Tuesday, March 24, 2015

VỀ QUÊ ĂN TẾT

Tôi lấy chồng được 2 năm, tết nào cũng về quê chồng ăn Tết gần nửa tháng. Tôi làm ở công ty nước ngoài, dưới quyền tôi có 20 nhân viên toàn tốt nghiệp đại học ở nước ngoài. 
Chồng tôi là người ngoại tỉnh, tôi quen anh hồi đại học, mến tài anh, chúng tôi yêu nhau rồi kết hôn, cuộc sống bộn bề nhưng thông cảm hiểu biết lẫn nhau, chúng tôi hạnh phúc.
Tôi sinh ra và lớn lên ở thành phố, chưa từng về quê lâu ngày, trừ dịp tết.
Cứ 25 hay 26 tết, chúng tôi lại về quê. Tôi tính đoảng. Chồng tôi mua đủ thứ măng miến mộc nhĩ linh tinh , anh nói của tôi mua.
Nhà chồng tôi có bố mẹ chồng, vợ chồng anh trai chồng cùng 2 đứa cháu, và cô em gái chồng.
Khi vợ chồng tôi về, mọi người tay bắt mặt mừng, vợ chồng tôi có chốn riêng vì nhà khá rộng, có 5 gian, ở 2 chái nhà có ngăn thành phòng thì dành cho ông bà và vợ chồng anh tôi, em chồng ở nhà dưới, 3 gian giữa cho vợ chồng tôi và trẻ con. là chồng tôi nói thế.
Tôi thì không hiểu "gian" ở đây nghĩa là thế nào, chỉ là cái nhà cỡ 40m2, không hề có tường ngăn, hóa ra 5 gian là nói về độ rộng, 1 gian rộng vài mét vuông, nếu có cột thì rõ hơn, chùa trăm gian cũng không to lắm, thì nhà 5 gian các bạn tưởng tượng được.
Gọi là phòng, nhưng nó là 1 cái gường, tô hô sát gian chính, che bởi cái ri-đô, sát với cái ghế sa lông ở chính giữa, nếu ai đó dựa lưng vào thành ghế, sẽ động đánh "cục " một cái vào gường ngủ của tôi. Chúng tôi cũng không dám quan hệ, vì cái gường long-mộng luôn dập kình kịch vào tường mỗi khi có dao động trên nó.
Thật lòng, tôi rất không vui khi ngủ như vậy, mà suốt cả dịp tết, các chị ạ, có 1 cái của sổ ở gường của tôi, nhưng tôi không bao giờ dám mở, vì cửa sổ trông ra nhà vệ sinh và cái chuồng lợn, con lợn đáng ghét đó kêu ịt ịt suốt đêm và luôn va lục cục khiến tôi chỉ mong giao thừa đến sớm, con lợn đó sẽ bị chọc tiết trước giao thừa.
Điều đầu tiên tôi ngạc nhiên là đánh răng, tôi không dám để bàn chải đánh răng của tôi cạnh những bàn chải của anh chị em chồng. Thậm chí tôi không dám gọi những thứ kia là bàn chải đánh răng, nó mòn vẹt, cán cầm đã từng có mầu gì đó tôi đoán là xanh hoặc tím nhưng đã bạc hết, những sợi nhựa rẻ tiền tòe ra 2 bên như những sợi râu mép, nếu đánh răng, tôi tin họ phải đánh nghiêng bàn chải, vì ở chính giữa không có gì, các sợi nhựa đã cong hết sang 2 bên.
Sau khi đánh răng xong, tôi cất bàn chải của tôi đi.
Khăn mặt cũng là 1 vấn đề, họ không dùng riêng khăn mặt, chỉ có độc 1 hoặc 2 hay 3 cái, chung cho tất cả, và khăn nào cũng trông có vẻ tốt khi nó khô, nhưng khi nhúng nước, nó trở lên nhớt như một con lươn, khiến tôi rất sợ.
Khỏi phải nói, khi dùng khăn xong, tôi cũng cất đi.
Nhờ giời, quê chồng tôi có 1 bể nước mưa, những con bọ gậy và côn trùng có chân như mái chèo luôn giãy đành đạch trong đó, mỗi khi tôi múc nước vào cái chậu nhôm, luôn phải vớt chúng ra, sau khi than thở với chồng tôi, anh ra ao (tôi kể về cái ao sau) câu lên vài con cá nhỏ nhỏ đòng đong mài mại hay con gì đó anh nói tên mà tôi quên mất, đem thả vào bể..
Thật kì lạ, chỉ sau 1 ngày đêm, mọi con bọ trong bể nước mưa đều biến mất hết, tôi chưa kịp cám ơn chồng thì hôm sau nữa, 1 con cá chết thối từ khi nào, mắt lồi ra, bụng ngửa lên, khiến tôi không dám dùng nước mưa hôm đó. mà ra ao thì tôi lại sợ..
Mọi sinh hoạt rửa ráy ở quê chồng tôi, đều ở cầu ao. luôn có mấy con vịt kêu cạc cạc bơi quanh đó. bọn này buổi đêm cũng hay ré lên, khiến tôi cũng mong giao thừa đến sớm, bọn này cũng chung số phận với con lợn đáng ghét.
Cầu ao, là 1 cái bậc, giống như cầu thang nhà tôi, nhưng họ xây khi chưa có nước, khi nước ngập lên, thì gọi là cầu ao, nhà chồng tôi giàu có, lên cầu ao xây bằng đá xanh.
Vào buổi sáng, khi cậu con trai nhỏ của anh chồng tôi muốn đi ngoài, mẹ nó bê nó ra cầu ao, xi nó ỉa, và rửa đít thằng bé tại cầu ao, và thật kì lạ, buổi trưa, chị bê rổ rau ra chính chỗ đó để rửa, tôi sợ, không dám ăn rau.
Cần phải nói để các bạn hiểu, ở quê chồng tôi, cầu ao là nơi làm tất cả mọi việc về rửa ráy, họ rửa tất cả ở đó, chân, bát nồi niêu, bu gà, đáy của cái lồng chim, ( toàn phân chim)...
Và bọn trẻ con, vẫn ngồi ở cầu ao ỉa xuống.
Tôi cũng thấy, rất nhiều cá con tung tăng ở cầu ao chờ ăn đồ miễn phí.
Về quê chồng, vấn đề vệ sinh thực sự là ác mộng..
Tôi từ bé đến lớn, vẫn dùng hố xí bệt, và tôi hay cầm quyển sách để đọc khi hành sự.
Về quê anh, đi đại tiện thật sự là mối kinh hoàng.
Buổi đêm, đó hầu như là bất khả thi, tôi phải cầm 1 cái đèn pin ( đó là lần sau, chứ lần đầu ko có đèn pin tôi phải dùng đèn dầu, cái bóng đèn luôn muốn rơi ra khi tôi di chuyển) đi bộ vòng ra sau nhà, gần cái cửa sổ phòng ngủ của chính tôi, qua chuồng lợn, trèo lên vài bậc chông chênh, và chui vào cái hố xí kinh hoàng đó. Nó có 1 cái lỗ đen kịt, có 2 viên gạch kê chéo để đặt chân, cái lỗ được bịt kín bởi 1 cái tròn như cái đĩa bằng bê tông, giữa có cái lỗ, và 1 que tre to dài chọc vào lỗ đó, để đi vệ sinh, tôi phải cầm vào cán tre kinh tởm đó ( tôi luôn lót giấy ) mở cái lỗ ra, và đi vào cãi lỗ đen mịt mờ đó, khi xong việc, tôi lại đậy cái lỗ lại sau khi đẩy 1 lớp tro than lên trên.
Và ruồi nhặng thì quá kinh khủng, dù ở đâu, trong nhà hay ngoài sân, tôi luôn nghe tiếng vỗ cánh e e e e của chúng, và chúng luôn bậu vào mặt tôi khi tôi díp mắt buổi trưa, và cố hút cái gì đó quanh mép tôi.
Nhà chồng tôi rất tốt với tôi, tuy nhiên tôi cũng phải làm nhiều việc, tôi luôn phải nấu nướng 1 cái gì đó, tôi có cảm tưởng, ở quê, họ ăn không ngưng nghỉ.
Cái bếp quê chồng là nỗi kinh hoàng với tôi, nó là 1 bãi rác không hơn khi lần đầu khi tôi vào bếp. rơm , củi, cành tre và giấy vụn khắp nơi.
Nó tối mịt dù ban ngày do toàn bộ bếp là màu đen do ám muội, và đun bằng rơm và củi, công nghệ mới được áp dụng là cái lò bằng than có quạt, nhưng lò đó luôn có 1 cái nồi to tướng phía trên đun 1 cái gì đó, hết nước thì đến cám lợn, rồi lại nước.. rồi cám.
Lần đầu tập đun bếp bằng rơm, tôi làm cháy luôn cái que tre dùng để ủn rơm vào, và cũng suýt làm cháy cả cái bếp, trong bếp đầy những tre gỗ nhỏ để đun, rơm thì hết lại ra rút ở vườn..
1 điều làm tôi không vui là bố chồng tôi, mặc dù ông rất quý tôi, đó là việc ông khạc đờm.
Ông hay hút thuốc lào, đó là 1 cái ống tre có cái lỗ để cho thuốc, trong ống tre lại có nước, nước đó tôi làm đổ ra 1 lần và có mùi tởm lợm, bố chồng hay tọp má rít thành tiếng giống như tiếng ta giật bồn cầu.
thuốc lào khiến ông hay khạc đờm, ông hít 1 hơi dài, khạc 1 phát, vài nhổ vào cái ống của riêng ông, giống cái hộp bia 500ml loe miệng. tôi luôn sợ cái lọ đó, tôi luôn dùng chân đủn nó ra xa vì sợ làm đổ nó.
Nhưng lắm lúc ông lười, ông khạc ở gian giữa ( phòng khách ) và hít thêm 1 hơi, ông nhổ ra sân, đàn gà bu lại ăn thứ cám cò kì dị đó.
Nhưng tôi ghét nhất khi ông ngồi ở gường tôi ngủ , và khạc đờm nhổ qua của sổ ( cánh của sổ tôi luôn đóng kín buổi đêm nhưng ban ngày phải mở ) cục đờm bay qua gường của tôi, phi ra ngoài nếu may mắn, nhưng thông thường, cục đờm đó luôn vướng vào chấn song cửa sổ của tôi, quấn rất nhanh vài vòng mà người khạc biết cũng lờ đi. tôi phát điên khi phải lau nó lúc vắng ông, đôi khi tôi quên mất chính xác chấn song nào bị cục đờm bám, thế là phải lau toàn bộ chấn song với cảm giác cục đờm xanh ở mọi nơi, tởm. và để lâu thì nó khô đi, thành 1 thứ keo dính, tôi phải dùng 1 con dao cùn để cạo nó ra.
Mẹ chồng tôi cũng rất tốt với tôi, nhưng bà luôn bị đau gì đó, bà có tật rên.
Cứ đêm là bà đau, đau là rên, lắm lúc bà rên lúc 2 giờ sáng, bà rên kiểu như nửa khóc nửa ai-oán, cộng với tiếng côn trùng nỉ-non khắp nơi, làm tôi nổi gai ốc vì sợ.
Nhà chồng tôi chỉ náo nhiệt từ 28, đó là ngày con lợn bị chọc tiết…
Đó là lúc, cơn ác mộng của tôi bắt đầu, suốt mấy ngày, họ chỉ toàn ăn và uống vào nói, bố chồng tôi khạc đờm gấp 3, mẹ chồng tôi rên to gấp đôi.
4h sáng, tiếng người gọi nhau râm ran, chồng tôi đã dậy từ lúc nào, và tiếng con lợn kêu lập tức đánh thức cả xóm : éc …éc..éc
Tôi trùm chăn kín đầu, bịt vào tai, mà cũng ko chịu nổi, tiếng chồng tôi và anh chồng và các họ hàng to dần xen với tiếng con lợn đang yếu dần, họ gọi nhau đun nước bê nong bê nia chia thịt, rồi tôi nghe tiếng con lợn rống lên trước khi ằng ặng khi bị đâm, thế là xong đời nó.
Tôi phải dậy, vì không thể nằm khi mọi người dậy hết, tôi giúp đun nước, con lợn đã được cạo lông trắng hếu, giờ tôi biết thêm 1 điều về chồng tôi, hóa ra anh là 1 đồ tể chuyên nghiệp. anh thậm chí biết chọc ngón tay vào chậu tiết để nếm tiết canh đo mặn nhạt. khoắng tiết 1 vòng để biết độ đông đặc lâu nhanh. Họ gọi nhau xẻ thịt rồi nhồi làm dồi, rồi giã làm giò, rồi xẻ để gói bánh chưng, tôi gần rời 2 cánh tay vì phải giã giò, là việc duy nhất tôi biết làm. Rồi suốt cả đêm hôm đó, tôi thức để trông nồi bánh chưng, thú thật ngồi ngủ gật canh nồi bánh mà tôi nhớ
Hanoi quá, tôi cũng không thích ăn bánh chưng, nó giống như món xôi giã nát với cục mỡ lầy nhầy chính giữa.
Ở quê, xưng hô cũng là 1 vấn đề, tôi xưng chị với vài đứa trẻ và lần nào mẹ chồng tôi bảo : “ấy ấy phải gọi bằng cậu!”có vẻ như bất kì thàng trẻ con nhem nhuốc nào cũng có thể là cậu tôi hoặc anh tôi, đến nỗi tôi phải chào tất cả bọn ranh con bằng cậu cho chắc.
Suốt cả tết, quê chồng tôi lao vào những cuộc rượu liên miên, chồng tôi say suốt, còn tôi và các phụ nữ thì luôn nấu ăn, dọn, rửa.. rồi lại nấu ăn.
Ở quê, tôi nhận ra ai cũng có thói quen rung đùi, mỗi khi ngồi vào ghế, là chân họ rung lên bần-bật, như chứng động kinh, tôi cố quan sát xem họ rung chân phải hay trái, nhưng hỡi ôi, dù chân phải hay trái thì họ đều rung, có người còn rung cả 2 chân cùng lúc, và nếu họ dựa vào gường của tôi thì rung cả gường, giống như đang có 1 cơn động đất nhẹ.
Đến giờ, tôi cũng ko hiểu sao họ lại run rẩy chân khi ngồi ??
Ở quê, tắm cũng là 1 cực hình, suốt cả ngày nấu nướng dầu mỡ, nếu muốn tắm, tôi phải đun 1 nồi nước ( mất cả tiếng để đun nồi nước này ) rồi bê vào nhà tắm với 1 chậu nước lạnh, rồi bê vào nhà tắm là 1 phòng hết sức hẹp không hề có mái che (quê chồng tôi, họ nghĩ nhà tắm thì ko cần mái thì phải), trộn nước nóng lạnh với nhau cho vừa, và ngồi xổm, giội từng gáo nước lên người. và phải nhanh trước khi nước nguội, tôi luôn vừa tắm, vừa suýt soa vì lạnh.
Liền ông ở quê chồng tôi hết sức thô lỗ khi ăn, họ luôn nói rất to như cãi nhau, vừa nhai, vừa nói, vừa hút thuốc, họ chỉ ngừng nói khi ngậm mồm uống hớp rượu hay rít hơi thuốc, và chỉ 1 giây là họ tranh nhau nói, và tôi sợ nhất là hút thuốc, họ thả khói đầy nhà, đến nỗi tôi cảm tưởng đang ở phòng hơi ngạt của đức quốc xã. Và miếng thịt nào tôi ăn, cũng cảm tưởng như ăn thịt xông khói.
Và hầu như lúc nào cũng ăn, 8h sáng họ đã bắt đầu bưng lên mâm rượu thịt đầy tú ụ, và ăn đến 10h đêm luôn.
Suốt chục ngày tết quê chồng, tôi không có 1 ngày an lành, rửa dọn nấu, loanh quanh từ bếp đến cầu ao, đầu tóc xổ tung, quần áo tõa tượi…
Tôi nhớ Hanoi với phòng ngủ của tôi, bồn tắm của tôi, café sáng của tôi, bàn trang điểm của tôi…
Năm nay, tết lại sắp đến, tôi biết chồng tôi sẽ lại giục tôi về quê ăn tết.
Tôi đã qua phố sinh Từ, mua 1 con dao chọc tiết lợn, bản rộng nhất 15 phân, cán gỗ, đầu nhọn hoắt, giá 95 nghìn đồng, đúc từ nhíp xe ô tô gát 69 của liên xô cũ.
Nếu thàng chồng mở mồm bắt tôi về quê nhà nó ăn tết, tôi sẽ đâm nó chết.
Tôi điên rồi các chị ơi….


