FORD VÀ KISS PHỦI ĐÍT KHỎI VIỆT NAM
Tâm trạng chán nản,
thất vọng, lo âu là điểm chung không thể giấu giếm hiện rõ trên nét mặt những
nhân vật quyền lực của chính quyền Mỹ vào đầu thập niên 70, đã được ghi lại qua những
bức ảnh quý giá vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh dai dẳng, đẫm
máu ở Việt Nam.
Lời tự thuật của nhiếp ảnh gia David Hume Kennerly:
Tôi may mắn có
vị trí "tác nghiệp" đắt giá trong thời gian kết thúc của cuộc Chiến tranh ở Việt Nam, cuộc chiến tranh mà tôi đã dành hơn 2 năm
cuộc đời lăn lộn trên các chiến trường ở mảnh đất này.
Câu chuyện Việt
Nam của tôi bắt đầu vào đầu năm 1971, khi Hãng tin thông tấn quốc tế (UPI) giao
cho tôi tiếp nhiệm văn phòng ở Sài Gòn để thay thế cho nhiếp ảnh gia Kent
Potter. Khi đó, Kent Potter dự trù sẽ quay trở về nhà nhưng ông ấy
không bao giờ có cơ hội đó nữa. Ngày 10/2/1971, Potter và 3 nhiếp ảnh gia khác
đã thiệt mạng sau khi chiếc trực thăng chở họ bị bắn rơi ở Lào trong chiến dịch Lam
Sơn 719 của quân đội VNCH. Cùng trên chuyến bay này còn có phóng viên Larry
Burrows của tờ Life, Henri Huet của AP, và Keisaburo Shimamoto của Newsweek: Tất cả đều tử vong.
Tôi không quen
biết ai trong số những nhiếp ảnh gia này, nhưng Burrows là thần tượng của cá
nhân tôi, những bức ảnh của ông là nguồn cảm hứng ccủa tôi tham
gia vào cuộc chiến với tư cách phóng viên nhiếp ảnh.
Một vài tuần sau
đó, tôi đã nằm trong một kế hoạch ràng buộc chặt với thành phố Sài Gòn. Tôi đã
dành hơn hai năm chụp ảnh chiến tranh ở Đông Dương, năm 1972 tôi nhận
được giải Pulitzer cho những bức ảnh của tôi tại Việt Nam, Cam Bốt và Ấn Độ,
nơi tôi chụp về những người tị nạn chạy trốn qua biên giới từ Đông Pakistan.
Việt Nam đã trở thành một phần của trong máu thịt
của tôi; tất cả mọi điều xảy ra với tôi kể từ đó đã trở thành kinh nghiệm sống
và làm việc. Tôi mới 24 tuổi, và năm đầu tiên của tôi là một nhiếp ảnh gia
trong một chiến trường ác liệt. Có nhiều sự việc vô cùng nguy hiểm đã xảy ra và
tôi đã từng nghĩ rằng, tôi sẽ không thể đón sinh nhật thứ 25. Vì thế, khi tôi
tổ chức sinh nhật ở Sài Gòn, tôi cảm thấy mỗi người quanh tôi là một phần
thưởng thật sự. Cho đến nay, vận may sống sót đó đã bổ sung thêm vào cuộc đời
tôi 43 năm nữa! Tôi đã cố gắng sử dụng những năm tháng đó thật tốt.
Tôi trở về Mỹ vào
giữa năm 1973, làm việc cho tạp chí Time. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của
tôi là vụ tai tiếng “Watergate”, tôi cũng đã được phân công để chụp hình nhà
lãnh đạo nhóm thiểu số Gerald R. Ford khi Phó Tổng thống Spiro Agnew từ chức
vào mùa thu năm đó.
Một bức chân dung
mà tôi đã chụp ông Ford được in trên trang bìa của tạp chí Time khi Nixon tuyên
bố rằng ông sẽ thay thế Agnew làm phó tổng thống mới. Tiếp sau đó tôi đã dành
hoàn toàn thời gian cho Ford.
