho một bộ
quần áo rất đẹp trước khi lên xe “ra đi”. Tôi nhìn vợ tôi xếp quần áo của tôi
vào va– li, tôi vội hỏi:
– Ủa, em không đi cùng với anh hay sao?
– Em còn bận công việc nên đành phải ở lại. Anh đã đến tuổi có quyền được
đi ngao du, nay đây mai đó. Anh cứ đi chơi thanh thản là em mừng rồi.
Cuối cùng tôi đành phải lên xe taxi ra phi trường một mình. Tôi quay đầu
nhìn lại mái nhà thân yêu của tôi cho đến khi nó mờ dần sau màn tuyết trắng,
mầu trắng tang tóc làm tôi khẽ rùng mình. Phải chăng kẻ “ra đi” thường nghĩ tới
kẻ “ở lại”?
Quả thiệt máy bay không đợi tôi. Tôi vừa ngồi xuống ghế thì máy bay bắt đầu
cất cánh. Lòng tôi buồn rời rợi vì tôi đang bay về vùng nắng ấm trong khi họ
hàng thân yêu tôi còn phải ở lại vật lột với băng tuyết từ Bắc Cực ù ù thổi về.
Khi máy bay hạ cách xuống phi trường Miami, xe của hãng du lịch đã chờ sẵn để
đưa tôi về khách sạn R.I.P (“Resort of International Peace”, mà tôi tạm dịch là
“Lưu Xá Hòa Bình Thế Giới”). Mới nhìn thoáng qua tôi đã nhận thấy phong cảnh
thành phố này quả có đẹp, đúng như những bích trương quảng cáo du lịch đã trình
bày. Hai bên đường là những cây cao vời vợi, cành lá um tùm. Xung quanh khách
sạn của tôi là những biệt thự xinh xắn nằm sau những hàng rào hoa đủ mầu đủ
loại.
Ngồi uống trà trong vườn của khách sạn, tôi thoải mái nghe chim hót líu lô và
nhìn mấy con bướm bay tung tăng trong nắm ấm. Một lát sau, người hướng dẫn du
lịch mời tôi lên xe đi xem phong cảnh thành phố. Ðó là một chiếc xe buýt chở
chừng 50 du khách đủ loại người. Ða số là người có tuổi như tôi, nhưng cũng có
vài người rất trẻ. Ngoài một số người Mỹ ra, tôi còn nhận thấy vài người ngoại
quốc mặc quần áo cổ truyền của nước họ. Ông tài xế cho biết là xe sẽ dừng nhiều
nơi nổi tiếng trong thành phố, du khách có thể xuống bất cứ chỗ nào để tham
quan, một giờ sau đó xe sẽ trở lại đón để đưa đi thăm viếng nơi khác, hoặc chở
về khách sạn R.I.P.
Xe đi vòng vòng trong thành phố và vùng ngoại. Xe ngừng nhiều nơi nổi tiếng
của vùng này: có những khu biệt thự sang trọng lộng lẫy, có những bãi cát vàng
óng ả chạy dài xuống biển xanh mầu ngọc thạch, có những trung tâm thương mại
xầm uất, v.v... Mỗi khi xe ngừng lại, thì có vài du khách tíu tít xuống xe. Khi
xe tới Tropical Garden (Vườn Bách Thảo Nhiệt Ðới), tôi bèn xuống xe vì muốn
sống lại trong khung cảnh xanh tươi của đất nước tôi khi xưa. Tôi sung sướng
khi thấy lại những cây đa cổ thụ cao ngất từng mây, những cành hoa phượng vĩ
rực rỡ dưới nắng chan hòa, những con chuồn chuồn vui đùa giữa những cụm bông
sen trên mặt hồ phẳng lặng...