Thursday, March 12, 2015

CHUYỆN VỀ 3 MẸ CON BÀ NGÔ ĐÌNH NHU

Mais où sont les neiges d'antan?  (Villon)

Nhưng đâu rồi những cánh tuyết năm xưa?

I. NGÔ ĐÌNH LỆ THỦY: HỒNG NHAN MỆNH YỂU
Kim Thanh

 Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương
(Đoạn Trường Tân Thanh)

1. Niên khóa 1962-63, tôi học năm cuối của chương trình Cử Nhân Giáo khoa Văn
Chương Pháp tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Còn nhớ cùng lớp tôi lúc ấy có nhạc sĩ Hùng Lân (Hoàng Văn Hương), người hiền lành, dễ mến, như một thầy tu, thỉnh thoảng nổi hứng bất tử ngồi lén ghi nốt nhạc ngay tại chỗ, trong lúc thầy giảng bài. Có bà sơ Phạm Thị Nhâm, mà tôi thường hỏi mượn cua mỗi lần trốn học đi chơi, sau trở thành hiệu trưởng trường Nữ Thánh Tâm Nha Trang, và đã nhận ra tôi ngay khi vừa thấy tôi lò dò đến trường xin dạy. Có Đặng Tiến, da vàng xanh như người bị sốt rét kinh niên, tóc bờm xờm không chải, trước 1975 ở phòng tùy viên Tòa đại sứ VNCH tại Thụy Sĩ, đào ngũ qua Pháp sống cho đến bây giờ, chuyên viết báo nịnh hót Cộng sản và phê bình gia văn chương tầm cỡ. Có Đại úy Ngô Văn Minh, sau lên chức Đại tá Tham mưu trưỏng Quân Đoàn III, Biên Hòa. Có Wang Seng, cô bạn Tàu, Bùi Thế Cần, Lương Thị Nga, Thái Thị Nhân, Lê Thị Bích, Thái Tuyết Lê, Lê Thị Ngọc Loan, và Irène Công Huyền Tôn Nữ Phụng Tiên  –đồng hương Nha Trang và đồng môn trong lớp Latin của ông Le Menn và Michel Piclin–  tất cả đang ở Pháp. Có Nguyễn Nương Minh Châu, sau thành vợ Bác sĩ Đinh Hà, cả hai là cựu JECU (viết tắt của Jeunes Etudiants Catholiques Universitaires, Thanh Sinh Công Đại Học), đang sống rất thầm lặng tại một nơi nào trên đất Mỹ. Học trên chúng tôi là Nguyễn Ngọc Diễm, Phạm Dương Hiển, Lưu Nguyên Đạt, Nghiêm Hồng (con giáo sư Nghiêm Toản), và Nghiêm Ngọc Thúy (con ông Nghiêm Xuân Thiện, sau này làm hôtesse cho Air France).