Khi Tổng thống Nixon từ chức, ông Ford lên thay thế. Ông ấy đã chỉ định tôi là nhiếp ảnh gia chính
của ông. Với công việc này tôi có quyền thâm nhập mọi nơi, không chỉ theo sát
hoạt động của Tổng thống và gia đình, mà tất cả những gì diễn ra đằng sau hậu
trường. Đây là một vinh dự, và một công việc cực kỳ thú vị, đồng thời cũng
là thời gian hoạt chuyên nghiệp và bổ ích cá nhân nhất trong cuộc đời tôi. Ngày
3/3/1975, 6 tháng sau khi Tổng thống Ford nhậm chức, tình hình miền Nam bắt
đầu căng thẳng hơn khi Cộng quân tấn công thành phố Ban Mê Thuột tỉnh Tây
Nguyên.
Sau vài ngày chiến
đấu ác liệt, quân đội Mỹ tại Sài Gòn đã phải chịu hàng ngàn thương vong, Cộng
quân tiến vào thành phố trọng điểm. Đây là khởi đầu của sự kết thúc chính quyền
VNCH. Khi đến Bạch Ốc, tôi được trao một cơ hội tuyệt vời để
quan sát cuộc chiến tranh từ bên trong sảnh đường quyền lực. Vị thế đặc biệt
này cho tôi một chuyến đi bí mật trở lại Việt Nam qua một đặc vụ mà Tổng thống
Ford giao phó, và sau đó trở lại Bạch Ốc cho đêm chung kết của bộ phim truyền hình
dài tập đẫm máu Việt Nam.
Những ngày cuối cùng của tháng 4/1975 là những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh địa ngục ở Việt Nam. Tôi hầu như không ngủ, và cố gắng chụp hình mỗi phút có thể trong những ngày cuối cùng căng thẳng.
Những ngày cuối cùng của tháng 4/1975 là những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh địa ngục ở Việt Nam. Tôi hầu như không ngủ, và cố gắng chụp hình mỗi phút có thể trong những ngày cuối cùng căng thẳng.
25/3/1975: Tổng thống nói với Weyand - Tham mưu
trưởng của Lục quân Hoa Kỳ: "Anh hãy đi với ngài đại sứ. Đây là một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhất của anh. Anh đừng để mất nhiều thời gian - hãy
nghiên cứu tình huống và xem liệu chúng ta có thể làm gì", Tổng thống tiếp
tục: "Chúng tôi muốn anh góp ý về những điều mà có thể gây sốc cho miền
Bắc. "Tôi lấy làm tiếc tôi không có quyền làm một số việc mà Tổng thống Nixon
có thể làm". Kissinger nói: "Tình hình thực tế và lý do tại sao, là
gì? Có thể làm gì?" Weyand hứa: "Chúng tôi sẽ mang về một đánh giá
chung và cung cấp một cái nhìn chính xác nhất về tình hình hiện nay".
25/3/1975: Sau khi các giới chức ra về, tôi chụp bức
ảnh này khi Tổng thống còn một mình trong văn phòng: Rõ ràng ông rất thất vọng.
Chúng tôi đã nói chuyện về chuyến đi, tôi nói với ông rằng, tôi có kinh nghiệm
ở Việt Nam, tôi muốn đi cùng Weyand. Tổng thống đồng
ý và nói rằng ông sẽ chờ tôi cung cấp cho ông ta một quan điểm khách quan và
thẳng thắn khi tôi trở lại. Văn phòng của tôi ở tầng trệt của Bạch Ốc, tôi trở
về và nói với nhân viên rằng tôi sẽ đi vào ngày hôm sau. Tôi treo
một dấu hiệu trên cánh cửa của tôi và nói: "Tôi đến Việt Nam, sẽ trở lại trong 2 tuần". Nhân viên
của tôi nghĩ rằng tôi đã nói đùa cho đến khi tôi không quay lại văn phòng trong
gần 2 tuần sau đó. Tối hôm ấy, tôi đã đi để nói lời tạm biệt với gia đình Ford
và đề nghị tổng thống cho vay một khoản tiền. Đó là những ngày trước khi có ATM.
"Các ngân hàng đã đóng cửa, tôi sẽ đi trước khi họ mở cửa", tôi nói.
Ford lôi tất cả những đồng tiền trong ví của mình. "Ở đây là 47USD",
ông chìa ra cho tôi xem.
