Thursday, November 26, 2015

CUỘC CHIẾN CHƯA TÀN (PHẦN 2)

8.
Vùng lên
(Trại Nam-Hà)
Vì lao động cực nhọc trong khi thực phẩm không đủ chất bổ dưỡng cần thiết cho cơ thể, sức khỏe anh em cải tạo sa sút.  Hơn nữa, về y-tế phòng ngừa rất kém, thuốc men không đủ cho nhu cầu, hoặc gỉa không có thuốc trị đúng bệnh.  Sốt cao hay cảm mạo thời tiết đều được trị liệu bằng thứ thuốc cảm dân tộc có đặc tính như thuốc asperine.
Căn nhà hai gian nền đất nện, được dùng làm trạm xá vừa nhỏ lại tăm tối dơ bẩn.  Gian trong là phòng giải phẫu gồm chiếc giường tre, buông một tấm màn sợi vải Nam-định lâu ngày đã đổi mầu, dùng làm "bàn giải phẫu".  Không có cửa ngăn, nên mỗi khi gió từ ngoài cửa lùa vào mang theo cát bụi đã vén cao hai cánh màn.
Chẩn bệnh và giải phẫu do một cán bộ y-sĩ đảm nhận.  Không rõ hắn có bao nhiêu năm tay nghề và tốt nghiệp trường sở nào, hay vì nhu cầu chiến tranh được thăng cấp.  Sinh mạng con người trao vào tay vị "từ mẫu" này qủa là điều bất hạnh.
Có trường hợp một cải tạo bị giải phẫu nhiều lần do cùng một chứng bệnh, vì đã nhiễm trùng sau mỗi lần mổ.  Mọi người không lấy làm ngạc nhiên cho rằng với tay nghề của y-sĩ, thuốc men thiếu thốn nhất là tình trạng không có vệ sinh, con bệnh không chết đã là một điều kỳ lạ.  Nhưng thực ra công việc trị bệnh cũng đơn giản, vì mạng sống của tù không mấy giá trị, nên thuốc trị bệnh cũng không cấu kỳ, chỉ có một loại thuốc “Xuyên tâm liên” có vị đắng như ký ninh, trị bách bệnh.  Vì tình trạng y tế của trại quá “đơn giản” nên nhiều người đã ra đi một cách lặng lẽ. Vì hoàn cảnh đời sống cũng như phương tiện lao động khiến nhiều bệnh lạ xẩy ra, mà bệnh nhân phải chấp nhận thử thách với tử thần. Những bạn ở căn nhà đối diện với trạm xá thường kháo nhau, khi nào nhìn thấy ánh đèn dầu nhỏ xuất hiện nơi cửa sổ căn bên cạnh trạm xá, là một người đã “lên đường”.
Vì thời tiết khắc nghiệt và lao động cực nhọc, chúng tôi nhiều người đã nhuốm bệnh.  Tôi đau đã mấy ngày nên đến trạm xá khai bệnh.  Phương tiện duy nhất để giữ vệ sinh trong trại là vôi bột.  Nhiều anh làm tại lò vôi đến trạm xá khai bệnh với đôi chân bị phỏng đỏ, nguyên do vì sản xuất vôi bột theo truyền thống cổ xưa.  Một hố vuông đào sâu mỗi chiều khoảng 4 thước, đổ đầy nước đến lưng hố.  Các xe ba bánh đổ đá vôi xuống hố, nước hố vôi sôi nổi bong bóng, hơi vôi nóng bốc lên.  Để cho vôi nung không đóng cục, một chiếc cầu tre kết bằng 4 cây tre bắc chéo một góc hố vôi.  Các anh đứng giữa cầu tre, dùng cây tre đã dóc hết cành để khuấy vôi dưới hố.  Mặc dù đứng trên cầu tre, nhưng người đã đứng trên miệng hố vôi, hơi vôi nóng xông lên khiến hai chân bị phỏng.  Vết phỏng lên tới đùi, không có thuốc chữa trị, trong khi buồng phổi phải hít hơi vôi làm cơ thể mau mất sức.
Sự việc xẩy ra vào ngày 16/9/1977 như một cơn lốc, là thời điểm làm bùng cháy những tức hận, tủi nhục nhen nhúm từ lâu.  Như thường lệ, từ tờ mờ sáng các đội thuộc hai khu A và B, tập họp trước cổng gác để báo cáo nhân số lao động với sĩ quan trực.  Những người cảm sốt thường vẫn phải đi lao động, còn số anh em bị bệnh nặng của các phòng, được y-sĩ trại cho phép nghỉ lao động sau khi khám bệnh, đã trở về phòng.  Khu B bị bệnh khá nhiều vì sau một thời gian dài dầm nước, dãi nắng dưới đầm lầy.  Nhân số lao động vì vậy ngày một giảm sút.
