Tình
hình chiến sự ngày một căng thẳng. Tin các trận đánh khốc liệt tại các
tỉnh ven biên dồn dập gia tăng. Lệnh cấm trại 100% buộc mọi nhân viên
không được rời nhiệm sở.
Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21-4-1975 và trao quyền cho Phó Tổng Thống
Trần Văn Hương. Đến ngày 28-4-1975 Tổng Thống Trần Văn Hương lại nhường
quyền cho Tướng Dương Văn Minh điều hành miền Nam, với tin tưởng Tướng Minh có
thể “dàn xếp” với cộng sản Hà Nội, hầu thực hiện cuộc hòa giải.
Khi
Thủ Tướng Vũ văn Mẫu lên tiếng yêu cầu người Mỹ rời khỏi miền Nam trong vòng 24
giờ, theo điều kiện của Hà Nội, với hy vọng nói chuyện hòa giải giữa hai miền
Nam-Bắc, đã báo trước sự sống còn của miền Nam chỉ tính từng ngày. Thật
là một hành động vô ích, khi đoàn quân xâm lăng cộng sản miền Bắc đã cận kề
miếng mồi béo bở miền Nam mà họ quyết tâm chiếm đoạt. Người miền Nam đã
“bỏ của chạy lấy người”, bỏ phiếu bằng chân, theo nhau ra biển.
Ngày 30-4-1975, miền Nam
mất vào tay CS Hà Nội. Theo thông báo của Ban Quân Quản, thành phần cán
bộ thuộc Tổng Nha XDNT[1] phải trình diện tại Bộ Nội Vụ vào sáng
ngày 2-5. Chúng tôi gặp cán bộ Đỗ Việt, đại diện Ban Quân quản tiếp thu
Bộ Nội Vụ. Trong buổi trình diện, cán bộ Đỗ Việt nói một câu mà không bao
giờ tôi quên: “Tới bất cứ nơi nào mà gặp Cán bộ Áo đen các anh, là chúng tôi
phải chuyển quân ngay, nếu không trước sau cũng bị các anh phát hiện”. Điều
này đã chứng tỏ sự hữu hiệu trong công tác loại bỏ thành phần cộng sản hoạt
động nằm vùng tại miền Nam của cán bộ XDNT.
Câu
nói thật đơn giản, thể hiện thành kiến thù hận như “nước với lửa”, và một chính
sách khắc nghiệt sẽ quyết định số phận của thành phần cán bộ áo đen, mà bản
chất của người cộng sản vốn chỉ “bắt lầm chứ không tha lầm”. Mặc dù không
phải là cuộc tắm máu như nhiều người liên tưởng, nhưng hành động trả thù tàn
nhẫn của CS đang chờ đợi người cán bộ áo đen.
*
Sau
Hiệp định Genève chia đôi đất nước vào ngày 20-7-1954, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh
giới hai miền Nam Bắc, gần một triệu người miền Bắc di cư vào miền Nam, trở
thành một cuộc di cư lớn nhất lịch sử nhân loại. Miền Bắc do cộng sản cai
trị, còn miền Nam theo chế độ tự do, dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Thủ Tướng
ngô Đình Diệm.
Cuộc
Di cư lớn nhất lịch sử
Chính quyền mới miền Nam được thành lập, chịu
trách nhiệm tiếp đón và định cư còn việc chuyên chở những người di cư do chính
phủ Pháp, Hoa Kỳ phụ trách và các tổ chức tư nhân yểm trợ. Chuyến tầu đầu
tiên mang tên Anna Salen của Thụy Điển, chở 2.000 người tị nạn đã rời miền Bắc
vào ngày 17-7-1954 và cặp bến Sài Gòn ngày 21-7-1954. Tiếp theo là các
phương tiện di chuyển bằng hàng không và đường thủy của chính phủ Hoa Kỳ của
một số quốc gia, đã chở người tị nạn vào Nam.
Về
phía Hoa Kỳ, đoàn tầu đặc nhiệm thuộc Hạm Đội 7, dưới quyền điều khiển của
Tướng Lorenzo Sabin, đã chuyên chở 100.000 người mỗi tháng, gồm các tầu Marine
Serpent, U.S.S Menard, General A.W. Brewster… Đường hàng không cũng được tận
dụng để chuyên chở những người di cư.