Tôi đang thẩn thơ hưởng khung cảnh tĩnh mịch gần như thoát tục, thì bỗng
nhiên nghe có tiếng người gọi tên tôi. Quay lại thì thấy anh Tùng, người bạn
chí thân của tôi từ ngày học đệ thất. Ðã hơn bốn chục năm rồi bây giờ mới lại
gặp nhau. Chúng tôi bắt tay nhau thiệt lâu, mừng mừng tủi tủi. Chúng tôi dạo
chơi dưới bóng mấy cây liễu già bên hồ, kể lại cho nhau nghe những kỷ niệm vui
buồn khi xưa. Sau khi học hết bậc trung học, anh Tùng đi động viên, nay đây mai
đó, theo tiếng súng của thời cuộc ở nơi tiền tuyến. Còn tôi được may mắn được
đi ngoại quốc du học. Tuy vậy, chúng tôi vẫn liên lạc mật thiết với nhau bằng
thư từ. Lá thư cuối cùng của anh tôi nhận được hồi cuối năm 1967. Trong thư anh
cho tôi biết là anh đang hành quân ở Quảng Trị, và trong vài tuần nữa anh được
nghỉ phép để về Cần Thơ ăn tết và nhân tiện cưới vợ luôn một thể. Thế rồi trận
Mậu Thân bất thình lình xẩy ra. Từ đó tôi không nhận được tin tức gì về anh. Tôi
cho rằng anh đã bị tử trận. Bây giờ lại gặp được anh, tôi mừng muốn khóc. Trong
khi đi bách bộ trong vườn, chúng tôi nói chuyện huyên thuyên, không để ý đến
thời gian. Ðến lúc xe buýt tới, chúng tôi đành phải chia tay nhau. Tôi lên xe
ra đi. Anh ở lại vì anh muốn tiếp tục cuộc du ngoạn trong vườn mà anh ví “như
vườn Tao Ðàn ngày xửa ngày xưa, nơi mà chúng mình thường tới chơi trong những
giờ trốn học”. Bắt tay anh, tôi hẹn với anh ngày tái ngộ. Anh cười vui vẻ, rồi
thốt ra một câu triết lý bâng quơ:
– Vũ trụ này thực ra bé nhỏ lắm, chúng mình đi loanh quanh, luẩn quẩn, mãi
rồi sẽ có ngày cũng lại gặp nhau.
Ðến lúc lên xe chạy ra ngoài phố, tôi mới sực nhớ là đã quên hỏi địa chỉ
của anh. Tuổi già lẩm cẩm, hay quên. Thiệt là vô tích sự!
Xe chạy vào khu ăn chơi buôn bán nổi tiếng trong vùng. Tôi tò mò xuống xe
đi xem cảnh “ngựa xe như nước, áo quần như nêm.” Ðường phố đông nghịt những
người. Họ đi ngắm nhau, hoặc ngắm những hàng hóa đắt tiền bầy trong tủ kính. Tôi
mỉm cười nhìn một bà Mỹ to béo đang chăm chú nhìn một bộ áo dạ hội mỏng dính
với bảng giá “Special Sale: 299.95 dollars.” Tôi cảm thấy tội nghiệp cho cái “cái
cối xay” đang bị thôi miên bởi cái áo “hớ hênh,” vừa hở lưng đằng sau, vừa hở
rún đằng trước. Ðã thích ăn cho mập xù, lại còn thích mặc quần áo khiêu gợi! Ðang
ngẫm nghĩ về cái ham muốn quá đáng của con người, thì tôi đã bước tới trước cửa
một tiệm kim hoàn. Tôi đứng ngắm những vòng ngọc đủ mầu, những dây chuyền vàng
chạm chổ tinh vi, những chuỗi hạt trai sáng rực dưới ánh đèn trong tủ kính. Bỗng
nhiên có tiếng ồn ào trong tiệm, rồi có bóng một thanh niên chạy vọt ra ngoài,
đằng sau là những tiếng hô hoán ầm ĩ. Hai tiếng súng nổ liên tiếp làm tôi giật
mình quay lại. Tôi thấy một cô cảnh sát cầm súng thản nhiên đứng nhìn người
thanh niên đang nằm quằn quại trên vũng máu, tay còn nắm chiếc đồng hồ vàng nạm
kim cương. Khách bộ hành tò mò nhìn cảnh chết chóc như đang xem chương trình
Miami Vice trên ti– vi. May sao vừa lúc đó thì xe buýt của hotel tới, tôi vội
chạy lên xe, để trốn cảnh si mê và tàn bạo.
