NỖI KINH HOÀNG CỦA VN
Tiến Sĩ LÊ HIỂN DƯƠNG |
Riêng
người Việt nam chúng ta từ trong Nam ngoài chí Bắc từ sau 30 tháng tư
năm 1975 lại có một mốc định thời gian mới: “hồi trước giải phóng” hay
“hồi sau giải phóng”, tất nhiên người Việt mình nghe mãi rồi quen tai và
không thấy gì phản cảm khi dùng hoặc nghe cụm từ này… Nhưng khi tôi vô
tình dùng nó lúc nói chuyện với một đồng nghiệp người nước ngoài rằng
“…after the liberation of the south…” thì ông ta sững sốt hỏi ngay rằng
“… liberation from what?…” – Giải phóng khỏi cái gì? Thì tôi mới hốt
hoảng với cách dùng cụm từ này để định mốc thời gian của người Việt… bởi
đối với hầu hết người Việt, nhất là người miền Nam hoặc đối với cả đồng
bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 nữa, thì “giải phóng” là một nỗi ám
ảnh trong cả đời người…
Video: "GIẢI PHÓNG" NỖI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM
Còn
nhớ ngày 30 Tư năm 1975, lúc đó chúng tôi còn là sinh viên của đại học
sư phạm Vinh đã hồ hởi, phấn khởi hò reo meeting nhiều đêm ngày để mừng
Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, bởi chúng tôi tin rằng từ đây đồng
bào Miền Nam ruột thịt của chúng tôi sẽ không còn đói rách lầm than và
không còn sống trong cảnh “ngụy kềm, Mỹ hãm” nữa… Họ đã được đảng và Bác
cùng nhân dân Miền Bắc chúng tôi giải phóng. Và những tháng tiếp theo
đó chúng tôi được tận mắt nhìn thấy hàng đàn hàng lủ bọn ngụy quyền ác
ôn bị sự trừng phạt của chính quyền cách mạng, của nhân dân miền Bắc và
của chính chúng tôi… Số là mỗi tuần một lần. chúng tôi được chính quyền
và ban giám hiệu nhà trường thông báo vào những ngày giờ có những ô tô
của cục quân pháp chuyển tù cải tạo là những sỹ quan, ngụy quyền ác ôn
của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa phương để đến các trại cải tạo
ở mạn ngược. Cùng với đồng bào địa phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải
chuẩn bị đầy đủ cơ số đá trứng nhặt từ đường ray xe lửa để khi đoàn xe
tù đi ngang qua là hô hào toàn dân trút những trận mưa đá lên đầu những
tên ngụy quyền ác ôn này, bởi chúng có quá nhiều nợ máu với nhân dân,
với đất nước… Và sau mỗi lần trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng
tôi đều có hội họp, báo công và được tuyên dương khen thửơng, được kết
nạp vào đoàn, được vinh dự đứng vào hang ngũ của đảng vì đã đả thương
được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền đó. Tất nhiên là cũng có nhiều buổi
họp báo công, chúng tôi cũng bị phê bình kiểm điểm vì đã không có trường
hợp thương vong nào được ghi nhận trong những vụ “tập kích” đó…
Kết thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi được đảng và nhà nước chi viện vào miền Nam để mang ánh sáng văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tối lầm than vì cứ liên miên bị ngụy kềm, Mỹ hãm chứ đâu có được học hành gì…
Kết thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi được đảng và nhà nước chi viện vào miền Nam để mang ánh sáng văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tối lầm than vì cứ liên miên bị ngụy kềm, Mỹ hãm chứ đâu có được học hành gì…
Chúng
tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng chiến sự Quảng Trị, đến
Huế, đến Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn rồi về Miền Tây, đến thị trấn
Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu đài phố xá chứ có tường đất mái tranh như ở
thành phố Vinh chúng tôi đâu!