Theo
thống kê của Phủ Tổng ủy Di Cư và Tị Nạn, trong vòng 10 tháng từ ngày 20-7-1954
đến ngày 19-5-1955, tổng số dân rời miền Bắc vào Nam là 875,478 người, trong đó
có 871,533 người đi trước ngày 19-5-1955, và 3,945 người đi trong thời gian gia
hạn. Sau thời gian hết hạn di cư theo Hiệp Định Genève, số người vượt
tuyến theo đường bộ xuyên rừng qua Lào lên tới 76,000 người, đã nâng tổng số
người tị nạn từ miền Bắc vào miền Nam lên gần 950,000 người.
Để
ổn định đời sống cho những người di cư ngày một gia tăng, chính quyền của Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm đã thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tị Nạn với Nghị Định số
928-NV ký ngày 17-9-1954 do ông Ngô Ngọc Đối làm Tổng Ủy Trưởng. Song
song với các cơ quan về di cư và định cư của chính phủ, còn có các tổ chức hỗ
trợ tư nhân như Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư do Giám Mục Phạm Ngọc Chi điều khiển, đã
đưa người di cư tới các trung tâm tạm cư nằm rải rác tại một số địa phương, đơn
cử như Hố Nai, Gia Kiệm Long Khánh…
Khu
Trù Mật
Sự
khó khăn trước tiên của chính phủ miền Nam là phải ổn định đời sống của gần một
triệu người di cư từ phía Bắc vĩ tuyến 17, nhất là phải tảo thanh tàn dư của
chế độ thực dân Pháp còn lại tại miền Nam như Bình Xuyên-Bẩy Viễn, và các lực
lượng phá hoại của Ba Cụt, Năm Lửa… Về tổ chức đời sống xã hội cho người di cư,
chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã xây dựng hàng ngàn khu Trù Mật tại
một số tỉnh miền Nam như Vị Thanh, Hòa Lựu… Vào lúc này, sau khi Hà Nội đưa một
số cán bộ cộng sản miền Nam tập kết ra Bắc nhưng gia đình, thân nhân của thành
phần tập kết còn ở lại tại miền Nam. Số người này đã trở thành một lực
lượng nằm vùng đáng kể của chính quyền miền Bắc, và là nơi che dấu, yểm trợ cho
các cán bộ miền Bắc vào hoạt động tại miền Nam. Với ý định xâm chiếm miền
Nam, cộng sản Hà Nội đã thành lập “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam” vào
tháng 12 năm 1960.
Ấp
Chiến lược
Vào
cuối năm 1961, Tổng Thống Kennedy cử ông Roger Hilsman tới Việt Nam để định giá
về tình hình miền Nam. Ông Roger Hilsman gặp Sir Robert Thompson, đã đề
nghị với Tổng Thống Ngô Đình Diệm về hệ thống Ấp Chiến Lược, nhằm ổn định tình
trạng an ninh vùng nông thôn Việt Nam. Vào tháng 2 năm 1962, Roger
Hilsman đưa ra chương trình Ấp Chiến Lược (A Strategic Concept for South
Vietnam) đã được Tổng Thống Kennedy và Tổng Thống Ngô Đình Diệm phê
chuẩn. Trong bài diễn văn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đọc vào tháng
4-1962, đã nhấn mạnh tới những yếu tố căn bản là phải loại trừ ba kẻ thù: “chậm
tiến, chia rẽ và cộng sản” [2].
Ấp
Chiến lược được thực hiện với mục tiêu là tập trung số dân tại các vùng hẻo
lánh về sinh sống tại những địa điểm này, hầu bảo vệ họ và cô lập, loại trừ
thành phần cộng sản xâm nhập phá hoại đời sống của người dân.
Ấp
Chiến Lược được nâng lên hàng quốc sách dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Theo
nhận định của ông Ngô Đình Nhu, muốn củng cố sự toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân
tộc và chủ quyền quốc gia, phải loại bỏ được sự chậm tiến và chia rẽ, cũng như
chế độ cộng sản, một thứ tay sai ngoại bang.
Với
những ưu điểm của Ấp Chiến Lược, theo ký giả Suzanne Labin, “Ấp Chiến Lược quy
tụ những hộ gia đình sống rải rác dọc theo các con kênh hay làng mạc hẻo lánh
vào ấp, một nơi với hàng rào tre vót nhọn hay kẽm gai, đã chặn đứng CS đột nhập
vào ban đêm.” Người dân trong ấp được đoàn ngũ hóa theo tuổi tác để có
khả năng tự vệ. Ấp Chiến Lược đã trở thành một tiền đồn chống lại bước
tiến của cộng sản.