Xe ngừng bánh nhiều nơi cho du khách xuống du ngoạn. Nhưng tôi vẫn ngồi yên
trên xe vì tôi thấy mất hết cảm hứng đi ngắm cảnh phồn hoa giả tạo. Cuối cùng
xe cũng về tới khách sạn R.I.P khi thành phố bắt đầu lên đèn. Tôi mệt mỏi xuống
xe và rất ngạc nhiên khi thấy bố mẹ tôi mừng rỡ chạy ra đón tôi, và ôm tôi vào
trong lòng. Mẹ tôi vỗ về tôi, rồi nhẹ nhàng trách tôi:
– Con mải đi chơi ở đâu mà mãi bây giờ mới về, làm bố mẹ mong chờ.
Tôi cảm thấy hối hận vô cùng, tôi gục đầu vào vai mẹ tôi khóc nức nở như
ngày tôi còn bé...
Bỗng nhiên tôi nghe văng vẳng có tiếng gọi tôi:
– Dậy đi anh. Anh nằm mơ cái gì mà khóc lóc thảm thê vậy?
Một cảnh đám ma |
Nếu cho sự chết là một du ngoạn, tại sao chúng ta không sửa soạn cuộc “ra
đi” của chúng ta cho chu đáo. Khi chúng ta vượt biên, chúng ta sửa soạn rất kỹ
càng. Nhưng khi chúng ta đến tuổi phải “ra đi,” chúng ta lại không tính toán
như người vượt biên, dù rằng chúng ta vẫn còn đủ tỉnh táo để sửa soạn cuộc “ngao
du” của chúng ta. Chúng ta không chịu sửa soạn trước khi “ra đi” vì chúng ta sợ
chết, nên chúng ta không dám nghĩ đến cái chết cho đến khi chúng ta thở hơi
cuối cùng. Thế là chúng ta “thẩy” trách nhiệm đó cho những người thân thiết có
nhiệm vụ cáng đáng thân xác của chúng ta. Trong lúc “tang gia bối rối,” người
nào càng thân thiết với chúng ta bao nhiêu, thì lại càng bối rối bấy nhiêu. Khi
bối rối như vậy, làm sao họ có thể tính toán một cách hợp lý được. Kết quả là
người thương yêu của chúng ta sẽ bị các Nhà Ðòn lợi dụng triệt để. Chuyện này
rất dễ hiểu: vì thương tiếc “người ra đi,” nên những người thân thích tưởng
rằng càng tiêu nhiều tiền cho chuyện ma chay bao nhiêu, thì “người ra đi” càng
sung sướng bấy nhiêu. Thiệt là nhầm to. Những bài kinh giải thoát, những sớ cầu
siêu không hóa giải được những tội lỗi của con người. Một cuộc mai táng huy
hoàng không làm cho “người ra đi” được “mát mặt” thêm một chút nào. Tuy vậy,
những người thân thích luôn luôn muốn có một đám tang thiệt là linh đình và tốn
kém để tỏ lòng thương tiếc của mình đối với “người ra đi.” Trong trường hợp
này, “người ra đi” chỉ còn biết thở dài (sau khi thở hắt ra). Rồi người đến
viếng cũng muốn mua một vòng hoa thiệt to, thiệt đắt tiền để tỏ tình bạn hữu
với “người ra đi” và nhất là để chứng minh cho bà con lối xóm biết rằng mình là
“người đàng hoàng, có thủy, có chung.” Thấy cảnh này, “người ra đi” cũng lại
thở dài, chỉ muốn thốt ra câu từ biệt: “Này bạn ơi, đã quá trễ rồi. Sẽ có ngày
tái ngộ,” và “tức cảnh” làm bài thơ như sau:
Khi một thằng nằm
xuống
Lại có thằng luống
cuống đứng lên
Vái lạy thằng nằm
xuống
Hy vọng khi mình nằm
xuống
Lại có thằng khác
luống cuống đứng lên.
Ðiều mà chúng ta biết chắc là đa số những người sắp “ra đi” đều lo lắng
thiết tha cho “người ở lại,” và nghĩ rằng mình còn có thì giờ thu xếp mọi việc
trước khi “ra đi.” Tiếc thay, khi xe buýt bất thình lình tới đón đi “ngao du,”
chúng ta vội vàng lên xe nên không giúp gì cho những “người ở lại.” Trong khi
đó, “người ở lại” đau đớn muôn phần. Khi bố mẹ tôi lần lượt qua đời, một mình
tôi “ở lại,” tôi lịm người đi vì thương tiếc. Rồi khi tôi loáng thoáng được tin
anh bạn chí thân của tôi bị tử thương, tôi buồn ngẩn ngơ, tội nghiệp cho số
phận long đong của người trai thời loạn. Tôi bối rối vì tôi cảm thấy hối hận vì
tôi cho rằng mình đã cư xử không đầy đủ tình nghĩa đối với “người ra đi,” không
có dịp tổ chức một đám táng trọng thể đưa người quá cố sang “Bên Kia Thế Giới.”