Nhận
xong nhiệm sở từ ty giáo dục Đồng Tháp, chúng tôi được đưa về công tác
tại trường trung học sư phạm Đồng Tháp ngay tại trung tâm của thị trấn
Cao Lãnh, và tại đây, trong suốt nhiều năm liền chúng tôi được bố trí ở
tại khách sạn Thiên Lợi mà chính quyền cách mạng đã tịch biên từ tên tư
sản Thiên Lợi… Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi
đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết
được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh
Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng
hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng
gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng
Nguyễn Chí Thanh mà được bác Hồ khen thưởng và có thơ ca ngợi rằng:
“Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân Bắc, phân xanh đầy nhà”…
Thậm
chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ còn có cả những vụ
án các tập đoàn viên, các hợp tác xã viên can tội trộm cắp phân bắc từ
các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác xã… Tôi thấm thía hơn với
những câu thơ ca ngợi miền Bắc đi lên XHCN của Tố Hữu mà ngoài sinh viên
học sinh chúng tôi ra thì hầu như cả nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ ai
cũng thuộc nằm lòng:
“Dọn tí phân rơi nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than mẩu thóc cân ngô
Hai tay ta gom góp dựng cơ đồ…”
Tôi
bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng miền nam” … Rồi những trận đổi
tiền để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch biên, rồi
hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường
chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm tự do đó… tôi bắt đầu hiểu
đích thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng niền nam” và bắt đầu cảm thấy
xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân…
mà dù ở chừng mực nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…
Dần
dần tôi hiểu sâu hơn cái sự mỉa mai chua chát của hai từ “GIẢI PHÓNG”
đang được dùng trong kho tàng Tiếng Việt của nước nhà… “Giải phóng miền
nam” thực sự có mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên và cả sự thịnh
vượng nữa với gia sản có thể đột ngột tăng lên cả 16 tấn vàng ròng…
những tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội, chỉ chừng 16 người
trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ thôi… Còn lại thì “giải
phóng” đồng nghĩa với cảnh côi cút vì “sinh bắc tử nam” mất con, mất
chồng, mất cha, mất anh mất em bởi họ đã vào chiến trường và không bao
giờ trở về nữa… Giải phóng cũng có nghĩa là tù đày, là cải tạo nơi rừng
thiêng nước độc, là mất vợ.. mất con, mất nhà cửa ruộng vườn, mất bao
nhiêu người thân trên biển cả và mất hết tự do dân chủ nhân quyền và mất
luôn cả tổ quốc! Rồi “giải phóng mặt bằng” cũng chỉ mang nguồn lợi lớn
lao cho một nhóm quan phương, nhưng lại là nỗi ám ảnh nỗi hãi hùng của
muôn dân, bởi sau “giải phóng mặt bằng” là hàng trăm đồng bào lại phải
vô tù ra khám bởi tội “chống người thi hành công vụ”, bởi sau giải phóng
mặt bằng là cái chết của thiếu niên Lê Xuân Dũng và Lê Hữu Nam, là
thương tật của nông dân Lê Thị Thanh …
Chẳng
biết người dân Việt nam từ nay còn dùng cụm từ “trước ngày giải phóng”
hay “ sau ngày giải phóng” để định mốc thời gian nữa không… Riêng tôi,
tôi cảm thấy quá căm thù nhân loại bởi đã bịa ra từ ngữ “giải phóng” và
“giải phóng mặt bằng” mà chi để dân Việt chúng tôi vì nó mà phải khổ lụy
đến dường này.
Tiến Sỹ Lê Hiển Dương - Cựu Hiệu Trưởng Đại Học Đồng Tháp
Đồng Tháp ngày 16 tháng 2 năm 2015
PHẢN HỒI BÀI VIẾT CỦA TS LÊ HIỂN DƯƠNG
Kính chào ông Lê Hiển Dương,
|
Thưa
Ông, bài báo ngày đầu năm 2012 vô tình tôi được đọc là bài “GIẢI PHÓNG”
Nỗi kinh hoàng của người dân Nam Việt, bài viết này là của Ông. Bài
được đăng trên Hải ngoại phiếm đàm Online ngày 05/01/2012, cuối bài viết
có ghi trọn vẹn tên tác giả cùng học vị và chức vụ. Học vị cùng chức vụ
và nhất là qua bài viết của ông, cho tôi biết ông đã một thời là cán bộ
giáo dục của nhà nước cộng sản hiện thời Việt Xã Nghĩa, còn tôi cũng
xin vài dòng được nói về mình. Tôi một người tù mà các người cộng sản
chiến thắng, gọi xách mé là sĩ quan Ngụy của 36 năm trước, trên bước
đường tù biệt xứ đã hai lần, tôi đươc hân hạnh đi ngang qua thành phố
Vinh của ông. Khi chúng tôi đọc xong bài của ông viết, tôi biết ông là
người như thế nào, những gì ông suy nghĩ khiến chúng tôi mến ông, và
thấy cần phải viết vài dòng xin được thưa chuyện cùng ông, những dòng
chữ đậm là tôi xin phép ông được ghi lại những gì ông đã viết.