Chính
sách Ấp Chiến Lược cũng được sự cố vấn của Sir Robert Thompson, một chuyên viên
về chiến thuật chống nổi dậy. Đầu năm 1963, một toán thuộc Lực Lượng Đặc
Biệt VNCH được chỉ thị lập trại tại Kannack thuộc quận An Túc-An Khê-tỉnh Bình
Định, và toán cố vấn người Anh do ông Richard Noone làm trưởng toán, với mục
đích hỗ trợ quận gom dân gốc Bahnar về Kannack. Sau 6 tháng ở Kannack, cả
toán đã rời đi Plateau GI, thuộc quận Chương Nghĩa, phía Bắc tỉnh Kontum.
Công tác lập ấp ở đây bị ngưng sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị sát hại vào
tháng 10-1963.
Nông
thôn miền Nam
Trong thời gian từ 1954-1963, đời sống kinh tế
xã hội miền Nam hoàn toàn thay đổi. Với Dụ số 2 và số 7, chương trình Cải
Cách Điền Địa đã thiết lập quy chế tá canh. Ngày 22-10-1956, Tổng Thống
Ngô Đình Diệm ban hành Dụ số 57, mỗi điền chủ chỉ được phép giữ 100 mẫu ruộng,
trong đó 30 mẫu được trực canh, còn 70 mẫu phải cho tá điền thuê theo tá
canh. Số ruộng của điền chủ bị truất hữu sẽ được chính phủ bồi
thường. Số ruộng này được bán cho tá điền mỗi gia đình 5 mẫu, trả góp
trong 12 năm. Giới điền chủ đã thực tâm ủng hộ chính sách Cải Cách Ruộng
Đất, vì họ được đền bù những ruộng đất đã bị mất mát vì chiến tranh.
Sau
cuộc đảo chính 1-11-1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu bị giết
hại, nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã chấm dứt. 16.000 Ấp Chiến Lược bị hủy bỏ bởi
sắc luật số 103/SL/CT do Thủ Tướng Nguyễn Khánh ký ngày 9-3-1964, khiến cộng
sản Hà Nội có cơ hội tạo ra những trận đánh khốc liệt hầu tiến chiếm miền
Nam như Tết Mậu Thân năm 1968 và Mùa Hè đỏ lửa năm 1972.
Khi
hai ông Diệm và Nhu bị sát hại, Ellen J. Hammer đã ghi lại trong tác phẩm “A
Death in November” cho biết : “Đài phát thanh Hà Nội đã trích dẫn báo Nhân Dân
cho rằng, sự lật đổ Ngô Đình Diệm và em ông là Ngô Đình Nhu, tụi đế quốc Mỹ đã
tự mình hủy diệt những cơ sở chính trị mà họ đã mất biết bao năm để xây dựng.”[3]
Hành
động sai lầm khi hủy bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược đã bỏ ngỏ nông thôn, tạo điều
kiện cho cộng sản nằm vùng xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong thời gian từ
cuối 1963 đến 1965, các cuộc đảo chánh và chỉnh lý liên tiếp xẩy ra, cộng sản
Hà Nội lợi dụng tình hình bất ổn tại miền Nam, đã đưa quân đội từ miền Bắc vào
Nam. Sẵn có cơ sở hạ tầng, nên kiểm soát được một số địa điểm tại nông
thôn.
Trước
tình trạng bất ổn, chính quyền miền Nam đã thành lập Ấp Tân Sinh và đội ngũ cán
bộ vào năm 1965 để bảo vệ an ninh địa phương, nhưng vì thiếu phương tiện nên Ấp
Tân Sinh không đạt hiệu quả yêu cầu.
Vì
nhu cầu ổn định nông thôn, đầu năm 1966 chính quyền miền Nam đã thành lập
chương trình Xây Dựng Nông Thôn, dưới quyền điều hành bởi Thiếu Tướng Nguyễn
Đức Thắng, Tổng Ủy Viên Xây Dựng kiêm Tổng Thư ký Hội Đồng Xây Dựng Nông Thôn
Trung Ương.
Trọng
tâm của chương trình XDNT là tạo dựng tại nông thôn tinh thần tự lực, tự cường
và tự vệ. Để theo dõi các hoạt động trong các xã ấp tại nông thôn, chương
trình Lượng Giá Ấp (HES: The Hamplet Evaluate System) được thực hiện.