Đầu niên học, từ lầu ba, tôi và Bùi Thế Cần (học giỏi có thể nhất lớp, con của dân biểu Bùi Tuân, Huế) hay xuống lầu một, vào giảng đường Dự Bị, để tìm người quen giữa đám nai vàng ngơ ngác, hay đúng hơn tuyển mộ tân binh cho JECU. Lúc ấy, Cần là trưởng JECU Liên Trường, Nguyễn Ánh Tuyết (con trai), thư ký, còn tôi, trưởng Nhóm Văn Khoa Pháp. Một hôm, tôi thấy đứng trước cửa giảng đường một sĩ quan mang ba hoa mai bạc, đầu đội béret đỏ, tay cầm một xấp cua. Ông dáng cao gầy, vẻ tươi cười. Gặp ông, tôi khẽ gật đầu chào, và ông lịch sự chào lại. Có người cho biết, đó là Đại tá Cao Văn Viên. Mấy năm sau, ông lên tướng, trở thành xếp quá lớn của tôi, và lấy bằng Cử Nhân Pháp. Có kẻ xấu mồm nói, ông nhờ người đi học và đi thi thay cho ông. Tôi không tin. Vì ở Văn khoa Pháp, thầy cô không phát cua, phải vào lớp ghi chép hoặc mượn ai, và kỷ luật thi cử lúc bấy giờ khá gắt gao, ít sinh viên, lại phải thi oral, thầy trò biết mặt nhau hết, rất khó gian lận.

Vào trong giảng đường, Cần và tôi ngồi lẫn lộn với đám tân sinh viên, nghe cha Pineau (thay cha Cras) giảng về Socrate và Hégel hay thầy Kiết dịch tiếng Pháp ra tiếng Việt mà phát mệt trở lại. Một hôm, chúng tôi thấy Yvonne Lan Hương, cô bạn trong JECU, học dưới một lớp, đang ngồi trò chuyện với một cô. Bèn sà đến. Yvonne giới thiệu, đây Thủy, Ngô Đình Lệ Thủy. Lần đầu gặp cô, chúng tôi không nói gì hơn ngoài vài câu xã giao thông lệ.

Về sau, khi Lệ Thủy gia nhập JECU Văn khoa Pháp, tôi tiếp xúc với cô thường hơn, nhưng cũng chỉ để thông báo ngày giờ và chương trình họp của Hội. Cô có dáng thanh thanh, vẻ thùy mị, thông minh, ít nói, ít cười, đôi mắt linh hoạt, mặt trái soan, cằm hơi nhọn, tóc dày, cài bandeau trắng hoặc đỏ. Chúng tôi nói tiếng Pháp với nhau, cho nên bây giờ tôi không biết cô nói tiếng Việt ra sao, giọng miền nào. Đó là một điều mà sau gần nửa thế kỷ, già đi, nghĩ lại, tôi thấy “dị hợm”, mắc cỡ, mặc dù do thói quen, giống như các em Việt Nam hiện tại ở Mỹ nói chuyện bằng Anh ngữ, chứ chẳng vì “snobisme”, thời thượng, lòe thiên hạ. Lệ Thủy thường mặc váy đỏ, áo sơ mi trắng đi học, đôi khi cả đồng phục Thanh Nữ Cộng Hòa. Nói chung, cô đẹp, nhưng không lồ lộ, sexy như Irène, không tươi lộng lẫy như Lương Thị Nga. Một sắc đẹp trang nhã, đài các, kín đáo. Tôi để ý, cô ở đâu là luôn luôn có một, hai anh chàng gorilles (hộ vệ), giả dạng sinh viên, ngồi phía dưới, cách cô một dãy bàn, nhìn chòng chọc vào mọi người.

JECU Văn Khoa Pháp lâu lâu ra một tờ Bản Tin (Bulletin), bằng tiếng Pháp, do Bùi Thế Cần, Ánh Tuyết, Minh Châu và tôi viết gần hết, vì không ai gửi bài. Trong đó, thỉnh thoảng có đăng một vài bài thơ tình lẩm cẩm của tôi, không đối tượng, chỉ là gửi gió cho mây ngàn bay, mà bây giờ tôi còn nhớ lõm bõm vài câu:

               Je veux tremper mes lèvres
               Dans l' eau pure de ton coeur
               Et émerger frissonnant
               D' une aube de lumière...
               (Tôi muốn nhúng đôi môi
               Vào nước tinh tuyền tim em
               Và bừng lên run rẩy
               Dưới ánh sáng bình minh…)

 hay những câu dịch thơ của John Keats, hoặc Tennyson, đại khái:

               Ce n' est pas toi que je regrette
               C' est le rêve par toi brisé
               (Không phải em mà tôi tiếc nuối
               Mà giấc mơ vì em vỡ tan)

Lệ Thủy đọc xong, mày hơi nhíu, bảo tôi, nghiêm trang như một cô giáo la rầy học trò: "Je n' savais pas que tu es si romantique. Les poèmes d’amour, ça c’est vraiment beau, mais ils désespèrent aussi" (tôi không biết anh lãng mạn dữ thế. Những bài thơ tình hay thật, nhưng cũng làm người ta tuyệt vọng). Tôi khoát tay, ấp úng chối tội như ăn vụng bị bắt quả tang: "Un peu, oui, j’ ne les ai faits que pour m'amuser. Rien de sérieux!" (Chút chút, đúng, tôi chỉ làm để chơi vui thôi mà. Không có gì quan trọng!).

Lệ Thủy không bao giờ đến CLB Phục Hưng để họp, ngoại trừ một lần, tôi nhớ, tham dự thánh lễ đầu tháng cho toàn JECU do cha Pineau cử hành, rồi về ngay sau lễ. Chúng tôi chỉ gặp nhau tại giảng đường Propédeutique, trong giờ nghỉ giải lao, năm sáu đứa ngồi cuối phòng, có khi tại bàn của Lệ Thủy, thảo luận, hay trao đổi vài thông tin cần thiết. Hai anh chàng gorilles, chắc đã được báo trước, đứng xa xa hút thuốc, để chúng tôi yên.

Một ngày thứ bảy, JECU Liên Hội tổ chức đi thăm trại cùi và nhà thương điên Chợ Quán, sau đợt công tác thăm viếng dân lao động nghèo tại Xóm Chùa cách đó mấy tháng. Mỗi người góp mười đồng, làm chi phí lặt vặt, và ăn trưa. Số tiền không nhỏ, hơn ba tô phở vào thời ấy, đối với ngân quỹ khiêm tốn của sinh viên còn lãnh lương cha mẹ. Lệ Thủy đưa cho tôi một trăm đồng, trước mặt Cần, nói là tiền của “maman cho Hội”, nhưng “tiếc là bận việc bên Thanh Nữ Cộng Hòa, không đi với tụi toa được.” Tôi nhận tiền, cám ơn, rồi nói nhỏ vào tai Cần: “Như thế cũng hay. Có Thủy tham gia, hai  gorilles phải theo, phiền phức, mà trông ngứa mắt lắm!”

Hôm ấy, tất cả chúng tôi, khoảng bốn chục người, chia nhau lên hai xe buýt, tuyến đường Chợ Bến Thành-Trần Hưng Đạo. Hoặc tự túc, có xe hơi riêng, như hai chị em Anh Thư và Hạp Thư, hay “đại ca” Dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ. Tổ y tế gồm các sinh viên Y khoa, trang bị ống nghe và túi cứu thương, do Đinh Hà hướng dẫn, làm công tác khám bệnh, phát thuốc. Tổ ăn uống do Rosa, sau thành vợ của Nguyễn Ánh Tuyết, và người chị là Rosette, điều động. Tổ văn nghệ gồm một cây guitare và một số ca sĩ mầm non, do các cô bên Dược, tôi nhớ có Yvette Trương Tấn Trung, Tôn Nữ Tâm Thường, và Nguyễn Cẩm Nhung (con của Luật sư Nguyễn Văn Huyền) phụ trách. Bùi Thế Cần làm tổng tư lệnh, Ánh Tuyết phụ tá hành quân.

Đầu tiên chúng tôi thăm nhà thương điên. Toàn đàn ông. Vài ông, tóc dài rũ rượi, biểu diễn nhiều màn rất… điên, như xé áo xé quần, rú lên những tràng cười kinh dị, khiến các cô sợ quá, mặt mày tái mét. Nhưng đa số hiền lành đứng nhìn chúng tôi đi qua, vẻ thẫn thờ, ngây dại. Tôi cười, chào, hỏi thăm, họ vẫn vô cảm. Rồi cả toán chuyển sang thăm trại cùi. Thói quen nghề nghiệp, Đinh Hà phát sẵn mấy chai alcool, để tùy nghi. Bệnh nhân rất đông, sống theo khu, gồm cả con nít, trông rất tội nghiệp. Tôi không lạ với cảnh này, vì gần xóm tôi ở Nha Trang, khu Lạc Thiện, cũng có một trại cùi do các tu sĩ dòng Franciscains sáng lập và đảm nhiệm, nhưng lúc ấy tôi còn nhỏ, chỉ là một khán giả bàng quan, đi ngang tò mò đứng nhìn vào qua những vòng rào kẽm gai dày. Bây giờ, lần đầu tiên có dịp thấy tận mắt những thân hình gầy còm, lở lói, những bàn tay, bàn chân co quắp, hoặc mất ngón, những cặp mắt mờ đục, mù lòa. Và lòng dâng tràn một niềm cảm thương vô hạn. Tổ y tế bắt đầu khám, phát thuốc cho những bệnh nhân cùi bị cảm cúm, đau đầu, sổ mũi, do trưởng trại giới thiệu, yêu cầu. Các cô tập họp những cháu bé lại, phát kẹo, tập chúng hát theo nhịp đàn guitare của Ánh Tuyết, vỗ tay, rồi cười lớn tiếng với nhau. Vài cháu chưa bị nhiễm bệnh, mặt mày trông rất sáng sủa, thông minh, phải theo sống chung với cha mẹ.

