Một số người đặt
câu hỏi: Nếu tai họa như nước Nhật xảy ra tại VN thì chuyện gì sẽ xảy ra? Ông
Mạc Việt Hồng đã diễn tả bức tranh đó như thế này:
Fukushima Earthquake |
Động đất có khi
chết 200 nhưng giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết thêm nghìn nữa. Các ban ngành sẽ họp bàn cách cứu hộ từ ngày
này qua ngày kia. Cướp giật hôi của sẽ
phổ biến, hoa người ta còn cướp giật nói chi tới đồ ăn hay tiền bạc vào lúc hỗn
quan hỗn quân như vậy. Người đi hôi của sẽ nhiều hơn người đi cứu trợ. Nếu có phát khẩu phần ăn sẽ chẳng có hàng lối
gì, bà già trẻ nhỏ sẽ bị chen cho bẹp ruột, ai thắc mắc hay nhìn đểu mấy kẻ
chen lấn, thì “bố cho mày mấy chưởng”.
Sẽ xuất hiện đủ loại cò: Cò mua, cò bán, cò di tản, cò cứu trợ, cò bệnh
viện… tha hồ chặt chém đồng bào. Tiền
và hàng cứu trợ sẽ vào tay dân thì ít, cửa quan thì nhiều. Ai muốn người nhà mình đang kẹt trong đống đổ
nát được đào bới, tìm kiếm trước thì hãy chi đẹp cho đội cứu hộ.Khu nào có quan
chức ở thì được ưu tiên cứu hộ trước, khu nào dân đen sinh sống thì cứu
sau. Cửa hàng sẽ thi nhau tăng giá, bắt
chẹt những người khốn khổ. Tổ chức nào,
tôn giáo nào muốn cứu trợ thì phải được sự đồng ý của Mặt trận Tổ quốc và các
cấpchính quyền kẻo các “thế lực thù địch” lợi dụng;......
Tại Sao Có Sự Khác
Biệt Quá Lớn Giữa Người Việt Nam Và Người Nhật?
Phạm Hoài Nam
Trước đây, do công
việc tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng như đi nhiều nước khác trên thế
giới. Nước Nhật không phải là nước mà tôi thích đến nhất (có thể vì
đắt đỏ quá) nhưng đó là đất nước mà tôi nể phục nhất – không chỉ phục ở những
thành tựu của sự văn minh, những công trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở
yếu tố con người.
Kể từ đó tôi luôn
tò mò tìm hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của các con cháu Thái Dương Thần
Nữ.
Người Nhật chia sẻ niềm đau |
Càng biết thêm về
họ tôi càng phục họ hơn. Đó là một dân tộc có nhiều điểm rất đặc biệt. Một dân
tộc luôn tự hào về những giá trị truyền thống, nhưng khi cần cũng sẵn sàng dứt
bỏ những gì đã lỗi thời. Một dân tộc mang niềm kiêu hãnh lớn lao, nhưng đồng
thời cũng luôn biết học hỏi cái hay của người khác. Một dân tộc đã từng đánh
bại các đế quốc Mông Cổ, Trung Hoa và Nga Sô, nhưng cũng biết nuốt cái nhục bại
trận để vươn lên thành một cường quốc kinh tế. Một dân tộc ít khi ồn ào
lớn tiếng, và luôn xem trọng sự ngăn nắp sạch sẽ. Nhưng đặc biệt hơn cả – đó là
một dân tộc chưa bao giờ biết đầu hàng trước nghịch cảnh.
Tôi nhớ trước đây
có đọc một bài viết của một người Việt sống lâu năm tại Nhật, quên mất tên tác
giả, trong đó ông có nêu ra một chi tiết để phân biệt giữa người Nhật bản địa
và người ngoại quốc sống ở Nhật – đó là nhìn qua cách phơi quần áo. Người ngoại
quốc phơi lung tung, còn người Nhật phơi theo thứ tự, quần theo quần, áo
theo áo….
Đúng như nhà văn
Haruki Murakami đã nhận định: “Người Nhật là kho tàng của nước Nhật”. Tôi rất
cám ơn đất nước này vì chính người Nhật đã cho tôi một niềm tin rằng bất cứ một
đất nước nào, dù nhỏ, dù bị bất lợi về địa lý, tài nguyên… nhưng nếu dân tộc đó
có một nhân sinh quan đúng đắn thì vẫn có thể trở thành một dân tộc giàu
mạnh.