Bản
Lượng Giá Ấp gồm một danh sách in sẵn những câu hỏi chi tiết, chẳng hạn trong
ấp có bao nhiêu TV, bao nhiêu nóc gia mái lợp tôn…cũng như về nghề nghiệp của
cư dân trong ấp: bao nhiêu người hành nghề đánh cá, bao nhiêu người thuộc thành
phần buôn bán, bao nhiêu người làm nghề nông…(*)
Bản
Lượng Giá Ấp với 27 câu hỏi ghi nhận các báo cáo mật về tình trạng các ấp: đã
bình định, trong tình trạng tranh tối tranh sáng hay bị Việt cộng kiểm
soát. Tình trạng các Ấp được chia ra làm 4 loại: A, B, C và
D.
- Loại A: Ấp đã được bình định, những nơi không bi Việt cộng quấy rôí.
- Loại B: Ấp đã bình định nhưng có một vài hoạt động của cộng sản.
- Loại C: Ấp thuộc loại xôi đậu.
- Loại D: Ấp bị Việt cộng kiểm soát
Song
song với chương trình Lượng Giá Ấp, chương trình lượng giá về lực lượng quân sự
tại địa phương (TFES: Territoral Forces Evaluation System) cũng được thực hiện,
nhằm báo cáo về lực lượng quân sự, tinh thần chiến đấu, võ khí và các nhu cầu
trang bị tại các ấp và quận.
Cuộc
tổng công kích của cộng sản Hà Nội vào Tết Mậu Thân 1968 hoàn toàn thất bại, an
ninh tại nông thôn được vãn hồi. Từ đầu tháng 11-1968, một kế hoạch bình
định mới có tên APC (Accelerate Pacification Campaign) được thi hành. Kế
hoạch này không chỉ nhằm tái lập an ninh mà còn tổng hợp phát triển về cả chính
trị và kinh tế.
Vào
lúc này, Trung Tâm Bình Định và Phát Triển trực thuộc Phủ Tổng Thống được thành
lập. Các Bộ quan trọng đều nằm trong Hội Đồng này. Hội đồng Bình
Định Trung ương và chính phủ đặt ưu tiên hàng đầu là phải bảo vệ từ 75 đến 85%
dân chúng miền Nam trong vùng do chính phủ kiểm soát. Theo báo cáo HES,
trong số 1333 ấp do chương trình APC thực hiện, khoảng 1055 ấp được xem là an
ninh, nghĩa là chính phủ kiểm soát thêm 1.6 triệu dân…[4]
Chương
trình Cải cách đền địa tiếp nối, đến năm 1969 số người cầy có ruộng đạt con số
438.000 người. Chương trình Bình Định và Phát Triển Nông Thôn được tiến
hành vào tháng 7-1969, tái tổ chức nông thôn. Cán bộ XDNT được phối trí
về các xã ấp để giúp nông dân về kỹ thuật sản xuất cũng như nắm vững tình hình
an ninh địa phương.
Ngày
27-3-1970, Tổng Thống nguyễn Văn Thiệu ban hành luật “Người Cầy Có
Ruộng”. Ruộng đất không trực canh bị truất hữu phân phối cho tá
điền. Tại miền Nam mỗi tá điền được cấp 3 mẫu và miền Trung được cấp 1
mẫu.
Chương
trình NCCR hoàn tất vào ngày 28-2-1973, đã hữu sản hóa cho 858.821 tá điền với
1.003.323 mẫu ruộng đất. Nông thôn cũng được cơ giới hóa và người dân tập
quen xử dụng phân bón hóa học khiến năng xuất nông phẩm gia tăng gấp bội.
Vào năm 1974, sản lượng gạo tăng tới 7.2 triệu tấn, đã cải thiện đời sống
người dân tại nông thôn.
Sau
chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, quân đội Hoa Kỳ rút dần khỏi miền Nam
Việt Nam, viện trợ cũng giảm theo, từ 1.614 triệu Mỹ kim cho tài khóa 1972-1973
đã rút xuống 1.026 triệu Mỹ kim cho năm 1973-1974, mặc dù VNCH phải tăng quân
số để lấp vào khoảng trống của quân ngoại nhập. Trong tài khóa 1974-1975
số viện trợ chỉ còn 700 triệu Mỹ kim, nhất là về chiến cụ không được thực hiện
theo cam kết “1 đổi 1”, khiến quân đội miền Nam giảm sút phương tiện chiến đấu.