26/3/1975: Trên
chiếc máy bay C-141, đã hai lần dừng tiếp nhiên liệu ở Anchorage và Tokyo
trước khi đến Sài Gòn 24 giờ sau đó, của Tướng Weyand có Ken Quinn, nhân viên
của Hội đồng An ninh Quốc gia, chuyên về khu vực Đông Nam Á, ông George Carver
và Ted Shackley, hai giới chức cấp cao của CIA. Ken và một số nhân viên Hội
đồng an ninh quốc gia (NSC) đang điều khiển một mạng lưới ngầm hiệu quả, rộng
lớn và hoàn toàn không chính thức tản cư ngàn người Việt Nam ra khỏi đất nước an toàn. Đại sứ Mỹ cho
biết sẽ không có cuộc tắm máu trả thù nếu Cộng quân tiến vào miền Nam.
29/03/1975: Tôi
không phải là thành phần trong cuộc họp chính thức của Weyand, nhưng
tôi có một chỉ thị cá nhân của Tổng thống Ford xem xét và đưa ra quan điểm của
riêng tôi về tình hình. Tôi đã gặp Montcrieff Spear, Tổng lãnh sự Mỹ tại Nha
Trang, khi ông này chuẩn bị rời khỏi Việt Nam. Vợ ông đang xếp hành lý khi tôi đến.
Tuy nhiên, trước khi ông đi, ông ta cần phải tìm thấy đồng nghiệp của ông là
tổng lãnh sự Al Francis, người đã rời khỏi Đà Nẵng.
30/3/1975: Spear và tôi lấy một chiếc trực thăng của
hãng hàng không Air America đến Vịnh Cam Ranh để tìm kiếm Francis, lúc
này đã chạy trốn khỏi Đà Nẵng bằng một con tàu bị uy hiếp bởi binh sĩ Nam Việt.
Một con tàu lớn chen chúc hàng ngàn binh lính, một vài người trong số họ trong
tình trạng thất vọng đã bắn vào trực thăng mang cờ Mỹ của chúng tôi.
30/3/1975: Francis đã trốn thoát trên một chiếc tàu
kéo, chúng tôi đã phát giác ra ông ta. Ông vẫy tay khi chúng tôi bay qua, chúng
tôi hạ cánh tại vịnh Cam Ranh đón ông ta, chúng tôi đưa ông và Spear quay trở
lại Sài Gòn bằng đường vòng qua Phnom Penh.
31/3/1975: Tôi ở Việt Nam theo mệnh lệnh Tổng thống, sau đó bay đến Phnom Penh bằng máy bay của Air America! Sân bay Pochentong bị gần như đóng cửa
trước hỏa lực pháo binh, tôi gặp Matt Franjola, phóng viên và cũng là người bạn
cũ từ Liên đoàn báo chí (AP) đến đón tôi. Ông ngồi trong chiếc xe jeep, lãnh
đạm như mọi khi ngay cả khi hỏa tiễn phát nổ gần đó. Ông đưa tôi đi uống tại
khách sạn cũ Lê Phnom, nơi mà tôi đã hưởng thụ một ngày đặc biệt với Martini và
súng cối.
31/3/1975: Sáu giờ
chiều, Matt chở tôi đến Đại sứ quán Mỹ, nơi tôi tham gia một cuộc họp bí mật về
tình hình nghiêm trọng tại Cam Bốt của Đại sứ Mỹ John Gunther Dean và các nhân
viên. Tại trung tâm hoạt động chiến thuật, bản đồ cho thấy mũi tên màu đỏ lớn
của lực lượng Khmer Đỏ đến từ mọi hướng về phía thủ đô Phnom Penh. Chúng tôi đã bị bao vây. Các nhân viên
đại sứ quán đã được chuẩn bị một cuộc di cư bằng trực thăng dành riêng cho công
dân Hoa Kỳ và một số nước đồng minh nếu tình hình xấu hơn nữa.