Thiên tai động đất
và sóng thần xảy ra ở Nhật cách đây 2 tháng, mặc dầu những tin tức liên quan
đến biến cố này không còn được nhắc đến nữa, nhưng đối với những người Việt Nam
còn quan tâm đến đất nước thì những dư âm của nó vẫn còn để lại nhiều vương vấn
suy tư. Cùng là hai nước nhỏ ở Á Châu nhưng định mệnh nào đã đưa đẩy hai dân
tộc khác biệt nhau quá xa. Một dân tộc mà mỗi khi nhắc tới, từ Đông sang Tây, đều
phải ngã mũ bái phục, còn dân tộc kia thì ít khi được nhắc đến, hay nếu có
thì thường là những điều không lấy gì làm vinh dự cho lắm.
Vietnamese Buffet |
Sau biến cố này đã
có hàng ngàn ý kiến xuất hiện trên các diễn đàn Internet đặt câu hỏi:
“Tại sao lại có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt và người Nhật”, phần
lớn những ý kiến này xuất phát từ những người trẻ đang sống ở Việt Nam. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho thấy có
nhiều người Việt Nam đang thao thức muốn thay đổi số phận của
đất nước mình.
Đây là một đề tài
rất lớn và đòi hỏi sự suy nghĩ, nghiên cứu nghiêm túc của nhiều người nhất là
những nhà trí thức. Bài viết này để chia sẻ câu hỏi đó và chỉ nên xem như
những lời góp ý rất khiêm tốn.
Sự chênh lệch giữa
Việt Nam và Nhật Bản không phải chỉ xảy ra bây giờ,
từ đầu thế kỷ 20 Nhật đã vượt ta rất xa. Trong cuốn “Niên Biểu” cụ Phan bội
Châu đã kể lại kinh nghiệm của mình sau hai lần đến nước Nhật để tìm đường cứu
nước (lần đầu tiên vào năm 1905). Những điều tai nghe mắt thấy tại đây khiến cụ
rất phục tinh thần của dân tộc Nhật Bản. Người phu xe, thuộc giai cấp lao động
bình dân, chở cụ đi tìm một sinh viên người Trung Hoa, mất nhiều thời gian công
sức mà cuối cùng vẫn nhận đúng 52 xu: “Than ôi! trình độ trí thức dân nước
ta xem với tên phu xe Nhật Bản chẳng dám chết thẹn lắm sao!”
Nước Nhật nằm ở vị
trí đầu sóng ngọn gió, chịu liên tục những thiên tai trong suốt chiều dài lịch
sử và họ chấp nhận định mệnh đó với lòng can đảm. Thiên tai vừa rồi rất nhỏ so
với trận động đất tại Tokyo vào năm 1923 và hai quả bom nguyên tử vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến.
Nhờ phương tiện truyền thông quá văn minh cho nên cả thế giới vừa rồi có cơ hội
nhìn thấy rõ hơn “tinh thần Nhật Bản” trong cơn nguy biến.
Trận động đất xảy
ra tại Tokyo ngày 1/9/1923 đã làm cho 130,000 người thiệt mạng, Yokohama bị tàn phá hoàn toàn, phân nửa của Tokyo bị tiêu hủy. Trong quyển “Thảm nạn Nhật
Bản” (Le désastre Japonais) của đại sứ Pháp tại Nhật thời đó thuật lại: “Từng
cá nhân kẻ góp chút gạo, kẻ đem chiếc xuồng để giúp đỡ nhau như một đại gia
đình” chứng tỏ là họ có một truyền thống tương thân tương ái lâu đời.
Vào cuối Đệ Nhị
Thế Chiến hai quả bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki, ngay lập tức làm thiệt mạng khoảng
150,000 người. Những thành phố kỹ nghệ của Nhật cũng bị tàn phá nặng nề vì
những trận mưa bom của phi cơ Đồng Minh. Lần đầu tiên trong lịch sử người Nhật
phải chấp nhận đầu hàng và là nỗi nhục quá lớn đối với họ như lời của Nhật
Hoàng Hirorito: “Chúng ta phải chịu đựng những điều không thể chịu đựng
nỗi”.