Để
thích ứng với hoàn cảnh chiến tranh tại miền Nam, chính quyền Trung Ương đã cải
tổ công vụ vào đầu năm 1974. Theo đó, Bộ Phát Triển Nông Thôn bị bãi bỏ
và Nha Cán Bộ trở thành Tổng Nha Cán Bộ Nông Thôn trực thuộc Bộ Nội Vụ.
Một số cán bộ XDNT đã được chuyển qua các ngành khác, nhân số cán bộ tại địa
phương giảm theo nên hiệu quả hoạt động cũng giảm sút.
Dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào, người cán bộ XDNT luôn gắn bó, chia sẻ những khó
khăn của người dân, được người dân địa phương tin tưởng, cùng chung sức bảo vệ
miền Nam trước họa cộng sản. Một điểm khác biệt với đám “công an khu vực”
của cộng sản sau ngày 30-4-1975, một loại công an luôn theo rõi, báo cáo mọi
hành động cũng như đe dọa , gây khó khăn hầu chiếm đoạt tài sản của người dân.
Trong
buổi họp tái phối trí cán bộ ngành XDNT tại Phủ Thủ Tướng, một hình ảnh ghi đậm
trong tâm tư người cán bộ áo đen, khi thấy Đại Tá Nguyễn Tài Lâm, Giám Đốc Nha
Cán Bộ mặc “cán phục”, bộ bà ba đen với huy hiệu Tổ Quốc-Nhân Dân và biểu tượng
Cờ Vàng, trước các vị Tướng Tá áo gắn huy chương và các quan chức cao cấp các
Bộ y phục hợp thời trang. Phong thái của Đại Tá Giám Đốc đã chứng tỏ tinh
thần hãnh diện về ngành XDNT, vốn là tai mắt tại nông thôn, đã chặn đứng các
hoạt động xâm nhập phá hoại của cộng sản tại miền Nam. Nhân cách kiên
cường này thật hiếm thấy nơi các vị chỉ huy, nhất là sau này, trong các trại tù
“cải tạo” của cộng sản từ Nam ra Bắc.
*
Với
phương châm “cùng ăn-cùng ở-cùng làm” cùng nhân dân chiến đấu trước hiểm họa
cộng sản. Người cán bộ XDNT đã chia sẻ sự khó khăn của người dân tại xã
ấp, thường xuyên đối diện với hiểm nguy, đã trở thành mục tiêu phải thanh toán
của cộng sản Hà Nội. Sau ngày 30-4-1975, cán bộ XDNT bị đầy ải, một số bị
thảm sát, phải chịu đựng những hành động trả thù tàn nhẫn của cộng sản, từ địa
phương cho đến các trại tù “cải tạo” từ Nam ra Bắc, và gia đình cán bộ bị địa
phương ngược đãi, theo rõi, gây khó khăn trong đời sống.
Sau
70 năm cai trị miền Bắc và 40 chiếm đoạt miền Nam, đảng cộng sản đã để lộ
nguyên hình là một đảng cướp, một tập đoàn tham tàn độc đoán, chỉ biết phục vụ
cho quyền lợi của đảng và giới cầm quyền, đã biến thành phần “Nhân dân làm chủ”
thành một loại nô lệ không công.
Trước
tình trạng xã hội ngày càng băng hoại, người Việt đã nhìn rõ mặt trái của chủ
nghĩa cộng sản không vì quyền lợi của dân tộc. Một đất nước gọi là thống
nhất, chỉ mới thống nhất về địa dư, nhưng thực chất nhân tâm bị
chia rẽ trầm trọng. Nền kinh tế ngày càng xuống dốc, hố sâu ngăn cách
giầu nghèo ngày thêm rộng lớn.
Đã
tới lúc người Việt trong và ngoài nước phải một lòng loại bỏ chế độ cộng sản
vong bản Hà Nội làm tay sai cho Bắc Kinh, đang đưa đất nước vào vòng nộ
lệ. Đã tới lúc người Việt trong và ngoài nước phải liên kết để xây dựng
một nước Việt tự do, dân chủ và phú cường./
Trần
Nhật Kim
[1] tức
“Tổng Nha Phát Triển Nông Thôn”.
[2] Nguồn:
Vietnam Center and Archive, Texas Tech; 2002_Symposium Paper.
[3] Nguồn:
Nguyễn Đức Cung.
[4] Nguồn:
Stephen B. Young - Cuộc chiến thắng bị bỏ lỡ- tr. 266, 267.
No comments:
Post a Comment