Không
giấu gì ông, ban đầu sau khi đọc xong bài ông viết, tôi định cho nó
qua, nhưng câu kết của ông như níu tôi lại, khiến tôi thấy nên nói
chuyên với ông thì quí hơn, vì mấy khi ta gặp được người như ông. Ông
Dương ạ câu kết ông viết Chẳng biết người dân Việt nam từ nay còn dùng
cụm từ “trước ngày giải phóng” hay “ sau ngày giải phóng” để định mốc
thời gian nữa không… Riêng tôi, tôi cảm thấy quá căm thù nhân loại bởi
đã bịa ra từ ngữ “giải phóng” mà chi để dân Việt chúng tôi vì nó mà phải
khổ lụy đến dường này. Câu này làm tôi thấy chúng ta tuy là kẻ Nam
người Bắc, nhưng vô tình lại chung phận là nạn nhân, nạn nhân của kẻ
bợm, chúng sống bằng sự lừa lọc dối trá, sự trí trá đó khiến biết bao
người “sinh bắc tử nam” mất con, mất chồng, mất cha, mất anh mất em bởi
họ đã vào chiến trường và không bao giờ trở về nữa”.
Đó
là phần không may cho dân miền Bắc, còn miền Nam như ông thấy đó và ông
đã viết “là tù đày, là cải tạo nơi rừng thiêng nước độc, là mất vợ mất
con, mất nhà cửa ruộng vườn, mất bao nhiêu người thân trên biển cả và
mất hết tự do dân chủ nhân quyền và mất luôn cả tổ quốc!”. Để rồi những
kẻ bợm CS đó chúng đoạt lấy tất cả, những gi của người dân hai miền
Nam-Bắc nước ta, từ cơ bản quyền làm người đến của cải vật chất, chúng
dìm đời sống người dân cả nước xuống tận bùn đen, còn sự tồn vong của
đất nước thì đang trong tình trạng treo chỉ mành. Trong những cái chúng
cướp đoạt của đất nước, có cả 16 tấn vàng là số vàng thuộc tài sản quốc
gia, mà chính phủ VNCH để lại, chúng đã chia chác nhau số vàng này, và
cái tận cùng bỉ ổi là chúng lại tuyên truyền là chính quyền miền nam đã
lấy số vàng đó. Nhưng nay tất cả người dân VN đều biết như ông viết, kẻ
lấy số vàng 16 tấn không ai khác hơn là 16 tên chóp bu bộ chính trị
CSVN “Giải phóng miền nam” thực sự có mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc
vô biên và cả sự thịnh vượng nữa với gia sản có thể đột ngột tăng lên cả
16 tấn vàng ròng… nhưng tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội,
chỉ chừng 16 người trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ
thôi…”, Cám ơn ông thật nhiều Ông Lê Hiểu Dương ạ, sự thực cuối cùng vẫn
là sự thực.