Ngoài ra, trong thâm tâm, tôi cảm thấy lo sợ vì không biết những thân nhân của
tôi sẽ đi về đâu: có được “về với Chúa không”? có thoát khỏi “vòng nghiệp
chướng” hay không? Ðó là những phản ứng tự nhiên của những “người ở lại.” Vì
thế, chúng ta thường thấy những vụ ma chay linh đình để “người ở lại” có dịp “trả
nghĩa” đối với “người ra đi” (thà “trả nghĩa” trễ hạn, còn hơn là bị mang tiếng
“bạc tình, bạc nghĩa”). Chúng ta lại còn thấy trong những cuộc cúng lễ nguy
nga, mọi người thiết tha cầu xin Trời hay Phật giúp “người ra đi” được lên
Thiên Ðàng hay vào Cõi Niết Bàn. Mọi tín đồ đều “biết chắc chắn” rằng một linh
hồn đầy tội lỗi khó có thể siêu thoát được nếu thân nhân không thành khẩn cầu
xin Ðấng Tối Cao nhủ lòng khoan hồng đại lượng với “người ra đi”! Phải chăng vì
chúng ta nghĩ rằng cái quá khứ của “người ra đi” thiếu đạo đức, nên chúng ta
mới phải làm lễ cầu siêu cho “người ra đi” như vậy? Thiệt là tội nghiệp cho
người “ra đi”: Ðã “nằm xuống” rồi mà còn bị người đời gán cho cái tội “thiếu
đạo đức.”
Nói cho cùng, “người ở lại” đáng thương hơn “người ra đi.” Trong khi “người
ra đi” thản nhiên nằm đó, thì “người ở lại” không những bị xúc động tinh thần
mà còn phải xả thân cáng đáng công việc tiễn đưa “người ra đi.” Vì thế, tôi
không thắc mắc về việc tôi sẽ “ra đi,” nhưng tôi nghĩ rất nhiều, và lo lắng rất
nhiều cho “người ở lại.” Tôi muốn “người ở lại” khỏi phải quàng lên vai một
gánh quá nặng nề về tinh thần cũng như vật chất khi tôi “nằm xuống.” Có lẽ ít
người nghĩ như tôi và làm như tôi, vì đến lúc gần ngày tận số, mỗi người nghĩ
một kiểu, và người nào cũng cố gắng làm những việc mà mình cho rằng thỏa đáng
nhất. Do đó, tôi không dám khuyên ai. Những điều tôi trình bày sau đây chỉ là
một thí dụ không điển hình, một lối nhìn đời “không giống ai.”
Trước hết, tôi không muốn những bạn bè thân thuộc tôi quá u sầu về chuyến “ngao
du” của tôi. Do đó, tôi đã trình bày cho mọi người biết rằng khi “chuyến xe
buýt” tới, tôi sẽ thản nhiên “ra đi” như tất cả mọi người khác đã từng “ra đi.”
Tôi sẽ “đi” về đâu? Có lẽ tôi sẽ về với bố mẹ tôi. Có lẽ tôi sẽ ngao du vùng
tiên cảnh cùng với bạn bè tôi. Dù sao đi chăng nữa, tôi không cần biết tôi sẽ “đi”
đâu, vì có biết hay không biết thì tôi và những người thân thuộc của tôi cũng
chẳng làm được gì cả.
Sau đó, việc tôi phải làm trước khi “ra đi” là sửa sang lặt vặt trong nhà,
vì vợ tôi không phải là một người khéo tay biết sửa chữa nhà cửa. Ngoài ra,
những gì của tôi mà tôi thấy không cần dùng cho bản thân tôi hoặc cho “người ở
lại,” tôi mang đi cho người khác, hoặc đổ vào thùng rác. Khi tôi quẳng đi gần hai ngàn quyển sách
của tôi, tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Trái lại, vợ tôi rất xúc động, và
hỏi tôi:
– Những cuốn sách
này là kỷ niệm gần 40 năm dạy học, tại sao anh vất đi?