Không có hình ảnh
nào thê thảm như nước Nhật lúc đó, kinh tế gần như bị kiệt quệ hoàn toàn. Tuy
nhiên Đồng Minh có thể tiêu diệt nước Nhật nhưng không thể tiêu diệt được tinh
thần của người Nhật, họ đã biến cái nhục thua trận thành sức mạnh để vươn lên
từ đống tro tàn.
Đến năm 1970, chỉ
có 25 năm, một nước bại trận hoang tàn đổ nát trở thành một cường quốc
kinh tế đứng thứ nhì trên thế giới, chỉ thua có Hoa Kỳ. Danh từ “Phép lạ kinh
tế” phát xuất từ hiện tượng này.
Trong 7 năm từ
1945 cho đến 1952, tướng MacArthur, thay mặt Hoa Kỳ quản trị nước Nhật với tư
cách là Chỉ Huy Tối Cao của Lực Lượng Đồng Minh (Supreme Commander of the
Allied Powers) - vì nể phục và quý mến người Nhật cho nên vị tướng này
muốn biến nước Nhật trở thành một “Nước Mỹ lý tưởng” hay nước Thụy Sĩ ở Á Châu.
Tuy cuối cùng kết quả không được trọn vẹn như ý muốn của ông vì người Nhật
không thể để mất hồn tính dân tộc. Nhưng nước Nhật được như ngày nay có công
đóng góp rất lớn của tướng MacArthur.
Trở lại chuyện
thiên tai vừa rồi, ngay sau đó có cả ngàn bài viết ca ngợi tinh thần của người
Nhật. Nhiều tờ báo lớn của Tây Phương đi tít trang mặt: “Người Nhật: Một
Dân Tộc Vĩ Đại”. Nhật báo lớn nhất của Mỹ, New York Times, số ra ngày 20
tháng 3 đăng bài “Những điều người Nhật có thể dạy chúng ta” của ký
giả Nicholas Kriftoff.
Đúng như lời của
nhà báo Ngô Nhân Dụng đã viết: “Một dân tộc, và mỗi con người, khi bị thử
thách trong cơn hoạn nạn, là lúc chứng tỏ mình lớn hay nhỏ, có đáng kính trọng
hay không”.
Dùng từ vĩ đại đối
với nước Nhật không cường điệu chút nào, họ vĩ đại thật. Giữa cảnh chết chóc,
nhà cửa tan nát, đói lạnh, tuyệt vọng… vậy mà họ vẫn không để mất nhân cách,
mọi người nối đuôi nhau chờ đợi hàng giờ để lãnh thức ăn, tuyệt đối không oán
trách trời, không trách chính quyền, không lớn tiếng, không ồn ào, kiên nhẫn
chờ đợi đến phiên mình.
Một đất nước mà
trong cơn khốn khó, không đổ lỗi cho nhau, từ quan đến dân, trăm người như một,
trên dưới một lòng lo tìm cách đối phó, thì đất nước đó xứng đáng là một đất
nước vĩ đại.
Toàn bộ nội các
Nhật làm việc gần như 24/24. Các hiệu trưởng ngủ lại trường cho đến khi học
sinh cuối cùng được di chuyển đi. Các siêu thị hoàn toàn không lợi dụng tình
cảnh này để tăng giá. Tiền rơi ngoài đường từ những căn nhà đổ nát không ai màn
tới thì đừng nói chi đến chuyện hôi của. Ông Gregory Pflugfelder, giáo sư
chuyên nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại Học Columbia (Mỹ) đã nhận xét về
người Nhật sau thiên tai này như sau: “Hôi của đơn giản là không xảy ra ở
Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắn rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ
ngữ này.”
Người Nhật là một
dân tộc có tinh thần độc lập, tự trọng và lòng yêu nước rất cao, không chờ đợi
ai mở lòng thương hại, sau những hoang tàn đổ nát, mọi người cùng nhau bắt tay
xây dựng lại.
Mặc dầu chính phủ
Hoa Kỳ đề nghị đến giúp dập tắt lò nguyên tử Fukushima nhưng họ từ chối.