31/03/1975: Tôi đã thực hiện một bức chân dung của
một em bé tị nạn Cam Bốt trong hàng ngàn người chen chúc tại một khách sạn đổ
nát bên bờ sông Mekong. Tôi thấy em bé đeo một cái thẻ bài. Hình
ảnh của cô bé là biểu tượng tất cả những đau khổ mà trẻ em trên toàn thế giới
vì cuộc chiến tranh vô nghĩa. Tôi luôn bị ám ảnh bởi khuôn mặt của em bé và
thậm chí khi du lịch tới Phnom Penh vài năm trước, tôi đã thử tìm em bé này,
nhưng không có may mắn gặp lại.
Ngày 3/4/1975: Tôi
trở về Sài Gòn trong thời gian tham dự một cuộc họp mà tại đó Weyand và đoàn
của ông trao đổi nhiều vấn đề quan trọng cùng Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tại Dinh Độc Lập. Đây là cuộc họp
không hề dễ chịu. Tôi đã chụp một bức ảnh của ông Thiệu tại bàn làm việc với một
bức tranh truyền thống Việt Nam treo đằng sau. Tôi tự hỏi ông ta còn ngồi
bao lâu trong cái ghế đó? Chỉ 18 ngày sau đó.
Ngày 5/4/1975: Weyand trình bày ý kiến của mình cho TT. Ford
tại tư gia của ông ở Palm Springs, California. Weyand không lạc quan, nhưng ông đưa ra một vài cơ may có thể ngăn chặn cuộc tấn công của Cộng quân nếu Quốc hội
phân bổ ngân sách để giúp đỡ đồng minh. Tổng thống rõ ràng không hài lòng với
những gì vừa nghe được.
Ngày 5/4/1975: Tôi mang theo những bức ảnh đen trắng mà
tôi chụp được tại Việt Nam và tôi đã trình bày với ông Ford những nhìn nhận
cực kỳ khó lọt tai tổng thống qua từng bức ảnh. Tôi trình bày: "Bất cứ ai
nói với ông rằng VNCH có thể trụ vững 3, 4 tuần hay hơn nữa, người đó đang lừa
dối ông".
Hai hoặc ba ngày sau đó những bức ảnh đen trắng này đã thay thế hoàn toàn các bức ảnh mầu trang trí trên West Wing cảnh cáo về kết thúc của cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Cam Bốt. Tất cả mọi người đã biết về điều này.
Hai hoặc ba ngày sau đó những bức ảnh đen trắng này đã thay thế hoàn toàn các bức ảnh mầu trang trí trên West Wing cảnh cáo về kết thúc của cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Cam Bốt. Tất cả mọi người đã biết về điều này.
Trong bức ảnh hiếm
có này, các giới chức CIA trực tiếp tóm tắt tình hình cho tổng thống, có mặt
trong cuộc họp là Giám đốc đơn vị tình báo CIA khu vực Đông Á Ted Shackley và
Phó Giám đốc phụ trách các văn phòng tình báo an ninh quốc gia George Carver
đang cân nhắc và đưa ra cho tổng thống những đánh giá sơ lược.
Ngày 5/4/1975:
Tổng thống và phu nhân bay đến San Francisco sau cuộc họp của ông với Tướng
Weyand và các cộng sự để chào đón một chuyến bay chở trẻ mồ côi Việt đến Mỹ -
một phần của Chiến dịch Babylift, tản cư trẻ em từ khu vực Đông Nam Á. Khi
chuyến bay cuối cùng ra khỏi miền Nam, Mỹ đã di tản hơn 3,300 trẻ sơ sinh và
trẻ em. Cùng với các cuộc di tản khác, hơn 110,000 người tị nạn đã tản cư khỏi Nam
Việt vào thời điểm cuối cuộc chiến tranh.
Ngày 11/4/1975: Lo lắng hiện rõ trên nét
mặt TT. Ford khi ông ra lệnh thực hiện chiến dịch Eagle Pull, tản cư tất cả người Mỹ khỏi Cam
Bốt. Ngày 21/4, hơn một tuần sau khi chiến dịch ở Cam Bốt được hoàn tất, Ông Ford và ông Kissinger tập trung vào các vấn đề tại Việt Nam. Kissinger cho biết ông đã nói chuyện với
Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin, cố gắng sắp xếp một cuộc ngừng bắn để người Mỹ
ra đi. Tổng thống Ford thảo luận với Đại sứ Mỹ tại VNCH Martin về vấn đề di
tản. Ngày 23/4, tình hình ở Việt Nam đã rõ ràng đối với tổng thống, ông không
ngại ngùng thừa nhận một thực tế, người Mỹ phải ra đi. Lần đầu tiên ông đã công
khai thừa nhận, chiến tranh đã "kết thúc".