Sau
ngày 30 tháng 04 năm 75, trước khi chúng tôi bị đưa ra miền bắc để lưu
đày, các “ông cộng sản” đã nói với chúng tôi về thiên đường cộng sản xã
hội chủ nghĩa miền bắc như sau: Miền Bắc XHCN không có người nghèo kẻ
giàu, không có nhà cao tầng, và cũng không có nhà lá, tất cả đều nhà
gạch giống như nhau, ý nói kiểu nhà cư xá hay chung cư,- Không có kẻ
rách rưới, mà kẻ khác thì dư thừa tơ lụa, tất cả đều bận kaki Nam định
thoải mái. Miền bắc XHCN vật chất thì nhiều vô kể, không thiếu một thứ
gì, còn trong Nam toàn thể dân chúng, và ngay cả trong trại, tất cả mọi
người phải sống trong khó khăn thiếu thốn, đó là do tàn dư của chế độ tư
bản Mỹ Ngụy để lại, rồi đây miền Bắc sẽ chi viện cho miền Nam(?). Nghe
nói vậy cũng có nhiều anh em tù tin, xã hội cộng sản mà, tất cả đều bình
đẳng, cái ăn, cái mặc, cái ở đều như nhau, chủ thuyết của Mác Lê, chả
mong muốn xây dựng một nhà nước, một xã hội theo mô hình như thế là gì
(!).
Nhưng
cũng như ông nói, ông nhận ra sự thật khi vào nam,“Chúng tôi đi từ
choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi
biết được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả
tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử
dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để
tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng
Nguyễn Chí Thanh”. Thì sự thật phũ phàng cũng đến với chúng tôi, khi
chúng tôi vượt qua cầu Hiền Lương, trên bước đường lưu đày lên mạn
ngược, lần đó qua cầu Hiền Lương là vào khoảng 10 giờ sáng, đây đất Đồng
Hới nào thấy đâu nhà gạch, Quảng Bình quê ta nào thấy đâu giàu đẹp. Cả
một vùng xác xơ đều khắp với những mái tranh vách đất tiêu điều, dọc
đường thỉnh thoảng một vài ngôi nhà xây, đấy là những nhà gạch duy nhất
mà chúng tôi thấy, nhìn kiểu dáng kiến trúc cho thấy chúng đã có từ thời
Pháp. Cái nhiều mà chúng tôi thấy được trên chuyến đi là khẩu hiệu,
suốt chuyến đi hai bên đường không biết cơ man nào là khẩu hiệu, đều là
khẩu hiệu màu đỏ máu, chữ vàng, to có nhỏ có, dài có ngắn có, ca ngợi
hết lời tình hữu nghị Việt Hoa, như răng với môi, như anh với em, tình
đồng chí đời đời bền vững. Ngoài ra cũng không ít những cái suy tôn họ
Hồ, họ Mao, Các Mác, Lê Nin, tất cả các chữ dao to búa lớn như vĩ đại,
vô địch, quang vinh.v.v…đều được đem ra dùng tối đa.
Cũng
ngay trong lần đầu diện kiến dung nhan thiên đường cộng sản đó. Xe vừa
vào tới Đồng Hới, thì đậu tập trung chờ lịnh bên đường, tình cờ giờ tan
trường, những trẻ học trò tò mò đứng nhìn đoàn xe bít bùng. Học sinh là
mầm non đất nước, tương lai của cả một dân tộc, mà dường như những đứa
trẻ này, thiếu ăn như lủ tù chúng tôi hay sao?, mà nhìn chúng gầy và
xanh quá, quần áo chúng luộm thuộm rách rưới. Vậy mà chúng lại đang sống
trong cái thiên đường XHCN, do đảng cộng sản quang vinh tể trị… cái
khăn quàng màu máu trên cổ chúng, nói thêm một điều nữa, Chúng là cháu
ngoan họ Hồ. Chúng đang học tập và theo gương Bác vĩ đại của chúng,
nhưng không hiểu lý do gì mà nhìn chúng thảm quá, như phường ốm đói. Đấy
ông Dương thấy không, tôi có khác mấy chi ông khi ông đặt chân vào miền
Nam như ông nói, “Chúng tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng
chiến sự Quảng Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn rồi về
Miền Tây, đến thị trấn Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu đài phố xá chứ có
tường đất mái tranh như ở thành phố Vinh chúng tôi đâu!”.