Xa lộ tại thành
phố Naka, thuộc tỉnh Ibaraki bị hư hại nặng do động đất. Chỉ một
tuần sau, ngày 17/3 các công nhân cầu đường Nhật bắt đầu sửa chữa, chỉ 6 ngày
sau xa lộ này đã hoàn tất, ngay cả Hoa Kỳ có lẽ cũng không thể đạt được kỷ lục
này.
Từ Nhật
Hoàng Akihito, Thủ Tướng Naoto, cho đến các thường dân đều tự tin
rằng: “Chúng tôi sẽ phục hồi” như họ đã từng làm trong quá
khứ. Cho đến hôm nay (18/5) theo những tin mà chúng ta đọc được trên Internet
thì những nơi bị tàn phá đang được phục hồi nhanh chóng. Có thể chỉ 2, 3 năm
sau nếu có dịp đến đây chúng ta sẽ thấy cảnh vật hoàn toàn thay đổi.
Điều đáng chú ý
nhất trong thiên tai này đối với người viết – chính là thái độ của trẻ em. Đến
xứ nào, chỉ cần nhìn qua tuổi trẻ là có thể đoán được tương lai của xứ đó, bởi
vì tuổi trẻ là hy vọng, là tương lai của đất nước. Không phải chỉ có em học
sinh 9 tuổi mất cha mất mẹ, đang đói khát nhưng vẫn từ chối sự ưu tiên hơn
người khác được cả thế giới biết đến, mà còn có cả ngàn em học sinh Nhật khác
trong hoàn cảnh tương tự vẫn luôn luôn giữ tinh thần kỹ luật và lễ phép.
Những em nhỏ, có
em còn được bồng trên tay, có em ngồi bên cạnh mẹ trong các nơi tạm cư, mặc dầu
đói khát từ mấy ngày qua nhưng nét mặt của các em vẫm bình thản chờ đợi thức ăn
mang đến. Những em bé này được dạy dỗ từ nhỏ tinh thần kỷ luật, tự trọng, danh
dự và khắc kỹ… không phải chỉ học ở trường hay qua sách vở mà còn qua những tấm
gương của người lớn trong những hoàn cảnh thực tế và được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Mai đây nếu có một
cuốn sách giới thiệu những nét đẹp nhất, cao thượng nhất của con người sống
trên hành tinh này thì cuốn sách đó không thể thiếu được những hình ảnh của
người Nhật trong thiên tai vừa qua.
Tôi không nghĩ là
ông Mạc Việt Hồng nói quá đáng. Chúng ta cũng không cần phải có kinh
nghiệm thực tế, chỉ cần đọc qua báo trong nước sau mỗi lần có thiên tai cũng đủ
biết là những ghi nhận trên của tác giả không sai chút nào. Nói chung nạn nhân
nếu muốn sống sót phải làm theo bản năng “mạnh được yếu thua” hay “khôn nhờ dại
chịu”, còn quan chức chính quyền thì coi đó như thời cơ để kiếm tiền.
Ngay tại hải
ngoại, nếu thiên tại xảy ra tại những nơi tập trung đông đúc người Việt, phản
ứng của người dân có thể không tệ như trong nước nhưng chắc chắn bức tranh đó
cũng sẽ không được đẹp đẽ cho lắm.
Có thể có những
quý vị nghĩ rằng: không nên quá đề cao người khác và rẻ rúng thân phận của mình
– vì phải giữ lại niềm tự hào dân tộc. Riêng tôi thì không đồng ý với những
quan điểm như thế.
Có hãnh diện gì
khi nói ra những điều không hay về chính dân tộc mình, người viết cũng là người
Việt, cũng có tất cả những thói hư tật xấu của người VN. Nhưng thiết nghĩ, muốn
thoát khỏi sự thua kém, trước hết phải dám can đảm biết nhìn lại chính
mình, phải biết mình tốt chỗ nào, xấu chỗ nào, đang đứng tại đâu và
cần phải làm những gì. Cũng giống như một người sinh ra trong một gia đình
nghèo khó bất hạnh, phải biết chấp nhận số phận đó, nhưng chấp nhận để tìm cách
vươn lên chớ không phải chấp nhận để đầu hàng hoàn cảnh.