Tháng Sáu 1963, mãn trường. Bùi Thế Cần, Nguyễn Nương Minh Châu đậu Cử Nhân liền một khi. Tôi rớt oral chứng chỉ Văn chương Quốc âm –bắt buộc cho sinh viên Văn khoa Pháp, Anh– vì trong buổi thi vấn đáp với giáo sư Vương Hồng Sển tôi không nhớ Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị ông nào theo Tây, ông nào chống Tây, và đem thơ ông này cắm vào cằm ông kia. Với giáo sư Bửu Cầm, kết quả còn tệ hơn, tôi không biết chiết tự bốn câu thơ chữ Nôm của thi sĩ Tuy Lý Vương, đứng chịu chết như Từ Hải, nhìn thầy cười cầu tài. Phải thi lại hai môn vấn đáp này. Còn những nàng tiên nga “trong đám xuân xanh ấy”, mà tôi đã kể tên ở trên, chưa có ai “theo chồng bỏ cuộc chơi”, như trong thơ Hàn Mặc Tử, nhưng đã lần lượt lên đường du học Pháp một cách lặng lẽ từ năm thứ hai, thứ ba. Cần ra Huế, tôi về quê Nha Trang, dạy tại Collège français môn Việt văn, cũng nhờ cái chứng chỉ Văn chương Quốc âm khó ác ôn ấy.

 Không bao giờ tôi gặp lại Lệ Thủy, đã biến mất, từ ngày cô tặng JECU chúng tôi một trăm đồng. Tôi biết cô cũng đã đậu Propédeutique, qua bản niêm yết dán trước của trường, với tên chính thức, đầy đủ: Anne-Véronique Ngô Đình Lệ Thủy, sinh năm 1945. Chiến sự mỗi ngày leo thang. Khủng hoảng chính trị gia tăng. Sinh viên và Phật tử xuống đường hàng ngày. Cảnh sát dàn chào với dùi cui, lựu đạn cay. Những tờ báo chui chửi thậm tệ chế độ. Làm tôi rất quan tâm vì, qua Lệ Thủy, cảm tình của tôi với cụ Diệm rất sâu nặng, không như một vài bạn JECU lớn tuổi hơn, chẳng hạn Nguyễn Hữu An. Tôi lờ mờ hiểu rằng thế nào bàn tay lông lá của người Mỹ cũng đã nhúng vào nội bộ Việt Nam. Nhưng tôi tin tưởng và cầu mong cụ Diệm sẽ vượt qua hết như lần đảo chánh hụt 1960.

Thời gian sau đó, nhiều biến cố xảy ra, dồn dập. Lựu đạn nổ tại đài phát thanh Huế. Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu. Nữ sinh viên Quách Thị Trang biểu tình bị cảnh sát bắn chết tại chợ Bùng Binh Sài Gòn. Rồi đảo chánh. Ngày 2/11/1963, nghe tin hai anh em cụ Diệm bị giết, ba tôi chảy nước mắt và trong giờ kinh tối ba bắt cả nhà đọc thêm kinh cầu hồn cho hai cụ. Còn tôi tự nhiên thấy buồn vô hạn, suốt mấy bữa, mặc dù chưa hề lãnh được một tí ơn mưa móc nào từ chế độ. Lúc ấy Lệ Thủy đang ở ngoại quốc với mẹ trong chuyến công du giải độc.

Liền sau đảo chánh, các phản tướng chia nhau tiền thưởng của CIA, nhảy đầm thả giàn, phá bỏ các ấp chiến lược. Báo chí, sách vở (của anh chàng Hoàng Trọng Miên nào đó chẳng hạn), hùa theo các ký giả Mỹ, mở chiến dịch bôi nhọ gia đình họ Ngô, và bà Nhu, Lệ Thủy cũng bị dính miểng. Nào là bà Nhu có một chiếc ghế khích dục, trong dinh Độc lập, nhưng sự thật đó chỉ là chiếc ghế làm răng thường thấy trong phòng nha sĩ. Nào là ông Nhu bất lực. Nào là bà Nhu tư tình với cụ Diệm, với ông tướng này, ông tướng nọ. Nào là Lệ Thủy có nhiều bồ, kể cả một anh người Nhật, Lệ Thủy thất tình, học Văn Khoa, chỉ ghi danh, không đến lớp mà cũng có bằng, v.v…

Tôi đọc và thấy buồn nôn. Vô lý quá, vậy mà dân chúng ít học hoặc quá khích vẫn tin, thế mới kỳ lạ. Thì cũng giống như dân quê miền Bắc mười mấy năm sau, đã ném đá vào sĩ quan cải tạo chúng tôi một cách thật tình, nguyền rủa chúng tôi là “quân mọi rợ giết người, ăn thịt con nít, hiếp dâm phụ nữ.”

Công việc và đời quân ngũ làm tôi quên Ngô Đình Lệ Thủy. Kỷ niệm với JECU những ngày có cô cũng dần phai theo thời gian.

2. Cho đến đầu 1967. Bốn năm sau. Tôi được tăng phái cho Tiểu đoàn 4/44 Bộ Binh trong chiến dịch Bình Định Nông Thôn tại quận Thiện Giáo (Ma Lâm cũ), nổi tiếng nguy hiểm, thuộc tỉnh Phan Thiết. Ngày đi hành quân tìm địch, qua các thôn xóm, đêm đóng quân ven rừng, mắc võng giữa hai thân cây nằm nghe tiếng đại bác ầm ì xa xa, nhìn hỏa châu từng hồi loé sáng trên ngọn Tà Dôm, mà thương cho kiếp lính tráng nay đây mai đó, trực diện cái chết cận kề. Một buổi trưa, tôi đang nói chuyện với ông Đại úy Tiểu đoàn Trưởng, một viên đạn rít ngang nón sắt, cách đầu tôi một đường tơ, xuyên ngay cổ binh nhất H., mang máy truyền tin PRC 25 đứng gần đó, làm anh gục chết tại chỗ. Tên du kích bắn sẻ vụt bỏ chạy, bị lính Tiểu đoàn rượt theo và lãnh trọn một tràng carbine, phơi thây. Một người lính, bà con của H., giận dữ chửi thề và muốn xẻo tai tên này để trả thù, tôi phải khuyên ngăn mãi, mới thôi. Cảnh tượng quá thảm cho bên này, bên kia.

Tôi nghĩ thêm, những người lính chiến miền Nam, hơn ai hết, là những người thực sự yêu chuộng hòa bình, và vì yêu chuộng hoà bình họ phải hy sinh mạng sống đánh đuổi giặc xâm lược từ Miền Bắc. Nếu phải chống đối chiến tranh thì họ mới là những người có quyền lên tiếng trước tiên, chứ không phải những anh làm thơ, làm nhạc ấm ớ ở hậu phương, sợ chết, trốn quân dịch, núp bóng các ông sĩ quan văn phòng cao cấp mê văn nghệ, để mà gào thét ngưng chém giết, nối vòng tay lớn, tay nhỏ. Rồi tại sao lại phản chiến một chiều? Tại sao không ra Bắc kêu gọi Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp ngưng gây hấn và tấn công miền Nam? Tại sao chỉ to mồm lên án miền Nam là nơi đã cho họ cơm ăn, áo mặc, tự do sáng tác, tự do phản bội? Bao nhiêu câu hỏi cứ lẫn quẫn trong tôi, cho mãi đến hôm nay, khi những dòng nhạc dòng thơ góp phần làm mất nước ấy vẫn còn được yêu chuộng, mê man, và các tác giả được thổi bằng ống đu đủ lên tận mây xanh.

Nói tiếp về Ngô Đình Lệ Thủy. Một ngày cuối tuần và cuối tháng 4, 1967, tôi cùng với vài sĩ quan bạn được phép lên Phan Thiết, cách Thiện Giáo khoảng mười lăm cây số, để nghỉ xả hơi qua đêm, và nhậu bia với gà luộc. Tại quán bánh căng “còn ướt sền sệt”, chúng tôi gọi mỗi người hai tô, mỗi tô hai mươi lăm cái, đổ đầy nước mắm, ăn cho bõ những bữa cơm sấy, đồ hộp ngán đến tận óc. Tôi mua một tờ nhật báo, và giật mình đọc tin Lệ Thủy đã chết trong một tai nạn xe hơi tại Pháp, chính xác tại Longjumeau, vùng Essonne, ngoại ô Paris. Chết tại chỗ. Lúc ấy cô vừa hai mươi hai tuổi. Bài báo kể, ban đêm, cô lái xe nhỏ và bị một camion ngược chiều húc thẳng, đầu xe của cô nát bấy. Sau này, đọc trên tờ Time, số Friday April 21, 1967, thấy cũng đăng đúng tin ấy.

Mặc dầu tình cảm của tôi đối với cô, và ngược lại, chưa bao giờ thắm thiết, gắn bó, đong đầy, đủ để những giọt lệ trào dâng chan chứa, như trong mắt nàng kỹ nữ Tầm Dương làm đẫm vạt áo xanh của người Giang Châu Tư Mã thuở trước, tôi vẫn thấy bàng hoàng, xao xuyến. Tôi bỏ dở bữa nhậu đã từ lâu chờ đợi, ngồi thừ người, nghĩ đến những kỷ niệm thời sinh viên, JECU, những buổi họp, những bài thơ tình lẩm cẩm và lời phê bình nặng ký của cô, một trăm đồng “maman cho”. Đêm về, qua cửa sổ khách sạn, tôi nhìn trời xanh thẳm không gợn mây và nửa mảnh trăng mới mọc vàng úa trên núi Tà Dôm mà nhớ câu thơ của Mạc Đĩnh Chi khóc nàng công chúa Tàu:

Y! Vân tán, tuyết tiêu
Hoa tàn, nguyệt khuyết
(Ôi! Mây tản, tuyết tan
Hoa tàn, trăng khuyết).