– Anh không cần
nữa.
– Thì cứ để đấy,
đôi khi anh muốn đọc lại thì sao?
– Ðọc đi, đọc lại
làm gì? Người ta lại tưởng rằng anh dốt, học mãi mà chưa thuộc bài.
Sau khi dọn dẹp
nhà cửa, tôi bắt đầu nghĩ đến phí tổn chôn cất. Tôi thấy ở Ottawa mấy gia đình mà tôi quen biết đã chi phí
trên 15 ngàn dollars cho mỗi vụ ma chay. Tôi tính nhẩm trong đầu thì thấy rằng
chỉ trong vài chục năm nữa, cộng đồng người Việt ở Ottawa (hơn bốn ngàn nhân
mạng) sẽ phải chi cho Nhà Ðòn và nghĩa địa một tổng số vào khoảng 60 triệu
dollars (không kể tiền chi cho các vị tu sĩ cúng lễ, cùng tiền bạn bè bỏ ra mua
hoa phúng viếng). Như vậy, phí tổn ma chay cho nửa triệu người Việt đang sinh
sống ở Bắc Mỹ sẽ lên tới gần 8 tỷ dollars. Thiệt là oai hùng! Thiệt là vĩ đại!
Ðể biết rõ chi
tiết của vấn đề, tôi bèn mời một đại diện Nhà Ðòn quen biết ở Ottawa tới bàn chuyện ma chay cho tôi. Ông “tiếp
thị” (salesman), quần áo chỉnh tề, mặt trang nghiêm và đầy kính cẩn, ăn nói nhẹ
nhàng và từ tốn trong khi trình bày giá cả cho tôi nghe. Tập tài liệu về giá
biểu in rất đẹp như tờ thực đơn của một tiệm ăn sang trọng ở Paris (năm sao). Ðiều quan trọng mà mọi người
nên biết là “người mua” không được kỳ kèo về giá cả, vì Nhà Ðòn làm ăn đàng
hoàng “trước sau như một,”.
Tôi đọc kỹ tờ giá
biểu, rồi tham khảo với các bạn bè, tôi thấy rõ phí tổn nặng nề mà “người ở lại”
phải chi cho Nhà Ðòn ở Canada (có lẽ cũng tương tự như ở bên Mỹ). Ðể có
một thí dụ cụ thể, tôi xin liệt kê sau đây các “món hàng” căn bản mà Nhà đòn
Tubman đã trình cho tôi:
(1) Dịch Vụ Chuyên
Môn (Professional Services)
• 900$ – dịch vụ
do các chuyên viên Nhà Ðòn cung cấp (professional and support staff services);
• 250$ – giấy tờ
lên quan đến vấn đề khai tử (documentation);
• 125$ – dịch vụ ở
nghĩa địa hoặc công việc trao lọ đựng tro cho thân nhân (gravesides service or
delivery of urn as arranged).
(2) Dịch Vụ Chăm
Lo “Người Ra đi” (Prrofessional Care of Deceased)
• 200$ – tắm rửa
và làm vệ sinh cho “người ra đi” (sanitary care of deceased);
• 570$ – ướp xác
và trang điểm “người ra đi” (embalming and cosmetology of deceased).
(3) Phòng Ốc Và
Dụng Cụ
• 400$ – xử dụng
Nhà Ðòn (basic use of funeral home);
• 990$ – xử dụng
phòng thăm viếng, phòng làm lễ và những dụng cụ (visitation room, chepel,
and/or service equipment);
• 225$ – xử dụng
phòng sửa soạn và gìn giữ xác “người ra đi” (use of facilities for preparation
of deceased and/or shelter of remains).
(4) Xe Cộ Và Vận
Chuyển (Automotiles and Transportation)
• 295$ – chuyển
xác về Nhà Ðòn (transfer from place of death ố radius 40 km);
• 200$ – xe cộ cần
dùng cho các nhân viên Nhà Ðòn (vehicles required for administrative tasks,
clergy, funeral director);
• 270$ – xe chở
quan tài ra nghĩa địa (funeral coach);
• 125$ – xe
limousine chở thân nhân.