Gần một trăm năm
nước đây, Lỗ Tấn từ bỏ nghề y chuyển sang viết văn để mong đánh thức được dân
tộc Trung Hoa ra khỏi căn bệnh bạc nhược bằng những toa thuốc cực đắng
như “AQ chính truyện”, gần đây nhà văn Bá Dương tiếp nối tinh thần đó
với “Người Trung Hoa xấu xí” cũng được nhiều đồng bào của ông cho đó
là một đóng góp đáng kể. Cuộc cách mạnh Duy Tân của Minh Trị Thiên Hoàng vào
giữa thế kỷ 19 chắc chắn sẽ không thành công được như vậy nếu những nhà tư
tưởng của Nhật lúc đó không vạch ra cho đồng bào của họ thấy được những những
cái yếu kém trong văn hóa truyền thống cần phải bỏ đi để học hỏi những cái hay
của Tây Phương, nhà văn Miyake Setsurei, dành riêng một cuốn sách công
phu “Người Nhật xấu xa” xuất bản năm 1891 để đánh thức người Nhật ra
khỏi căn bệnh lạc hậu.
Chúng ta chỉ có
thể yêu nước nếu chúng ta có niềm tự hào dân tộc. Nhưng tự
hào vào những điều không có căn cứ hay không có thật sẽ có tác dụng
ngược như những liều thuốc an thần.
Những tự hào giả
tạo này có khi vì thiếu hiểu biết, có khi vì mưu đồ chính trị của kẻ cầm quyền
như những gì mà người CS đã làm đối với dân VN trong hơn nửa thế kỷ qua, và tác
hại của nó thì ngày nay chúng ta đã thấy rõ.
Người Việt có
những mâu thuẫn kỳ lạ. Chúng ta mang tự ái dân tộc rất cao nhưng đồng thời
chúng ta cũng mang một tinh thần vọng ngoại mù quáng. Chúng ta thù ghét sự hiện
diện của ngoại bang trên đất nước chúng ta bất kể sự hiện diện đó có chính đáng
đến đâu, nhưng đồng thời giữa chúng ta cũng không tin lẫn nhau, xưa nay mọi
giải pháp quan trọng của đất nước chúng ta đều trông chờ vào người ngoại quốc,
chớ không tự quyết định số phận của mình.
Mỗi khi nói về
những tệ hại của đất nước VN hiện nay đa số chúng ta thường hay đổ hết trách
nhiệm cho người Cộng Sản. Thật sự CS không phải là thành phần duy nhất chịu
trách nhiệm cho những bi kịch của đất nước hôm nay, họ chỉ là sản phẩm đương
nhiên của một nền văn hóa thiếu lành mạnh. Nếu CS là nguyên nhân của mọi sự xấu
xa thì thành phần người Việt đang sống tại những quốc gia văn minh và giàu có
nhất thế giới như Hoa Kỳ,
Canada, Úc… phải là những người thể hiện nếp sống
văn hóa cao xứng đáng với xã hội văn minh mà họ thừa hưởng. Nhưng không, những
người Việt đó, tuy khá hơn người trong nước nhưng vẫn thua kém nhiều sắc dân
khác, vẫn mang tất cả những khuyết tật mà cụ Phan Bộ Châu, Phan Chu
Trinh đã nêu ra gần một trăm năm trước. Vẫn chia rẽ, vẫn tỵ hiềm
nhau, vẫn xâu xé lẫn nhau, có khi chỉ vì bất đồng quan điểm, có khi chỉ vì một
quyền lợi thật nhỏ, thậm chí có khi chỉ vì một hư danh.
Không phải là một
tình cờ của lịch sử mà chủ nghĩa CS đã dành được những thắng lợi trong
cuộc cách mạnh mùa thu năm 1945, và luôn luôn giữ thế thượng phong trên đất
nước VN từ đó đến nay.[sic] Dân tộc VN đã chọn Hồ Chí Minh thay vì Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim… hoàn toàn không phải vì Hồ
Chí Minh giỏi hơn, yêu nước hơn, nhiệt tình hơn những người kia, nhưng chỉ vì
Hồ Chí Minh đáp ứng đúng tâm lý của người Việt – đó là tâm lý tôn thờ bạo lực.