3. Hai tháng sau, tôi được lệnh thuyên chuyển đi Qui Nhơn. Tôi đáp chuyến bay Air VN đến Sài Gòn trước, dự trù ở chơi vài hôm, rồi về Nha Trang nghỉ phép một tuần, trước khi ra Qui Nhơn đáo nhậm đơn vị mới. Hành trang là túi ba lô và cây carbine đeo vai, cây Colt bên hông, và bộ quân phục mặc trên người. Trong chuyến bay có một số sĩ quan trẻ từ các đơn vị tác chiến về, cũng trang bị tận răng như tôi, báo hại các cô tiếp viên phải gom hết súng lại, đem cất đi một nơi phía sau phi cơ. Tại phi trường Tân Sơn Nhất, đang đứng chờ taxi, tôi bất ngờ thấy Thái Tuyết Lê cũng từ chuyến Air France xuống. Tôi hỏi dồn:

- Tuyết Lê phải không? Toa về từ Pháp? Không ai đón sao?

- Không, moa không báo trước ngày giờ, muốn dành ngạc nhiên cho gia đình.

Tuyết Lê, người Huế, cựu JECU mặc dầu ngoài Công giáo, là em bà chủ tiệm kem Phi Điệp, chợ Bến Thành-Trần Hưng Đạo, du học Pháp từ năm thứ ba Văn Khoa. Tay bắt mặt mừng, tôi mời Tuyết Lê đi chung chuyến taxi vào thành phố. Trong xe, Tuyết Lê nhìn tôi đăm đăm, tấm tắc khen, “toa trông đen, nhưng có vẻ nam nhi, hùng dũng, khác với hồi còn là thư sinh.” “Dĩ nhiên", tôi vênh mặt đáp, bắt chước nghệ sĩ Hùng Cường, "lính mà em!” một cách vô duyên. Cả hai cùng cười vui.

Câu chuyện xoay quanh bạn cũ bên đó, bên này, và tôi được biết Irène Phụng Tiên học ở Grenoble, quê hương của Stendhal, tác giả mà tôi yêu mến từ thời còn học tại Jean-Jacques Rousseau. Rồi cái chết của Ngô Đình Lệ Thủy. Đổi sang tiếng Pháp, để tài xế taxi không nghe hiểu, Tuyết Lê kể:

- Tại Paris, tụi moa có đi viếng xác Lệ Thủy và dự lễ cầu hồn và đưa nó ra nghĩa trang. Đầu Lệ Thủy bị kính trước cắt gần lìa cổ. Khi liệm, được khâu lại và quàng bằng chiếc khăn lụa màu thiên thanh, trông mặt nó đẹp quá, thanh thản như một thiên thần. Bà Nhu từ Rome bay sang, ôm xác con mà khóc ngất, khiến tụi moa cũng khóc theo. Chiếc xe bị nạn là chiếc Peugeot còn mới do Tổng giám mục Ngô Đình Thục mua cho Lệ Thủy. Tài xế xe camion không việc gì cả, bị thẩm vấn qua loa, rồi cho về.

Tôi hỏi:
    - Lệ Thủy học trường nào ở Paris?
    - Trường Luật.
    - Tụi toa có gặp Thủy lần nào trước đó?
    - Thỉnh thoảng. Thủy vẫn gentille (dễ thương) như trước kia.
Tôi bỗng thở dài:
   - Tội nghiệp nó quá! Đúng là hồng nhan bạc phận!

Xe ngừng trước tiệm kem Phi Điệp. Tuyết Lê giành trả tiền, mời tôi vào chơi, ăn kem. Nhưng tôi thoái thác, “thôi, toa mới về, cần gặp gia đình, để dịp khác”, rồi vác túi ba lô và cây súng lững thững bước đi, gọi xích lô chở về nhà ông bác họ ở đường Nguyễn Trãi.

4. Nếu còn sống, năm nay Lệ Thủy cũng đã 66 tuổi. Quá khứ xa rồi, nhưng khi ngồi viết bài này, tôi vẫn thấy lòng bồi hồi, bởi kỷ niệm. Tôi vẫn nhớ lời cô “la rầy” tôi một lần về những bài thơ tình làm tuyệt vọng. Và hôm nay tôi sửa lại câu thơ ngày đó:
                  C’est bien toi que je regrette
                  Ce n’est pas le rêve par toi brisé
                  (Chính em mà tôi tiếc nuối
                  Không phải giấc mơ vì em vỡ tan)

Nhưng trong một nghĩa nào, vì mang bệnh kinh niên lãng mạn, tôi nghĩ rằng mỹ nhân Ngô Đình Lệ Thủy mất sớm như vậy cũng hay. Để không bao giờ cho thế gian thấy tóc mình bạc màu.

Portland, 1/11/2011


II. BÀ NGÔ ĐÌNH NHU: NĂM MƯƠI NĂM CÔ ĐƠN
Kim Thanh

      Tin từ Ngô Đình Trác báo cho ông bạn tôi, Luật sư Trương Phú Thứ, hay rằng Bà
quả phụ Ngô Đình Nhu, nhũ danh Maria Trần Lệ Xuân, đã về Nước Chúa lúc 2 giờ sáng ngày lễ Phục Sinh, 24/4/2011, hưởng thọ 87 tuổi.

      Tôi viết bài này gửi các thân hữu, bạn bè, và những người mà tôi biết chắc vẫn còn ái mộ, quý mến  –hoặc ít ra không thù ghét– Bà Ngô Đình Nhu, chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, và Tổng thống Ngô Đình Diệm. Không như những phản tướng 1963, tôi chưa hề gặp mặt Bà Nhu, chưa hề nhận ân sủng nào của Bà hay của chế độ, ngoài một trăm đồng Bà gửi tặng Hội JECU (Thanh Sinh Công Đại Học) năm xưa, được Ngô Đình Lệ Thủy trao cho tôi (xin đọc bài “Ngô Đình Lệ Thủy, hồng nhan mệnh yểu”).

      Bà Ngô Đình Nhu là người nổi tiếng thuộc dòng họ Ngô Đình và người liên hệ trực tiếp với chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa duy nhất còn sống sót vừa ra đi. Dù thương hay ghét Bà, ai cũng phải công nhận Bà là một nữ lưu thông minh, có tài có sắc, một cộng sự viên đắc lực, quả cảm của chồng và anh chồng. Qua hai nền Cộng Hòa, chưa có một phụ nữ tầm cỡ public figure (người của quần chúng) Việt Nam nào làm tôi thấy cảm phục và hãnh diện như Bà Ngô Đình Nhu. Cho dù, dĩ nhiên, Bà chưa hoàn hảo, cũng như bất cứ ai trên đời. Trước và sau vụ đảo chánh 1963, Bà là mục tiêu tấn công của những nhà báo và chính khách Việt Nam và ngoại quốc, nhất là Mỹ, chưa nói Cộng sản đội lốt tôn giáo, đối lập, “cách mạng”, đã không ngần ngại vu khống, xuyên tạc, đổ lỗi, thêu dệt đủ điều, kể cả về đời tư của Bà. Đọc tất cả những tài liệu đã được giải mật, và những sách báo cũ, và những sách báo mới trên các Diễn Đàn Hải Ngoại –những diễn đàn của Đui Chột, của Thù Hận, của Ác Độc– tôi thấy bất nhẫn và buồn nôn trước sự hèn hạ, nhỏ nhen của con người, vì dù sao Bà cũng chỉ là một phụ nữ và không giữ một chức vụ chính thức nào trong chính quyền. Bọn họ, kể cả Mỹ và Tây Phương, không mã thượng, anh hùng đủ, than ôi, để đánh Bà bằng một cành hoa hồng, nhưng đã dùng mọi thứ dao búa. Họ dã man, trên phương diện tinh thần, không khác chi một Gia Long đã hành hình, về thể xác, nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái 16 tuổi bằng cách cho voi dày.

       Bà là hiện thân và nạn nhân của Bất Hạnh như một trong những nữ nhân vật chính tuyệt đẹp của những vở bi kịch Hy Lạp. Nhưng khác với họ luôn vùng lên, phản kháng, chất vấn Thượng Đế, Bà đã im lặng, chấp nhận mệnh số nghiệt ngã, và âm thầm chịu đựng tất cả những sầu khổ, oan khiên, bất công, suốt một nửa thế kỷ.

       Một điểm nữa, sáng ngời, về con người của Bà, mà tôi tin rằng đến cả kẻ thù cũng không thể phủ nhận. Khi chồng bị thảm sát, Bà còn trẻ đẹp lắm  –điều mà báo chí Mỹ thiên vị và ác độc cũng phải ca ngợi. Nhưng Bà ở vậy, thờ chồng, nuôi đàn con còn vị thành niên, không có của chìm của nổi, không lầu son gác tía, nhờ tham nhũng hoặc ăn cắp của công. Nếu có bằng chứng Bà phạm vào hai điều cấm kỵ này, chắc chắn báo chí và công luận Mỹ và Việt Nam, vốn thù nghịch, đã không bao giờ để Bà yên. Bà sống khép kín như một nữ tu tại gia. Không xuất hiện trước đám đông. Không cho nhân gian thấy tóc đổi màu, những dấu chân chim in trên đuôi mắt và những tàn phai bởi thời gian, theo gương những mỹ nhân tự thuở xưa. Không tuyên bố này nọ. "Thời của tôi qua rồi", bà thường nói với những người quen biết, như một lời giã biệt thế gian. Không mang tiếng, không bồ bịch, không bước thêm bước nữa. Không vì tiền bán thân cho tỷ phú. Nếu sống vào thời quân chủ, Bà xứng đáng nhận lãnh bằng khen "Tiết Hạnh Khả Phong".