Chi phí căn bản
cho Nhà Ðòn là $5,604.03 (gồm cả thuế)
(5) Chi Phí Cho
Thành Phố
• 75$ – khám
nghiệm tử thi.
• 52$ – thuế vệ
sinh cho thành phố.
(6) Phí Tổn Mai
Táng
• 3,700$ (trung
bình) – Tiền mua quan tài tùy theo loại sang hay hèn, đúng theo giai cấp: từ
thứ rẻ nhất là vải quấn xác (890$) cho tới quan tài rẻ tiền bằng gỗ ván ép
(1,695$), tới loại quan tài vừa đẹp vừa bền dành cho các nhà giầu thích sài
sang (11,000$);
• 5,500$ – Tiền
mua chỗ “An Nghỉ Ngàn Thu” (R.I.P – Rest
In Peace ) tại nghĩa địa: miếng đất to hơn cái giường đáng giá khoảng chừng
5,500$;
• 1,000$ – Tiền
dựng mộ bia tùy theo túi tiền của mỗi người (từ 1,000$ cho tới 5,000$, hoặc
nhiều hơn nữa).
Chi phí mai táng
trung bình khoảng chừng $13,000
Tôi đọc tờ giá
biểu thấy nhân dân ta bị Nhà Ðòn và Nhà Nước làm tiền một cách rất là quy củ.
Không những thế, ông “tiếp thị” lại còn khuyến khích tôi “mua” nhiều món “hàng”
khác vừa đắt tiền, vừa... vô dụng. Tôi bèn chặn lại với một câu hỏi rất ư là “rẻ
tiền”:
– Mai táng kiểu
nào rẻ tiền nhất?
Hắn ngỡ ngang vì
đang “rao hàng” thì bị cụt hứng. Nhưng ngay sau đó, hắn mỉm cười, rồi nhìn tôi
một cách rất ư là đại lượng:
– Ông thích chơi
trò rẻ tiền thì ông nên chọn con đường hỏa táng, vì ông sẽ không mất tiền chi
phí chôn cất và mua đất ở nghĩa địa.
– Ngoài tiền hỏa
táng ra, còn có mục chi phí nào khác nữa không.
– Có chứ. Thân xác
của ông sẽ được tắm rửa, thoa son đánh phấn, và được đặt trong một cỗ quan tài
thiệt đẹp. Chúng tôi sẻ tổ chức linh đình cho ông. Ai trông thấy nằm đó cũng
phải thèm cái địa vị của ông.
– Nếu tôi thích đi
con đường hỏa táng, thì tôi đâu có cần mua quan tài làm gì cho tốn tiền?
Lần này hắn nhìn
tôi một cách khinh thường ra mặt, và nói với một giọng mỉa mai:
– Ông cũng cần
phải được trang điểm và nằm trong một cỗ quan tài đàng hoàng khi bạn bè thân
thuộc đến thăm viếng ông lần cuối cùng. Trưng bày thân xác ra như vậy mới là
người đàng hoàng chứ! Tuy nhiên, nếu ông thích bủn xỉn, thì cũng không sao.
Chúng tôi cũng có thể chiều ông được. Ðáng lẽ ông mua một cỗ quan tài rẻ tiền,
ông có thể thuê một cỗ quan tài sang nhất hạng. Cỗ này đáng giá 11,000$. Những
người giầu sang mua loại này, rồi mang đi chôn hay đốt cùng với cái xác của họ.
Nhưng nếu ông mướn cỗ quan tài này, để nằm vài ba bữa, lấy le với bà con lối
xóm, thì ông chỉ phải trả tiền thuê là 2,850$. Thiệt là rẻ mạt! Làm sao mà
người đời biết được rằng ông là người hà tiện, đến lúc “nằm xuống” mà còn không
dám bỏ tiền ra mua một cỗ quan tài để nằm cho thoải mái.
– Nhưng tôi không
muốn “trình làng nước” cái thân thể xám ngắt của tôi cho mọi người chiêm ngưỡng
thì sao?
Hắn thở dài đến
sượt một cái như một thầy giáo làng nhìn thằng học trò bướng bỉnh lại còn có
tật cù nhầy:
– Làm như vậy cũng
bớt được vài ngàn: tiền son phấn, tiền thuê quan tài, tiền thuê Nhà Ðòn v.v..