Chắc chắn không có nước nào trên thế giới này mà bài Quốc Ca có câu
sắt máu như thế này: “Thề phanh thây uống máu quân thù”, mà “quân
thù” đó bất cần là ngoại bang hay đồng bào ruột thịt, nghe mà rợn
người. Khẩu hiệu của phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh vào những năm 1930, 31
do đảng CS lãnh đạo là: Trí, phú, địa, hào -Đào tận gốc trốc tận rễ.
Đối với người VN
bạo lực có sức quyến rũ hơn là nhu cầu khai sáng trí tuệ để giải quyết vấn đề
một cách ôn hòa. Hồ Chí Minh chọn chủ nghĩa CS dựa trên bạo lực cách mạng và
đấu tranh giai cấp. Giải pháp bạo lực này đòi hỏi phải luôn tồn tại một kẻ thù
làm đối tượng. Hết kẻ thù thực dân phải tìm ra một kẻ thù khác để có lý do hành
động, chính vì thế cho nên máu và nước mắt vẫn tiếp tục rơi trên đất nước VN trong
suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Hoàn toàn trái
ngược với Hồ Chí Minh, Phan Chu Trinh chọn giải pháp Khai Dân trí, Chấn
Dân Khí, Hậu Dân sinh. Theo ông, muốn thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang
và sự nghèo khổ lạc hậu, trước hết phải nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ. Dân
trí cao người dân sẽ ý thức được quyền làm người, quyền dân tộc, rồi từ đó sẽ
tranh đấu bằng giải pháp chính trị để giành độc lập. Dân trí thấp kém cho
dù có dành được độc lập thì vẫn tiếp tục là một dân tộc nô lệ ở một hình
thức khác.
Có thể nói trong
lịch sử hiện đại của VN, ông là một trong những người Việt hiếm hoi nhìn ra
nguyên nhân mất nước, nguy cơ dân tộc, không phải ở đâu khác mà là trong
văn hóa, từ văn hóa mà ra.
Sau Đệ Nhị Thế
Chiến có gần 30 nước dành được độc lập, phần lớn không đổ một giọt máu,
chỉ có vài nước chọn chủ nghĩa CS trong đó có VN, phải trả bằng máu và nước mắt
của hàng triệu sinh mạng để cuối cùng trở thành một trong những nước nghèo khổ
và lạc hậu nhất thế giới. Chọn lựa này là chọn lựa của dân tộc của VN chớ không
phải do sức ép của ngoại bang hay một lý do gì khác. Người Cộng sản biến dân
tộc VN trở thành một lực lượng tiên phong trong cuộc tranh chấp giữa hai khối
CS và Tự Do và luôn luôn hãnh diện với thế giới về một dân
tộc “bước ra khỏi cửa là thấy anh hùng”.
Hà Sĩ Phu đã có
nhận xét rất đúng là giữa Hồ Chí Minh và Phan Chu Trinh, dân tộc VN đã chọn Hồ
Chí Minh và những bi kịch của đất nước hôm nay là cái giá phải trả cho sự chọn
lựa đó.
Thật cay đắng cho
những người hết lòng vì nước vì dân như Phan Chu Trinh, mặc dầu nhìn xa thấy
rộng, tư tưởng nhân bản, kiến thức uyên bác, lòng yêu nước và nhiệt
tình có thừa, nhưng cuối cùng Phong Trào Duy Tân của cụ đã thất bại chỉ vì
không được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, ngay cả cụ Phan Bội Châu – một
đồng chí thân thiết với cụ trong nhiều năm cũng không ủng hộ quan
điểm của cụ.
Là một người yêu
nước chân thật ông không tự lừa dối mình và lừa dối dân tộc của mình bằng những
chiêu bài mị dân, những điều tự hào không có thật. Ông là người nhìn thấy được
vấn đề, và cố gắng đi tìm một phương thuốc cứu chữa.
Nhưng tại những
nơi mà lưỡi gươm có tác dụng mạnh hơn ngòi bút thì những tiếng nói nhân bản như
ông trở thành những tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng và ông trở nên lạc
lõng trong một xã hội mà nếp suy nghĩ hủ lậu đã bám rễ quá lâu và quá chặt, trở
thành một căn bệnh trầm kha hủy hoại đất nước và làm cho dân tộc sa vào vòng nô
lệ.