       Bấy nhiêu thôi cũng đủ làm tôi yêu mến Bà như một người mẹ (bà kém mẹ tôi một tuồi). Ca ngợi Bà như một nữ chính khách một thời sáng giá, đảm lược, dám nói dám làm, như chồng Bà, trước vòng vây khốn của thù trong giặc ngoài. Kính trọng Bà như một thần tượng. Làm sao tôi không xúc động khi nghe tin Bà đã bước vào một cuộc hành trình cuối cùng, ngày Chúa chết trên cây thập giá và sống lại, để từ nay vĩnh viễn thuộc về của Tuổi, nói theo Edwin Stanton, belongs to the Ages.

       Nhà danh họa thuộc phái ấn tượng Auguste Renoir của những tuyệt phẩm chan hòa ánh sáng và màu sắc, những năm cuối đời, bị bệnh thấp khớp hành hạ, không đứng được nữa, phải ngồi vẽ tranh một cách đau đớn với bàn tay co quắp, nhức buốt. Người học trò của ông, danh họa Matisse, thấy vậy, thương ông, đã hỏi: “Tại sao Thầy phải tiếp tục ngồi vẽ một cách khổ sở như thế?” Renoir ngước nhìn khung vẽ, trả lời: “Đau đớn sẽ qua đi. Cái đẹp sẽ còn lại.”

       Tôi muốn nhắc lời của Renoir, để nói về Bà, trong một nghĩa nào. Đau đớn tinh thần của Bà Ngô Đình Nhu sẽ qua đi. Cũng như đau đớn thân xác của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Nhưng vẻ đẹp của Bà sẽ tồn tại. Vĩnh viễn.

      Tôi biết những kẻ chống và ghét Bà sẽ khó chịu vì bài viết của tôi. Không sao. Đời mà. Tuy nhiên, xin những kẻ ấy xử sự cao thượng một chút, như một con người. Hãy để Bà yên nghỉ, ít nhất trong thời gian này. Chờ sau ba tháng, một năm, mười năm nữa, rồi hãy chìa ra nanh vuốt, cũng chưa muộn.

     Tôi muốn báo tin cho các thân hữu của tôi và xin họ đọc một kinh, cầu nguyện cho linh hồn Bà mau về Cõi Vĩnh Hằng, và tìm được Bình An đích thực. Sau năm mươi năm cô đơn.


 
Kim Thanh
Ngày Chúa sống lại 8/4/2012

III. BẢN SONATE CHO MỘT NGƯỜI TỬ TẾ: LUCIA NGÔ ĐÌNH LỆ QUYÊN

Kim Thanh

      Tin dữ được chuyển đến tôi sáng nay từ một anh bạn phương xa làm tôi rụng rời,
như mới đây một người quen, không thân lắm, đột ngột ra đi, dù tuổi lớn và bệnh hoạn. Huống chi Ngô Đình Lệ Quyên rời bỏ dương trần lúc 53 tuổi –còn quá trẻ đối với tôi. Trong một phút giây, tôi mong đó không phải là sự thật. Biết đâu ai đó đã đùa dai tung trễ lên mạng ảo một poisson d’Avril, dù tháng tư sắp hết. Đến khi Luật sư Trương Phú Thứ gọi điện thoại kiểm chứng với Ngô Đình Quỳnh và sau đó tôi lên web thế giới và có trong tay bài báo bằng tiếng Ý và một đoạn băng video, thì chút hy vọng mỏng manh thật sự tan vỡ và nỗi đau buồn trong tôi lên tới tột độ.

      Bàng hoàng như mất một người thân thuộc. O mon Dieu, mais pourquoi, pourquoi, pourquoi? Tôi thầm hỏi Thượng Đế và cho riêng tôi như một lời thở than, đột nhiên –như năm xưa khi đọc tin chị cô, Lệ Thủy, người bạn trẻ thuộc Nhóm Thanh Sinh Công, đã chết trong một tai nạn xe hơi cũng thảm khốc, cũng bất ngờ không kém– vẳng lên từ đáy tiềm thức trước nỗi tuyệt vọng khôn cùng. Mặc dù tôi chưa hề một lần gặp gỡ Lệ Quyên, chưa hề thấy một bức hình nào của cô trước kia, chưa hề một lần nghe nhắc đến tên cô, ngoại trừ trong bản thảo hồi ký của mẹ cô, bà quả phụ Ngô Đình Nhu. Cô rời Việt Nam năm 1963, lúc mới bốn tuổi, một tháng sau khi cha và bác bị thảm sát bởi những bàn tay tanh tưởi mùi máu và mùi đô la, nên những người thuộc thế hệ già chúng tôi không để ý lắm. Chỉ hai hôm nay thôi, tôi mới được biết Lệ Quyên đã nhiều năm đặc trách giúp đỡ những người di dân khắp thế giới trong cơ quan Caritas của thành phố Roma, nơi cô đã sống gần nửa thế kỷ thầm lặng dấn thân. Và đã chết trong một khoảnh khắc kinh hoàng. Nằm chết cô đơn giữa dòng xe xuôi ngược, giữa dòng đời như thản nhiên đến vô tình. Chết một cách bi thảm, tức tưởi, trong vô vàn thương tiếc muộn màng của biết bao người không có mặt sáng ấy trên đường Pontina, Roma.

                          Khi sao phong gấm rủ là
                         Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

     Chúa ơi, tại sao, tại sao, tại sao? Tôi tự hỏi. Có lời giải đáp nào cho sự bí ẩn siêu hình phi lý này không? Nếu người bị nạn không phải là con ông bà Ngô Đình Nhu, em của Ngô Đình Lệ Thủy, cháu của một tổng thống và một tổng giám mục, em họ của một hồng y, nếu cô không thuộc dòng tộc quyền quý, cao sang, nổi tiếng vào bậc nhất của lịch sử Việt Nam cận đại, thì câu hỏi này đâu cần thiết nữa. Có người trả lời, bằng cách so sánh dòng họ Ngô Đình với dòng họ Kennedy –cũng chịu nhiều oan trái tương tự. Phần tôi không nghĩ như thế. John F. Kennedy, những đồng lõa Mỹ và tay sai Việt Nam, năm 1963, rõ ràng là thủ phạm trực tiếp hay gián tiếp giết chết ba anh em nhà Ngô, để sau đó ào ạt đổ quân vào Việt Nam, gây ra những xáo trộn, khủng hoảng chính trị, quân sự, và cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của cả Miền Nam, mười hai năm sau. Thủ phạm làm sao có thể đồng hóa với nạn nhân? Rồi nữa, làm sao so sánh ba anh em nhà Kennedy với ba anh em họ Ngô Đình về tư cách và đạo đức cá nhân?

      Những kẻ căm ghét chế độ Ngô Đình Diệm, trái lại, ưa trích câu “ác giả ác báo” để giải thích tai nạn xảy ra theo quan niệm tôn giáo và bài học luân lý sơ đẳng, đúng hơn theo thuyết karma (nhân quả) quen thuộc. Tôi cũng không nghĩ như thế. Lệ Thủy, Lệ Quyên, hoặc xa hơn John Kennedy Jr., đã làm gì nên tội, mà bị Trời “phạt” về những lỗi của người lớn, nếu có? Nếu thuyết nhân quả đúng, tại sao Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, hay Staline, Mao Trạch Đông, Pol Pot v.v..., những tên đại gian, đại ác nổi tiếng, đã sát hại biết bao sinh linh lại được chết già an lành, trong khi hàng triệu nạn nhân hiền lành, vô tội bị giết oan, chết thảm? Ông trời quả có mắt thật không? Gần nhất, những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân v.v... tay đã nhúng máu của hàng ngàn đồng bào ở Huế dịp Tết Mậu Thân mà vẫn còn sống nhơn nhơn. Tại sao?

      Mới đây, lần đầu được thấy những bức ảnh của Lệ Quyên, với đôi mắt sâu đen thăm thẳm, nét mặt cương nghị, phảng phất một nỗi buồn xa vắng, tôi chợt nhớ đến dáng vẻ kiêu hãnh và sắc đẹp bi thảm (tragique) tương tự của một nữ tài tử Hy Lạp đóng vai nhân vật Antigone trong cuốn phim cùng tên. Antigone (442BC), vở bi kịch bất hủ của nhà soạn kịch Hy Lạp lừng danh, Sophocle, kể những thảm họa phủ xuống Oedipe và gia đình bởi mệnh số khắc nghiệt và độc đoán. Nhân vật Antigone, cũng như Electre, Phèdre của kịch tác gia Euripide, và Hermione, Oreste, Pyrrhus... trong các vở bi kịch khác nữa mà Racine, thế kỷ XVII văn học Pháp, đã mô phỏng, đều là những nạn nhân của định mệnh nghiệt ngã dành cho con người vốn yếu đuối, bất lực trước thần linh, những thế lực siêu hình, hoặc đam mê tàn bạo. Chỉ có cái chết mới hóa giải mọi oan nghiệt. “Evil strikes at it down the generations wave after wave, like seas that batter a headland...” (Bất hạnh dập xuống qua các thế hệ theo từng đợt sóng tiếp nối, như biển vỗ vào bờ đất cao...” (Sophocle, Antigone). Trong một bối cảnh khác, thi hào Nguyễn Du há đã chẳng viết cho những hồng nhan bạc phận: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” hoặc “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”, và về uy quyền tối thượng của Trời, thế lực trên cao:

                           Ngẫm hay muôn sự tại trời,
                       Trời kia đã bắt làm người có thân.
                           Bắt phong trần phải phong trần,
                       Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

     Người Công giáo xem những bất hạnh trên đời là do sự Quan Phòng (Providence) của Thiên Chúa toàn năng, là thử thách dành cho những người công chính, như ông Job trong Kinh Thánh đã phải chịu trăm bề đớn đau, khổ nhục.