Mà ông cũng không cần phải chi cho các vị tu sĩ đến tụng kinh gõ mõ tùm lum
trong Nhà Ðòn của chúng tôi làm gì. Thế là ông đỡ thêm được vài ba trăm nữa.
Ðối với hạng người “rẻ tiền” như ông, đỡ được trăm nào hay trăm đó, có phải
không?
Thằng cha “tiếp
thị” cho tôi là người bủn xỉn nên có vẻ bực mình lắm. Hắn chỉ muốn thu được
nhiều tiền cho chủ Nhà Ðòn để được ăn nhiều tiền hoa hồng do gia đình “người ra
đi” cung phụng. Vì thế, mỗi lần tôi bớt được món chi phí nào là hắn có vẻ đau
đớn như đang bị bà nha sĩ nhổ một cái răng hàm bự trong mồm. Cuối cùng, tôi
chọn một chương trình hỏa táng hợp với ý tôi. Tổng số tiền tôi phải chi ra là
2,709.24$ cho những mục như sau:
• tiền giấy tờ
(khám nghiệm xác chết, giấy khai tử, v.v.);
• tiền xe đưa xác
tôi từ nhà xác đến Nhà Ðòn;
• tiền hòm bằng
giấy cứng (50$) đựng xác chết để mang đi hỏa táng;
• tiền đưa hòm xác
tới lò đốt (không có vụ bầy biện thân xác ra cho mọi người “dòm ngó”);
• tiền đốt xác;
• tiền hộp đựng
tro để trao cho vợ tôi mang đi thả xuống biển (tôi mua loại rẻ tiền nhất nên
chỉ tốn có 20$; còn loại sang và đẹp thì lên tới 500$);
• tiền thuế trả
cho thành phố, tiểu bang, và liên bang.
Người “tiếp thị”
đại diện Nhà Ðòn Tubman và tôi cùng ký vào tờ khế ước (bốn bản). Sau đó, tôi
hân hoan trao cho hắn tấm ngân phiếu 2,709.24$. Tôi phải trả tiền trước. Ðối
với tôi, điều này rất thuận tiện, vì sau này giá cả có gia tăng thì Nhà Ðòn
ráng mà chịu, chứ những “người ở lại” không còn phải lo lắng điều gì cho “người
ra đi.”
Khi vợ tôi đi làm
về, tôi hý hửng đưa cho cô nàng xem tờ khế ước. Thế là cô nàng khóc bù lu bù
loa, rồi hỏi tôi một câu mà tôi cho là lãng nhách:
– Trong cả cuộc
đời của anh, anh chỉ thích chơi sang. Tại sao đến cuối cuộc đời, anh lại định
chết một cách rẻ tiền như vậy?
– Em hỏi một câu
thiệt là lãng nhách! Thế nào là chết rẻ tiền? Chết sang thì đi đến đâu? Mang
tiền ra cúng Nhà Ðòn và Nhà Nước làm gì? Chúng nó làm gì có quyền cấp visa cho
anh vào Thiền Ðàng, hay vào Vùng Cực Lạc. Việc gì mình phải “đút lót” chúng nó?
Dù sao anh cũng “save” hơn 12,000$, chứ đâu có phải là ít.
– Em không cần món
tiền đó đâu!
– Nếu em không cần
số tiền đó, thì em mang nó đi giúp người nghèo, có sao đâu? Ða số dân ta hiện
đang sống trong cảnh nghèo túng. Em có biết rằng nếu em mang 12,000$ về Việt Nam, em có thể nuôi hơn 60 em mồ côi trong một
năm. Như vậy, anh là người “chết sang” hay là người “chết rẻ tiền”?
Thấy tôi lý luận
như vậy, cô nàng vừa lau nước mắt vừa cười đùa:
– Thôi, anh muốn
chết kiểu nào cũng được. Cái đó tùy anh. Nếu anh “ra đi” trước em, em sẽ chúc
anh theo kiểu Tàu: “Thượng Lộ Bình An,” và xin anh “Bảo Trọng.”
– Vậy, trước khi “ra
đi,” anh sẽ chào em theo kiểu Mỹ: “Hẹn Ngày Tái Ngộ” – “See You Later.”
Nguyễn Hữu Chi
Tiến Sĩ Tâm Lý
Chính Trị Học
No comments:
Post a Comment