Sau khi các đội lao động khu B báo cáo, cán bộ trực trại thấy nhân số thiếu hụt, cho gọi những người bệnh trong phòng ra cổng gác trình diện.  Nhừng người bệnh xếp hàng trước mặt hắn.  Hắn xỉ vả anh em bệnh là "chây lười lao động, khai bệnh cáo ốm ở lại phòng, quen thói đế quốc ngụy quyền của chế độ cũ", và bắt mọi người vào hàng đi lao động.  Anh em bệnh phản đối và bảo y-sĩ trại đã cho phép nghỉ vì bệnh nặng.
Hắn tức giận túm tay anh bạn vừa phản đối bẻ ra sau.  Hắn qúa mạnh tay nên người bệnh dướn người lên, miệng bảo hắn tàn nhẫn vô nhân đạo. 
Trước hành động vô nhân đạo của hắn đối với người bệnh nặng, anh em trong hàng đã lên tiếng phản đối và yêu cầu hắn ngưng tay đánh người.  Thấy hắn vẫn tiếp tục đánh mấy anh em bệnh, anh em khu B tức giận đồng loạt đứng dậy miệng hét lớn "Không được đánh người bệnh, người bệnh đã được y-sĩ cho nghỉ lao động.  Không thể có hành- động vô nhân đạo với anh em…"
Như có sẵn tác phong tàn ác của trại này từ lâu, hắn càng tức giận và mạnh tay hơn với người bệnh, và bảo đám cán bộ võ trang mang mấy người bị đánh đem nhốt vào phòng kỷ luật.  Tức nước vỡ bờ, tập thể khu B đã mất trật tự.  Từ trong hàng một số đông đã đồng thanh hô to "đả đảo cộng-sản", có nhiều tiếng hô tiếp ở phía cuối hàng, có tiếng hô "đả đảo cộng-sản" đáp lại của một số anh em trực vệ sinh tại phòng.
Gần 800 con người đang có mặt tại sân trại thoáng hiện một phút giây xúc động. Phải, lâu rồi tiếng hô này đã chết lịm, có chăng chỉ còn là sự uất ức, thù hận trong lòng.
Hàng ngũ cải tạo khu B di động nhiều hơn, đồng loạt đứng dậy. Ðám cán bộ nơi cổng trại ngơ ngác, chúng không dự tính hành động này xẩy ra, nhất là ở trại này.  Ðám cán bộ võ trang dàn hàng ngang chĩa súng về tập thể cải tạo.  Có lẽ chúng muốn dương oai, hay đề phòng một biến động, mà cuộc tắm máu phải xẩy ra khi cần.  Phó trại chạy tới, ra lệnh cho các đội về phòng nghỉ lao động.
Trước khi về phòng, một số anh em các phòng có nhận định việc này không đơn giản và kết thúc nhẹ nhàng như thế này.  Mọi người nhất trí thông báo cho nhau để các phòng có chung một hành động.  Ðã tới lúc anh em phải đoàn kết hơn, cẩn trọng mọi hành động để đối phó với tình huống mới.
Một ngày nghỉ lao động trôi qua.  Chưa rõ cán bộ trại quyết định như thế nào.  Mọi người vẫn chờ đợi, và lợi dụng giờ đi lấy cơm hay đi tắm tại giếng công cộng để bàn thảo những gì cần thiết.       
Sáng ngày hôm sau, các phòng được lệnh nghỉ lao động để học tập nội quy tại phòng trước khi viết bản khai lý lịch cá nhân.  Một lần nữa chiếc bẫy được giăng ra để tìm bắt thành phần có tư tưởng chống đối, có hành động chủ mưu trong biến động vừa qua.
Thực chất bản nội quy có 10 điều, dù có sửa đổi theo hoàn cảnh nhưng nội dung căn bản vẫn giữ nguyên.  Vẫn mệnh danh là pháp lệnh, là chính sách của Nhà nước, là hình thức kỷ luật trong các trại cải tạo.
Sinh hoạt tại các phòng có sôi động hơn vì sự việc vừa xẩy ra.  Bầu nhiệt huyết được hâm nóng khi chứng kiến cảnh đánh đập tàn bạo đối với anh em bệnh nặng, mà hiện tại đang bị cùm xích trong phòng kỷ-luật.  Chưa rõ đời sống sức khoẻ của họ ra sao.