     Dù được cắt nghĩa thế nào, cái chết đột ngột của Lệ Quyên làm tôi vừa cảm thương vừa kính phục vừa thấy hãnh diện về cô. Cảm thương, như Thúy Kiều ngày nào bên mộ Đạm Tiên không quen, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa. Hãnh diện, vì cô được báo chí ngoại quốc nhắc đến trong tư cách người Việt Nam đến Ý tỵ nạn chính trị từ bé, sau đó giữ chức vụ quan trọng trong Hội Caritas Roma, đã yêu thương, giúp đỡ tha nhân và những người cùng khổ, và hết lòng thờ phượng Chúa. Kính phục, vì dù có bằng tiến sĩ Luật, mà bởi nhất quyết không chịu vào quốc tịch Ý, cô không được đi dạy đại học, và cô cũng chẳng cần. Kính phục, vì tuy lấy chồng người Ý cô vẫn đặt tên con là Ngô Đình Sơn. Một phụ nữ Việt Nam muốn mãi mãi giữ căn cước và bản chất Việt Nam –xin hiểu VNCH. Còn gì cao đẹp hơn? Cũng như mẹ và hai anh, cô chưa một lần trở về thăm cố hương –bây giờ đang nằm trong nanh vuốt của Hận Thù, của Dối Trá, của Bất Công, của Tàn Bạo. Và cũng như mẹ cô, chưa một lần nói một lời, viết một câu hằn học kết án cá nhân những kẻ đã sát hại cha, bác, chú của mình. Cô đã quên và tha thứ tất cả.

     Và như thế, tôi nghĩ rằng, trong bao năm sống kín đáo, khiêm nhường, làm việc, lặng lẽ như một bóng mờ –không còn ai nhắc đến– giữa chốn bụi hồng lao xao, biết đâu cô muốn chống lại, hoặc ít ra xoay đổi, định mệnh khắc nghiệt đè nặng lên gia đình, dòng họ, theo cách riêng của cô. Cũng như Antigone, theo cách riêng của nàng, khi đúng trước vua Créon, cãi lại lệnh cấm không được ai chôn xác người anh nổi loạn, Polynice, và qua đó, thách đố mệnh trời cứ đeo đẳng trừng phạt gia đình Oedipe, cha nàng. Bị kết án tử hình, nàng ngẩng cao đầu và kiêu hãnh “xem cái chết như một điều tốt khi con người sống giữa bao nhiêu điều bất hạnh, khổ đau...” Những tưởng Ngô Đình Lệ Quyên từ nay sẽ được giải thoát khỏi lời nguyền của định mệnh.

     Ngờ đâu, định mệnh không buông tha. Và một sáng, cô đã gục ngã. Đầu hàng, bất lực. Như một nữ nhân vật đích thực trong những vở bi kịch của một Hy Lạp huyễn mơ mà tôi đọc say mê từ ngày còn đi học...

     Tôi ca tụng và tiếc thương cô biết mấy cho vừa. Thôi, cô hãy ngủ giấc bình an ngàn năm, tự do từ đây, hỡi Lệ Quyên, Antigone của lòng tôi.

Portland, 17/4/2012
Kim Thanh


Wednesday, March 11, 2015

HAPPY BIRTHDAY BÁC MỸ

(Xin bấm vào những chữ đỏ để tham khảo, và bấm và hình để xem phóng đại)
Phạm Đức Hiền

Lâu nay cứ tưởng mình già ,
Bây giờ mới biết quả là ... y chang
Suốt ngày nói chuyện thuốc thang
Gặp nhau lại kể cả tràng chuyện xưa..



(Xem tiếp trong Tuổi Già)

Đó là “chiện xưa” của mấy ông già xưa; không phải là chiện nay của Bác “cán lão” Phạm Quang Mỹ, người vẫn còn lái xe chạy phon phon qua một đoạn đường dài 20 dặm từ nhà đến Café XDNT để tham dự lễ Sinh Nhật lần thứ 85 của Bác vào ngày 07 tháng 3, 2015 vừa qua.

“Lái xe” chỉ là chiện nhỏ đối với Bác Mỹ, vì những khách hàng “quá giang” thường xuyên trên xe của Bác như “Nghĩa Địa” và “Sung Rụng” cho biết Bác chạy trên xa lộ còn bạo hơn cả teenagers; và mới đây bị cảnh sát chặn lại vì “speeding”. 
Khi mọi người hỏi hậu quả của việc chạy quá tốc độ này, thì Bác tuyên bố “Speeding, but Happy Ending!”  Bác nói khi nhìn thấy hình của Cha Trương Bửu Diệp dán trên bằng lái xe của Bác, thì cảnh sát chỉ mỉm cười rồi cho Bác đi với câu dặn dò: “Drive slowly, Grandpa!” (Sau khi nghe tin này, chị Ruân mang một hộp hình của Cha Diệp để biếu những tài xế nào hay bị ticket).

Tại buổi sinh nhật vào hôm Thứ Bảy vừa qua, Bác Mỹ xúc động nói rằng Bác long trọng xin được “chính thức làm thành viên của Café XDNT, nói riêng, và tập thể cán bộ áo đen, nói chung.  (Nên bây giờ Bác được tuyên dương là “cán lão”).

Qua giọng nói nghẹn ngào, Bác Mỹ nói Bác vô cùng “hãnh diện” khi mỗi sáng Thứ Bảy đều được đến Café XDNT để cùng anh em cán hữu hàn huyên tâm sự vào những ngày bonus của cuộc đời. 

Anh Phạm Trần Anh, anh Chu Tấn và anh chị Vượng
Không hãnh diện sao được, vì buổi sinh nhật của Bác có đến hơn 20 người tham dự, trong đó ngoài những “khách hàng” quen thuộc như:  anh chị Phạm Đức Vượng, anh chị Lê Đình Ruân, anh chị Phạm Thái Học, anh Ngô Đình Ngân, anh Phạm Đức Hiền, anh Trần Hiếu Lai, anh Nguyễn Văn Phúc, anh Nguyễn Trọng Tài, anh Trần Kim Vinh…, còn có Hội Trưởng Đào Minh Quân, và anh Ngô Văn Tuệ, từ San Benardino đến.

Quý anh: Kim Vinh, Trần Khánh (2) và Tô Cao Hoan
Cái lều vá víu, nhưng đầy thơ mộng, còn được vinh dự đón tiếp nhà văn Chu Tấn; sử gia Phạm Trần Anh, tác giả “Việt Nam Nước Tôi”;  anh Trần Khánh, trùng tên với chủ quán Trần Văn Khánh; và anh Tô Cao Hoan.  Hai anh từng là những giới chức cao cấp của Trường Sinh Ngữ Quân Đội VNCH.

Đặc biệt hôm nay có sự hiện diện của chị Trần Bảo Hòa và ái nữ Diệu Bảo, tức Vicky Trần, người mà khi còn nhỏ hỏi mẹ rằng: “Tại sao mấy anh cán bộ XDNT mặc quần áo đen, không lịch lãm và oai phong như Không Quân, Hải Quân, Biệt Động Quân hoặc Nhảy Dù?” (Cô Diệu bảo là ái nữ của anh Trần
Diệu Bảo và mẫu thân tặng quà Bác Mỹ
Bảo Hòa, Tỉnh Đoàn Trưởng CB/XDNT Biên Hòa, bị biệt tích sau khi rơi vào tay Việt Cộng năm 1975, là lúc cô chỉ mới 1 tuổi.  Nhưng trớ trêu thay, khi mãn tiệc Sinh Nhật Bác Mỹ, Vicky đã năn nỉ “Chú Khánh 1” tìm cho cổ một bộ đồ đen để khi nào tham dự những buổi họp mặt cán bộ XDNT cổ sẽ mặc để hòa đồng với cô chú, và đặc biệt 
để nhớ đến thân phụ của mình).

Bác Mỹ nói Bác rất vui mừng, vì chưa bao giờ có một buổi sinh nhật đông vui như ngày hôm nay; và sự vui mừng đó được thể hiện qua chai “Cordon Bleu” mà Bác mang đến nhâm nhi với những người bạn trẻ.  Bác cũng khệ nệ mang 2 lò gas để hâm thịt bò kho đãi bằng hữu. 

Ngoài 2 chai rượu quý, khách hàng cũng đã mang đến những món potluck ngon miệng, đặc biệt là 2 chiếc bánh sinh nhật của Café XDNT và của Vicky Trần; thêm vào đó là những chiếc bánh sinh nhật nhỏ do chị Ruân kính tặng. 

Trọng Tài & Kim Vinh tặng quà Bác Mỹ
Trong số những món quà mà Bác nhận có một bức kim khánh đúc hình một trái đào tiên bằng vàng do 2 anh Nguyễn Trọng Tài và Trần Kim Vinh kính tặng để chúc bác được trường thọ, và nhất là răng vẫn còn rắn chắc để cắn … đào tiên.

Tưởng cũng cần nhắc lại, cách đây khoảng 1 năm, tại một buổi tiệc ở nhà anh Trần Kim Vinh, ái nữ của Bác Mỹ là cô Bích Châu tình cờ gặp lại những người hàng xóm cũ của Bác là anh chị Phúc-Diệu từng ở chung trong khu gia cư của Phủ Tổng Uỷ Công Vụ, nên Bác Mỹ đã liên lạc lại được với những đồng nghiệp cũ,  rồi thường xuyên sinh hoạt với cả những bạn mới tại Café XDNT. 

Trước đó, Bác Mỹ, cựu “quản giáo” ở trường Võ Bị Đà Lạt, và cũng từng là quận Trưởng An Lộc, cùng một nhóm “đệ tử” hay “đóng đô” ở “Café Paloma”; nhưng sau khi biết Café XDNT, Bác không những thường xuyên đến đây để nhâm nhi ly cà phê, mà còn tình  nguyện chở những người nào không có phương tiện di chuyển như “Nghĩa Địa” và “Sung Rụng”. 

Đình Ruân và Đức Vượng phụ giúp Bác Mỹ cắt bánh
Năm ngoái, Bác cũng đã tháp tùng phái đoàn XDNT Bắc Cali xuôi nam tham dự “Đại Hội Linh Sơn Lĩnh”.