Nhìn qua đất nước
Nhật Bản, một dân tộc có chiều dài lịch sử gần giống như chúng ta, có diện tích
gần bằng, dân số không chênh lệnh mấy (127 triệu so với 87 triệu), cũng chịu
ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Khổng Giáo, không khỏi làm cho chúng ta đau lòng
khi thấy được sự khác biệt quá lớn giữa hai đất nước. Sự khác biệt về kinh tế,
sự giàu có tiện nghi không phải là điều quan trọng, chủ yếu là sự khác biệt về
cách suy nghĩ (mentality) giữa hai dân tộc. Vào thời điểm 1858, khi
người Pháp bắt đầu xăm lăng VN thì dân ta vẫn còn u mê bám vào những
giá trị đã lỗi thời, người Nhật tức thời bỏ những truyền
thống hủ lậu, học hỏi những cái hay của Tây Phương để bắt kịp
họ. Đến thời điểm sau Đệ Nhị Thế Chiến, VN muốn trở
thành biểu tượng của một dân tộc anh hùng, người Nhật biết nuốt nhục của
kẻ thua trận chịu sự đô hộ của Mỹ, tận dụng lòng mã thượng của kẻ chiến
thắng, dồn mọi sinh lực dân tộc để vươn lên thành một cường quốc kinh
tế.
Tại sao lại có sự
khác biệt như vậy? Những nghiên cứu công phu và nghiêm chỉnh của các cơ quan
quốc tế gần đây như Cơ quan Phát Triển Liên Hiệp Quốc (United Nations
Development Program – UNDP) đã chứng minh một cách thuyết phục rằng sự chênh
lệnh giàu nghèo giữa các quốc gia chủ yếu không phải do yếu tố địa lý, tài
nguyên thiên nhiên, tôn giáo, chủng tộc… mà chủ yếu là do yếu tố văn hóa. Văn
hóa quyết định tất cả. Văn hóa tạo ra nếp suy nghĩ (mentality) của
mỗi dân tộc, và chính nếp suy nghĩ này làm cho mỗi dân tộc có ứng xử khác nhau
khi đương đầu với cùng một thử thách.
Tại sao có những
dân tộc mà quan chức chính phủ tham nhũng cả hàng triệu đô la như ở các nước
Phi Châu hay VN ngày nay mà mọi người vẫn xem đó là chuyện bình thường, trong
lúc đó tại một nước khác – một bộ trưởng chỉ vì nhầm lẫn nhận 600 đô cho quỹ
tranh cử đã phải xin lỗi quốc dân rồi từ chức?(1) Tại sao một quốc gia nhỏ bé
như Do Thái chưa tới 3 triệu dân (2) có thể chiến thắng cả khối Á Rập trong
cuộc chiến năm 1967 và tồn tại vững mạnh cho đến ngày hôm nay? Trong lúc
đó có những nền văn minh đã từng một thời ngự trị thế giới mà ngày nay
biến mất … và còn cả ngàn thí dụ khác để chứng minh rằng chính yếu tố
văn hóa quyết định sự tồn vong và sự lớn bé của mỗi dân tộc.
Những dân tộc như
Đức, Nhật, Do Thái, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Hoa Kỳ… cho dù bị thiên tai tàn phá đến
đâu, cho dù sống ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn có thể vươn trở thành
những nước giàu mạnh, trái lại những xứ như Iraq, Nigeria, Venezuela, Angola,
Libya… mặc dầu tràn ngập dầu hỏa nhưng vẫn là những nước nghèo.
Bước ngoặc quan
trọng nhất đã làm thay đổi khoảng cách giữa ta và Nhật chính là cuộc cách mạng
Duy Tân tại Nhật bắt đầu từ năm 1868. Trong lúc người Nhật tức thời thay đổi
thì các vua chúa VN vẫn còn ngủ mê bên trong các bức tường cung điện ở Huế. Họ
không thấy được thế giới đã thay đổi, vẫn tiếp tục tôn sùng và thần tượng Trung
Hoa trong lúc nước này đã bị thua thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương.