Ngày 24/4/1975: Trong một cuộc họp của Ủy Ban Chỉ đạo về
tình hình Việt Nam, tổng thống đã nói với Schlesinger rằng
còn khoảng 1,700 người Mỹ ở Sài Gòn. Ông muốn con số đó xuống 1,090 vào ngày
hôm sau. Schlesinger nói: "Con số này là quá nhiều trong một ngày".
Tổng thống tức tối: "Đó là những gì tôi đã ra lệnh".
21h15 ngày 28/4/1975: Tổng thống của Hoa Kỳ là người có tiếng
nói cuối cùng về các quyết định lớn. Tôi luôn luôn tìm thấy nhân văn là
nền tảng của mọi phán quyết của Tổng thống Ford vào lúc này. Đêm ấy, ông đã
thực hiện một trong những quyết định khó khăn nhất của cuộc đời mình. Ông ngồi
đăm chiêu cùng vợ, đệ nhất phu nhân Betty Ford. Ông đang phải ra một quyết định
rất khó khăn nhưng cần thiết.
22h28 ngày
28/4/1975: Điều không ai muốn nghe đã nhanh chóng lan đi, Henry Kissinger báo
cáo rằng các đường băng tại Tân Sơn Nhất không thể được sử dụng để di tản được.
Tệ hơn nữa, người dân đã vượt khỏi rào kiểm soát và đứng tràn các đường băng,
nên máy bay không thể cất - hạ cánh. Đã đến lúc xem xét thực hiện đề án
cuối cùng: Chiến dịch Gió Lốc
22h33 ngày 28/4/1975: Mỹ đã thua cuộc chiến Việt Nam - thực tế hiển nhiên không thể thay đổi
được. Ford ra lệnh thực hiện các chiến dịch gió lốc, chiến dịch di tản cuối
cùng của Mỹ ở Việt Nam. Chỉ duy có Betty Ford và tôi ở trong
phòng cùng tổng thống khi ông thực hiện các cuộc điện đàm. Ông không còn có sự lựa
chọn nào khác.
11h38 ngày 29/4/1975: Trước cuộc họp của các nhà lãnh đạo cả
hai đảng trong phòng Nội Các, Tổng thống ngồi cùng với Thượng nghị sĩ Robert
Byrd của TB. West Virginia. Cuộc họp được tổ chức để giải quyết các vấn đề tài trợ tản
cư. Tổng thống thông báo rằng hơn 45,000 người đã được đưa khỏi Việt Nam trong vài ngày qua. Được biết, đến năm
1980 số lượng người Việt Nam đến Hoa Kỳ là hơn 230,000 người.
16h21 ngày 29/4/1975: Kissinger luôn trong trạng thái bận rộn,
không ngừng nghỉ để giải quyết các vấn đề phát sinh từ Chiến dịch gió lốc. Suốt
ngày hôm ấy, Đại sứ Martin đã đề nghị bổ sung thêm trực thăng để tản cư người
từ Việt Nam, nhưng thời gian và sự kiên nhẫn của ông
đã hết.
16h23 ngày 29/4/1975: Kissinger xông vào cuộc họp kinh tế của
tổng thống và báo cáo rằng cuộc di tản của Sài Gòn đã gần như hoàn tất. Thực
tế, lịch làm việc của tổng thống cho ngày hôm đó đã có nhiều cuộc họp liên quan
đến tình hình Việt Nam, nhưng không nhiều người được biết.
20h11 ngày 29/4/1975: Một vài phút sau, Ford quay trở lại dùng
bữa tối với vua Hussein. Bây giờ là thời gian cho bánh mì nướng. Tổng thống
nâng ly và nói chuyện về những mối quan hệ gần gũi và quan trọng với Quốc Vương
Jordan. Họ cụng ly, uống một ngụm, tất cả mọi
người hoan nghênh. Chữ "Việt Nam" không bao giờ được đề cập đến nữa.
No comments:
Post a Comment