Anh và các bạn trong phòng chia nhau liên lạc với  phòng khác để nhất trí trong hành động. Các phòng đồng lòng là tranh đấu đến cùng dù gặp phải bất lợi nào.
Kim hội ý với các bạn, để thuận lợi hơn ở giai đoạn này chỉ đưa ra khe hở của bản nội quy.  Nhấn mạnh vào sơ hở của mấy điều đầu tiên, vì các điều dưới chỉ nói về sinh hoạt nội bộ.  Ðả kích mạnh về tư cách cán bộ đối với tù cải tạo.  Ðòi hỏi phải trả người bệnh về với tập thể.  Và một điều cần lưu tâm là sự phát biểu  của anh em phải liên tục, để loại bỏ cơ hội phát biểu của thành phần ăng-ten châm lời phá bĩnh.
Ngày đầu sinh hoạt, 8 giờ sáng cán bộ văn-hóa giáo dục tới.  Anh em ngồi hai bên sàn nằm dưới chờ đợi.  Hắn là một sĩ quan trẻ, nghe nói tốt nghiệp đại học Hà-nội,  nét mặt còn măng sữa, lời nói và cử chỉ chứng tỏ chưa lây tính hận thù của đám cán bộ đàn anh.  Hắn mới gia nhập ngành công an và được điều về đây.
Hắn đứng giữa lối đi nói lớn:
-"Theo thông lệ khi tới một trại mới, các anh thường có những buổi sinh-hoạt học tập để thấu hiểu  nội quy trại.  Các anh đến đây đã lâu ngày, nên trại tổ chức buổi học tập, hầu giúp các anh thông suốt chính sách của nhà nước.  Các anh có thể phát biểu ý-kiến cá nhân, ý-kiến nào trại thấy có tiến bộ sẽ được học tập. 
-"Thời gian sinh hoạt không thúc bách, nhưng phải có chất lượng.  Các điểm được đào sâu sẽ giúp các anh tin tưởng vào chính sách để thuận lợi khi viết bản tự khai." 
-"Về phần kiểm điểm phê bình, các anh hãy nói rõ những sai trái vừa qua hầu khắc phục sửa đổi.  Các anh bắt đầu sinh hoạt và buồng trưởng sẽ trụ trì trong thời gian học tập."
Hắn nói xong là bước ra khỏi phòng để anh em sinh hoạt tự do, vì sự có mặt của hắn có thể làm buổi sinh hoạt kém sôi động.  Hoặc giả có lời chống đối mãnh liệt sẽ khiến hắn khó khăn trong việc giải quyết tại chỗ.
Buồng trưởng đọc lại 10 điều trong bản nội quy để anh em trong phòng ghi nhận, và nói:
-"Tùy ý anh em sinh hoạt thế nào cũng được.  Nêu lên từng điều thứ tự từ điều 1 đến 10, hay đưa ra từng điều không cần thứ tự.  Những lời phát biểu sẽ được ghi vào biên bản."
Kim dơ tay nói trước:
-"Tôi có ý-kiến là chúng ta sẽ phát biểu không cần thứ tự từng điều như ghi trong bản nội quy.  Như vậy sẽ có chất lượng hơn, vì có điều cần mổ xẻ kỹ nhưng cũng có điều chỉ nói sơ qua."
Buồng trưởng hỏi ý-kiến anh em trong phòng, mọi người đồng ý sẽ phát biểu không cần theo thứ tự như trong bản nội quy.
Kim dơ tay xin phát biểu:
-"Sau hai năm cải tạo, tôi đã đi qua nhiều trại tại miền Nam và bây giờ ra Bắc.  Tôi đã học tập bản nội quy nhiều lần, có sửa sai để phù hợp hoàn cảnh và chính sách nhà nước.
Ðầu tiên chúng tôi được gọi là "cải tạo viên," một năm sau đổi thành "trại viên," để thể hiện chính sách khoan hồng với người cùng huyết thống.  Và để có một chút bình đẳng nên chúng tôi gọi cán bộ là "anh," và sau đó không lâu chữ "anh" lại được đổi thành "cán bộ."
Khi đến trại này, cách xưng hô một lần nữa lại thay đổi.  Mặc dù nằm trong hệ thống do bộ Nội vụ quản lý, nhưng lần này cách xưng hô có vẻ địa phương, nặng tính quan liêu.  Cải tạo đã gọi cán bộ là "ông," và tệ hại hơn nữa các anh cải tạo miền Bắc xưng "con, cháu" với cán bộ.