Ông
Lê Hiển Dương mến, quê ông là Vinh, quê ngoại tôi cũng là Vinh, nhưng
tôi không sống ở đó, tôi chỉ được cái hân hạnh đi ngang qua thành phố
Vinh hai lần, năm 1975 trong lúc chuyển tù từ nam ra bắc. Và năm 1981
sau khi TQ đánh vùng phía bắc sáu tỉnh biên giới, chúng tôi đựơc di dần
vào trong, chuyến xuôi nam bất đắc dĩ, mà nhà nước cộng sản không muốn
tí nào, tôi biết chắc như thế. Họ muốn chúng tôi phải vùi thân nơi núi
rừng tây bắc họ mới vui, lý do gì thì ông thừa biết phải không ông
Dương, những gì ông nói ra cho thấy ông rất thành thật, vì những gì ông
làm cho chúng tôi tại Vinh. Thì tại các nơi khác người dân nơi ấy cũng
làm theo một cách như ông, vì đó là chính sách chung của Đảng, ông ném
đá thì họ cũng ném đá, thậm chí có người xấn xổ nhổ nước bọt vào chúng
tôi. Thoạt đầu thì chúng tôi khó chịu vì sự lỗ mãng của họ, nhưng khi
thấy những nụ cười đểu của bọn cán binh áp tải, thì chúng tôi nhận ra
ngay đấy là những gì người dân bị “make up”, hoàn cảnh chúng tôi lúc đó,
không khác gì cảnh trong những thước phim tài liệu “đấu tố” cải cách
ruộng đất năm nào.
Ông
nói “những tháng tiếp theo đó, chúng tôi được tận mắt nhìn thấy hàng
đàn hàng lủ bọn ngụy quyền ác ôn, bị sự trừng phạt của chính quyền cách
mạng, của nhân dân miền Bắc và của chính chúng tôi… Số là mỗi tuần một
lần, chúng tôi được chính quyền và ban giám hiệu nhà trường thông báo,
vào những ngày giờ có những ô tô của cục quân pháp, chuyển tù cải tạo là
những sỹ quan, ngụy quyền ác ôn của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua
địa phương, để đến các trại cải tạo ở mạn ngược. Cùng với đồng bào địa
phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải chuẩn bị đầy đủ cơ số đá trứng nhặt
từ đường ray xe lửa, để khi đoàn xe tù đi ngang qua, là hô hào toàn dân
trút những trận mưa đá lên đầu những tên ngụy quyền ác ôn này, bởi
chúng có quá nhiều nợ máu với nhân dân, với đất nước…Và sau mỗi lần
trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng tôi đều có hội họp, báo công và
được tuyên dương khen thửơng, được kết nạp vào đoàn, được vinh dự đứng
vào hang ngũ của đảng, vì đã đả thương được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền
đó. Tất nhiên là cũng có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi cũng bị phê
bình kiểm điểm vì đã không có trường hợp thương vong nào được ghi nhận
trong những vụ “tập kích” đó…”
Nay
đã hơn ba mươi sáu năm, sau ngày oan nghiệt của vận nước, muốn hay
không muốn chúng ta cũng phải thấy, Nam hay Bắc đều là nạn nhân của bọn
cộng sản vong nô, chúng tôi không trách ông đâu Ông Dương ạ. Thứ nhất vì
cái thành thật của ông làm chúng tôi mến, thứ đến là đã có người xin
lỗi chúng tôi thay cho ông rồi, những người làm việc tạ lỗi với chúng
tôi là những người nghèo bán hàng rong tại nhà ga thành phố Vinh của
ông. Chúng tôi cảm được cái ray rứt trong lòng ông qua câu ông viết “Kết
thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe
chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học…”.Nên chúng tôi xin
mạn phép gởi đến ông một đoạn ký sau đây để ông đọc, mà thấy được rằng
cái thật luôn tỏa sáng và làm rung động lòng người, cũng tựa như cái
thật của ông đã làm cho chúng tôi mếm.
XUÔI NAM….
…Ðoàn
tàu vẫn tiếp tục lăn bánh, hướng về nam với rộn rã của tiếng bánh xe gõ
nhịp trên đường ray, tấm bảng cắm bên đường cho thấy ga kế tiếp là nhà
ga Vinh. Thành phố Vinh là quê ngoại của Mẹ tôi, thuở còn nhỏ Mẹ theo
Ngoại nhiều lần về Vinh. Nhận xét về quê của mẹ sau bao nhiêu năm nhìn
lại, trong lần ra bắc thăm nuôi tôi, Mẹ bùi ngùi nói không có gì thay
đổi, tất cả vẫn như xưa, có chăng là mọi vật cũ đi theo thời gian mà
thôi. Còn tôi tuy biết Vinh là quê ngoại, nhưng trong tôi, sau năm 75
trong chuyến lưu đày ra xứ bắc, tôi cũng đã qua đây vào một đêm, nhưng
tình cảm lần đầu tiên đó, không phải thứ tình cảm bồi hồi nao nao, khi
đi qua chốn mà mình biết đó là quê mẹ.