Bác Mỹ còn có một biệt danh khác là “Mỹ Cà-rem”, vì sau khi “học đập cải xạo” zề, Bác phải đi bán kem độ nhật.

Bác nói niềm vui duy nhất của bác hiện nay là được đến Café XDNT, được tâm sự với những cựu cán bộ áo đen, và đặc biệt là được đếm khách hàng đến tham dự.  Bác nói hôm nay bác đếm được tổng cộng 23 người.  Hallelujah!

Ngoài thú vui này, Bác Mỹ còn đam mê chụp hình và quay phim.  Bác đang làm một bộ đĩa DVD để kỷ niệm buổi "Họp Mặt Tân Niên XDNT 2015".



Thấy không khí có vẻ vui nhộn, anh "Khánh 2" đã “tức cảnh” đọc bài thơ vui tặng Bác:
"Sáu mươi chưa phải là già,
Sáu mươi là tuổi mới qua dậy thì.
Sáu lăm hết tuổi thiếu nhi,
Bảy mươi là tuổi mới đi vào đời.
Bảy lăm là tuổi ăn chơi,
Tám mươi là tuổi yêu người, yêu hoa.
Chín mươi mới bắt đầu già,
Đêm đêm vẫn cứ mặn mà yêu đương.
Một trăm có lệnh Diêm Vương,
Cứ ở trên ấy yêu đương thỏa lòng.
Bao giờ đạn hết lên nòng,
Từ từ nằm xuống mới xong cuộc đời!"
(Mời quý anh chị bấm vào “TRẦN KHÁNH 2 để làm quen với anh.

Bác Mỹ cũng cảm ơn các anh chị đã gọi điện thoại và gởi email chúc mừng sinh nhật của Bác, như:

·        Happy Birthday Niên Trưởng Pham Quang Mỹ.
       -Vợ Chồng Phạm Đức Vượng

·        CHÚC MỪNG SINH NHẬT ANH MỸ
     THÂN MẾN
     -NHỰT
     CHÚC BUỔI SINH NHẬT THẬT VUI.

·        Bác Mỹ
    Chúc mừng Sinh Nhật vui vẽ và dồi dào sức khỏe.
    -Nguyễn Tài Lâm

·        Happy Birthday anh Pham Quang M.
     -Cao Hữu Thiên
    GD /CBXDNT/WA

Mời quý anh chị xem thêm hình ảnh trong “Sinh Nhật Bác Mỹ” (Bấm vào những chữ đỏ bên)

San Jose ngày 11 tháng 3 năm 2015

Phạm Đức Hiền

TRẦN KHÁNH 2

Anh Trần Khánh (trái) và anh Tô Cao Hoan (phải)
LỜI PHI LỘ:
Các anh chị thân mến,
Hôm sinh nhật anh Phạm Quang Mỹ (7 tháng 3 năm 2015), Café XDNT được hân hạnh tiếp 2 “thượng khách” đó là anh Trần Khánh (trùng tên với chủ quán Trần Văn Khánh) cựu Giảng Viên Trường Sinh Ngữ Quân Đội VNCH, và anh Tô Cao Hoan, cựu Trưởng Ban Anh Văn Trường Sinh Ngữ Quân Đội VNCH.
Tại buổi tiệc bỏ túi này, anh “Trần Khánh 2” (xin được nicknamed là “Khánh 2”, dù rằng ảnh lớn tuổi hơn, nhưng lại trình diện trễ) đã làm cho thực khách “khoan khoái" vì những vần thơ vui ảnh tặng cho Đại Ca Mỹ.
Theo yêu cầu của “khách hàng”, tôi đã xin ảnh gởi những vần thơ này; và thật ngạc nhiên thích thú, vì kèm theo những vần thơ là những lời “tâm huyết” dưới đây; ước mong quý anh chị cũng sẽ gởi cho tôi lý lịch trích ngang tương tự; rủi mai kia mốt nọ có đột ngột ra đi, thì tôi cũng có tài liệu làm “báo cáo đào ngũ”. 
Cảm ơn quý anh chị,
San Jose ngày 11 tháng 3 năm 2015.
Phạm Đức Hiền 

-----------
Anh Hiền và anh Khánh thân mến,

Năm nay, "lão tôi" đang hưởng "bonus" 77 cái xuân già, mà thỉnh thoảng còn được Anh Em nhờ vả, còn tin tưởng vào cái "trí mòn, lực cạn" này, bèn thấy cảm động và cảm khái cách gì, vì thấy mình còn "có ích," chưa đến nỗi trở thành vô dụng!

Được Anh Em, trong tình "huynh đệ chi binh" đón tiếp, hôm Thứ Bảy vừa qua, 7/3/2015, tại "Tư Dinh Hoa Lan," và "Quán Cà Phê Thị Trấn Giữa Đàng," của Tỉnh Đoàn Trưởng XDNT Long An Trần Văn Khánh, anh Tô Cao Hoan và tôi, thấy ấm lòng quá!

Nhìn các anh sum họp quây quần bên nhau, trò chuyện và nhắc nhớ chuyện xưa tích cũ, thuở "hoàng kim thời đại," của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà, thân yêu của chúng ta, làm lòng tôi bồi hồi xúc động, trong niềm hoài cổ tiếc nuối, và bỗng dưng tôi nhớ những vần thơ ai oán dưới đây:

"Trong mộng chưa phai thời chiến sĩ
Cuối đời còn vọng tiếng thao trường."

hay:        "Hồn lính còn vương trên tóc bạc
                Anh nhớ sa trường em có hay?"
và nhất là mấy câu thơ của Thi sĩ Cao Tần, trong bài "Cảm Khái" năm 1977:
"Ngàn lẫm liệt tan trong chiều rã ngũ
Muôn anh hùng phút chốc hoá lang thang..."

Anh Hiền và anh Khánh thân mến, đang làm "bảy nghề" (thất nghiệp), kể từ ngày nghỉ hưu, 28/5/2011 (lúc 73 cái xuân già!), ngày ngày tôi, trốn vợ, trốn việc nhà, đạp xe ra ngồi quán cà phê Starbucks, đọc sách báo, và "vọc" iPad con cháu cho, thỉnh thoảng được bạn bè hay thân hữu như các anh, nhờ cái gì trong khả năng hạn hẹp, là mừng như lòng "mở hội hoa đăng," ba hoa chích choè, liên tu bất tận, "vòng vo Tam Quốc," xin các anh chịu đựng và thông cảm, cho cái trí óc hoài cảm "Auld Lang Syne" của người già "chỉ cho Quá Khứ là đẹp hơn cả, vì Hiện Tại thì quá ngắn ngủi, còn Tương Lai thì mù mịt, xa vời!
("Ò e con ma đánh đu
Tarzan nhảy dù
Zorro bắn súng...")
"Giờ đây anh em chúng ta
Ngày nay sắp cùng
Bùi ngùi chia cách..."

Gớm, bây giờ mới chịu vô đề, đáp ứng lời yêu cầu của Anh đây! (Loại các bài thơ "Vịnh Tuổi Già," thì tôi lẩm cẩm thu nhặt và thuộc lòng hàng chục bài. Tuy nhiên, bình thường thì quên hết, chỉ có lúc nào "tức cảnh sinh tình" mới nhớ ra):


"Sáu mươi chưa phải là già,

Sáu mươi là tuổi mới qua dậy thì.

Sáu lăm hết tuổi thiếu nhi,

Bảy mươi là tuổi mới đi vào đời.

Bảy lăm là tuổi ăn chơi,

Tám mươi là tuổi yêu người, yêu hoa.

Chín mươi mới bắt đầu già,

Đêm đêm vẫn cứ mặn mà yêu đương.

Một trăm có lệnh Diêm Vương,

Cứ ở trên ấy yêu đương thỏa lòng.

Bao giờ đạn hết lên nòng,

Từ từ nằm xuống mới xong cuộc đời!"

Thân chào Anh và anh Khánh, và hẹn có dịp gặp lại nhau, cà phê cà pháo, để gậm nhấm nỗi buồn mất nước với nhau, còn hơn là độc ẩm một mình:

"Ta ngồi một mình

  Ly cà phê cạn

  Lòng như Tháng Tư

  Đứt ra từng đoạn."

 (Thơ Trần Mộng Tú)


Trần Khánh:

  • Cựu Thông Dịch Viên kiêm Cán bộ Đoàn trưởng Bộ Công Dân Vụ (1960-1962).
  • Cựu Đại Uý (Khoá 23/SQTB/ Trường Bộ Binh Thủ Đức).
  • Giảng viên Trường Sinh Ngữ Quân Đội (1967-1971).
  • Chánh Văn Phòng, Sở Nghiên Cứu Kế Hoạch, Tổng Cục Quân Huấn, Bộ TTM của Đại Tá Võ Đại Khôi, Chánh Sự Vụ, Sở Nghiên Cứu Kế Hoạch (1971-1973).
  • Thông Dịch Viên, Uỷ Ban Liên Hợp Bốn Bên, Camp Davis, Tân Sơn Nhất của Đại Tá Đỗ Ngọc Nhận, Phụ Tá Chuẩn Tướng Phan Hoà Hiệp (1973-1975).
  • Anh em chú bác với Trần Vỹ (Bộ Trưởng Bộ Y Tế và Giáo Sư Thạc Sỹ Y Khoa, 1954-1963, thời Đệ Nhất VNCH, và "Lão Tướng Chống Cộng" Trần Hồng, người đã dùng xe ủi đất, ủi sập cổng sắt của Toà Đại Sứ Việt Cộng, ở Paris, Pháp quốc, năm 1996).
( Xin lỗi Hai Anh, tôi phải "thành thật khai báo lý lịch," và Bản Tướng Mạo Quân Vụ, cho Hai Anh rõ, vì mới được anh Trần Văn Khánh mời tham dự "Đảng Cà phê XDNT" của Các Anh.)