Vào tháng 7 năm
1853 khi triều đình Tokugawa từ chối không cho Thuyền trưởng người Mỹ Mathew
Perry lên bờ để trao bức thư của Tổng Thống Fillmore, ông ra lệnh bắn vào
thành phố Edo (Tokyo ngày nay). Những quả đại bác này đã làm cho người Nhật
thức tỉnh ngay. Lòng ái quốc và niềm tự hào dân tộc đã làm cho họ đoàn kết lại
để tìm cách giúp đất nước thoát khỏi nguy cơ nô lệ. Chính sự thức tỉnh này đã
mở đầu cuộc cách mạng Minh Trị Duy Tân kéo dài 44 năm. Đó là một cuộc cách mạnh
đúng nghĩa, một cuộc cách mạng triệt để, họ làm đến nơi đến chốn, kẻ đi Mỹ,
người đi Âu Châu, kẻ đi chính thức người đi lậu bằng cách trốn xuống tàu buôn
Tây Phương như trường hợp của thần đồng Yoshida Shôin, tất cả đều cùng một
mục đích là tìm đến tận nguồn cội của nền văn minh để học hỏi những cái tinh
túy mang về thay đổi đất nước. Họ từ bỏ một cách dứt khoát tất cả những cái cũ
không còn hợp nhưng không để mất tinh thần độc lập. Họ không phải chỉ có một
ông vua Minh Trị hết lòng yêu nước mà cả trăm ngàn những tấm lòng như thế quyết
tâm đưa nước Nhật lên vị trí ngang hàng với các nước Tây Phương.
Khi nói đến cuộc
Duy Tân Minh Trị nhiều người vẫn lầm tưởng đó là cuộc cách mạng kỹ nghệ, mở cửa
để giao thương và học hỏi kỹ thuật của Phương Tây. Thật sự không phải như thế,
học hỏi kỹ thuật chỉ là mặt nổi, chủ yếu là người Nhật học hỏi những tinh túy
về tư tưởng của người Tây Phương để khai sáng trí tuệ cho dân tộc của họ.
Chỉ có vài quả bom
của Thuyền Trưởng Mathew Perry đã làm cho người Nhật thức tỉnh, trong
lúc đó nhìn lại đất nước chúng ta, kể từ thời điểm 1853 cho đến hôm nay đã có
hàng trăm ngàn quả bom đã rơi xuống đất nước Việt Nam, không những chỉ tàn phá
hình hài đất nước mà còn làm tan nát tâm hồn dân tộc với bao sự ngậm ngùi, nhục
nhã đắng cay của một dân tộc nhược tiểu. Nhưng tất cả những nỗi đau đó vẫn chưa
đủ để làm cho người Việt thức tỉnh, để thấy cần phải có một nhu cầu thay đổi
cần thiết như người Nhật đã làm từ giữa thế kỷ thứ kỷ 19.
Vào tháng 8 năm
1858 người Pháp bắt đầu cuộc chiến xăm lăng đất nước VN, trước đó vào mùa thu
năm 1847 để phản đối chính sách cấm đạo của vua Thiệu Trị, Trung tướng Rigault
de Genouilly đã bắn chìm 5 chiếc thuyền của Việt Nam, năm 1842 Trung Hoa đã bại
trận thê thảm trước sức mạnh của Tây Phương trong cuộc chiến Nha Phiến. Nhưng
tiếc thay tất cả những dấu hiệu cảnh cáo đó vẫn chưa đủ để làm cho triều đình
nhà Nguyễn thức tỉnh. Đến lúc đó họ vẫn không nhận ra rằng đất nước đang đứng
trước khúc quanh của lịch sử. Từ thời điểm năm 1842 hay 1847 cho đến 1858, đó
là một khoảng thời gian rất dài (14 năm), nếu các vua nhà Nguyễn thức thời,
khôn khéo như các vua chúa Nhật Bản thì đất nước chúng ta đâu phải chịu 80 năm
đô hộ của người Pháp và đâu phải chịu tai họa Cộng Sản kéo dài đến hôm
nay.
Phạm Hoài Nam
Ghi chú:
(1) Ngoại trưởng
Nhật Seiji Maehara từ chức ngày 6 Tháng Ba 2011 vì nhận 600 Mỹ kim cho quỹ
chính trị từ một người ngoại quốc.
(2) Dân số Do Thái
vào thời điểm 1967 là 2.7 triệu người.
No comments:
Post a Comment