Ðêm
đó qua đây lúc trời đã tối, nhà ga tỉnh lẻ, tôi nhìn qua vách xe, trong
ánh sáng vàng đèn trứng vịt mù mờ, vài người bán hàng rong hỏi vọng vào
trong xe, mời chúng tôi mua bánh. Vài anh tù vô tình trả lời họ, và thế
là sau khi họ biết chúng tôi là tù miền nam, thì những viên đá nhặt từ
đường ray ném tới tấp vào thùng xe, kèm theo lời chửi thô tục, nghe đâu
có vài anh tù ở xe phía trước vì tò mò, thò đầu ra khỏi tấm bạt để nhìn
cho rỏ, đã nhận ngay viên đá củ đậu vào đầu, máu ra ướt áo. Cán bộ sau
đó qua sự việc này để mà lên lớp chúng tôi, anh ta nói do thấu triệt
chính sách khoan hồng nhân đạo, mà đảng đã giáo dục, nên nhân dân chỉ
ném đá mà thôi, nếu không có đảng dạy, thì nhân dân đã cắt cổ chúng tôi
rồi(?).
Ðoàn
xe từ từ vào ga, kinh nghiệm của lần ra, nay lần về phải cẩn trọng,
chúng tôi không muốn ăn đá củ đậu. Chúng tôi giữ im lặng, không trả lời
bất cứ tiếng mời mua hàng, hay tiếng gõ vào thành tàu của người mua đồ
cũ… Bánh mật… mía… chuối… ai mua không?… Quần áo cũ… đồ cũ… ai bán
không?… khung cảnh nhà ga ồn hẳn lên, với lời rao của kẻ mua người bán,
và đặc biệt là trong toa càng lặng tiếng, thì người mua kẻ bán đứng dưới
đường ray càng gào to.
Bổng
quản chế áp tải tù, chúng được lịnh cho phép nghỉ giải lao, chúng í ới
gọi nhau vào nhà ga để chè lá, thấy thế các người mua bán rong, vội ùa
đến gần con tầu hơn, áp sát miệng vào khe hở thành toa mà rao to. Một
anh mua đồ cũ, vô tình rao đúng chỗ của anh Khanh “mù” ngồi, anh Khanh
xuất thân võ bị Ðàlạt và cận nặng, nên anh em thêm chữ mù sau tên anh mà
gọi cho vui. Máu tếu nổi lên anh Khanh hỏi: -Có bộ đồ tù rách mua
không?… Một bất ngờ và ngỡ ngàng đến với chúng tôi, thay vì là câu chửi
thề, hay chuyện gì đó như ném đá, để đáp lại câu nói của anh Khanh như
chúng tôi nghĩ, thì lại là tiếng reo vui thật to: -Tầu chở tù về Nam bà
con ơi… sau đó qua các khe hở của vách tầu… chuối, mía được nhét vào cho
chúng tôi, thật tôi không tin những gì tôi thấy. Bấy giờ buổi sáng trời
vừa nắng lên khoảng chín giờ sáng, đâu phải đêm đen đâu mà không thấy
những gì đang diễn ra trước mắt mình. Từ khe hở ngay chỗ tôi, tôi cũng
được một cái bánh mật, bánh còn ấm nóng, đây là bánh của người dân quê
xứ Nghệ, làm từ bột trộn với đường mật, gói lá chuối xong đem hấp hay
luộc, đường mật mà trong nam ta gọi là đường chảy hay đường thùng.
Ăn
bánh mật hơi giống như ăn bánh ếch trong nam, không ngon bằng bánh ếch,
vì nó không có nhân. Nhưng quí vị ạ, miếng bánh mà tôi đưa vào miệng ,
tôi ngậm nó mà nghe ngọt tận tâm can, tôi không muốn nuốt vì sợ mất, mất
những gì đang đến với tôi trong suy nghĩ, trong cảm xúc. Tới đây chắc
quí vị nghĩ là tôi càn rở ăn nói lung tung chăng, không đâu, cảm xúc
đang trào dâng trong tôi, thật ngọt ngào và ấm áp lắm. Ngày nào cộng sản
tuyên truyền, gọi chúng tôi là lính đánh thuê, chúng tôi là dã thú, ăn
gan uống máu người. Ðưa chúng tôi ra Bắc, chúng thật an tâm, chúng tôi
mà trốn trại ư?, tai mắt nhân dân, sẽ giúp chúng bắt chúng tôi lại dễ
dàng, nhưng sau đó chúng biết chúng lầm, dưới ánh mặt trời làm sao chúng
che đậy mãi cái gian manh của chúng.
Và
hôm nay theo thời gian, đã xóa sạch những gì cộng sản bôi bẩn chúng
tôi. Từ ngay trong lòng người dân, người dân của phần đất Xô Viết Nghệ
Tỉnh, mà cộng sản cai trị giáo dục họ từ những năm đầu họ Hồ du nhập chủ
thuyết cộng sản vào Việt nam. Nay chúng tôi đã có chỗ, chổ chúng tôi là
trong lòng những người dân nghèo bán rong, người mua đồ cũ, họ chia sẻ
cho chúng tôi những gì họ có, trong nhà ga này, nhà ga Vinh, quê ngoại
tôi, mà hơn năm năm về trước, họ ném vào chúng tôi bằng những viên đá
xanh, to bằng nắm tay, mà họ nhặt từ đường ray. Những gì cộng sản tuyên
truyền, nhồi sọ người dân quê Ngoại tôi, hay nói chung là cả miền Bắc,
nay đã bị cái thật đánh gục.
Chuyến
xuôi nam này, quả đúng với câu niềm vui nối tiếp niềm vui, hôm nay
người dân ga Vinh họ chuyền qua khe hở vách toa tàu, những lóng mía,
những quả chuối lẻ, cùng bánh mật, những thứ này là vốn liếng của kẻ
nghèo, mua bán hàng rong trong sân ga. Bằng chính rổ cơm của gia đình,
họ đãi chúng tôi, những người tù miền nam, mà chính quyền cộng sản gọi
là Ngụy. Nguyên do đâu sự việc này xảy đến?. Lý do gì mà tình cảm, của
những người nghèo cùng khổ này, dành cho chúng tôi?. Chúng tôi chưa từng
gặp họ, họ ở lại Bắc, chúng tôi xuôi Nam, bao giờ biết găp lại?, rổ
hàng của họ ít ỏi lắm, mỗi người chỉ dăm quả chuối, dăm lọn mía, ít bánh
mật. Cái gì đã thôi thúc, khiến họ cho đi?, phải là một cái gì đó mãnh
liệt lắm. Gần sáu năm trong nhà tù cộng sản tại miền bắc, trong khoảng
thời gian này tôi đã nhìn thấy quá nhiều biến đổi từ mọi phía, mọi lãnh
vực, từ người dân đến cán binh, cán bộ cộng sản. Những sắt máu giáo điều
không còn giá trị đối với mọi người, những son những phấn tô lục chuốc
hồng, cho chế độ XHCN đã lã chã rơi, lộ nguyên trạng những gì bọn chúng
cố dấu. Một câu nói trong Kinh Thánh: “Những gì của César hãy trả lại
cho César” thật đúng cho cả hai bên, cho chúng tôi và cho cả cộng sản.
Bọn
cán bộ áp tải đã trở lại, con tàu kéo còi từ từ chuyển bánh, qua khe hở
tôi dõi nhìn, những người mua bán hàng rong trong sân ga, cho đến mãi
khi không còn nhìn thấy cả họ lẫn nhà ga. Trời vào trưa nắng thật đẹp,
mây có che thì chỉ một lúc nào thôi, sau đó trời vẫn lại rực rỡ như
xưa….
|
VIỆT NHÂN
No comments:
Post a Comment