Tôi nhận thấy hơi quá đáng, khi một cải tạo đã cao tuổi phải dùng chữ "ông" đối với cán bộ bằng tuổi cháu nội mình.  Lễ độ là điều cần thiết, nhưng nếu xử dụng không đúng cách sẽ làm mất truyền thống dân tộc."
Anh nhớ vào lần đi lấy cơm cho phòng khi mới tới đây, mọi người đã nhìn thấy cảnh một cải tạo có tuổi, đã ngả nón ôm trước ngực cúi người nói:"chào ông."  Một bạn trẻ đi cùng nói lớn: "sao không qùy xuống cho phải đạo với cán bộ…” Lời phê bình có quá đáng, nhưng khó ai giữ được bình tĩnh trước một hành động khiếp nhược.
Sau khi Kim dứt lời, anh Lê dơ tay:
-"Tôi đồng ý với nhận xét cuả anh đội phó về lễ tiết của trại này, nhưng cũng cần phải nói đến quan niệm sai lầm của một số cán bộ trại.  Chúng ta khi mới tới đây đều chứng kiến cảnh các anh cải tạo miền Bắc bị đánh đập tàn nhẫn khi lao động tại khuôn viên phòng này.  Ðành là họ phạm tội phải chấp nhận hình phạt, nhưng sự sửa chữa sai lầm trong đường lối học tập cải tạo không phải là trừng trị ngược đãi, đánh đập tàn nhẫn.  Vì "học tập cải tạo" theo đường lối này đã vi phạm quyền sống của con người.  Tôi muốn nói đến tính vô nhân đạo của cán bộ trại, đã  thi hành sai chính sách nhà nước.  Mất đi tinh thần thượng tôn pháp luật."
Anh Lê vừa dứt lời, cuối phòng đã có người dơ tay.
-"Tôi đồng ý hoàn toàn với ý-kiến của các bạn vừa đưa ra, nhưng có một điều làm tôi thắc mắc về chính sách cải tạo của nhà nước.  Ngay từ ngày đầu đi trình diện, chúng ta tạm yên lòng vì lời hứa "khoan hồng nhân đạo", chúng ta cũng bỡ ngỡ trước danh từ huyền hoặc "học tập cải tạo," và bây giờ sau hai năm "học tập" chúng ta nhìn rõ chính sách học tập chỉ đặt nặng về trừng trị.  Tôi muốn nói đến sự sai lầm của chính sách cải tạo, ngay tại miền Bắc người phạm lỗi không được hướng dẫn một nghề chuyên môn hầu làm phương tiện sống khi trở về với xã hội."
"Có nhiều em nhỏ, vì hoàn cảnh đời sống xã hội, đã can tội cắp vặt.  Vào trại tuổi quá nhỏ, không được hướng dẫn đúng mức, sau 5,7 năm ở trại đã tiêm nhiễm lối sống của mọi ngýời xung quanh, hấp thụ "ngón nghề" ðiêu luyện hõn.  Vì vậy tội ác sẽ khốc liệt hơn khi hội nhập trở lại với đời sống xã hội." 
-"Ðó chỉ mới nói về khía cạnh vật chất, còn giáo dục về tinh thần lại càng khiếm khuyết.  Tôi có thể tóm lại là học tập để trở thành người tốt thì không có, còn cải tạo về lao động chỉ ép buộc con người làm việc cực nhọc hơn, sự sống vì vậy tàn lụn nhanh hơn."
Những lời phát biểu trên được cổ võ, anh em đã góp ý đầy đủ, kéo dài buổi sinh hoạt đến giờ cơm trưa.
Vào giờ cơm trưa anh Vĩnh hỏi Kim:
-“…Liệu chúng ta có đi quá trớn không, sau những lời phát biểu sáng nay, sự việc đã trở thành nghiêm trọng."
Kim trả lời bạn:      
-"Khó mà tránh được những lời nói thẳng trong những buổi sinh hoạt như thế này, khi mà trong lòng chúng ta mang một vết thương tủi nhục, chúng ta luôn luôn căm hờn.  Và hiện giờ một số bạn hữu bệnh nặng đang bị kỷ luật, cùm xích trong phòng tối, chưa biết đời sống của họ ra sao." 
"Sau một thời gian ra đây, tôi cảm thấy chúng ta khó có con đường về, trừ khi chế độ này thay đổi.  Tuy nhiên, để an toàn hơn, chúng ta dựa vào chính sách đánh mạnh vào những sai trái của đám cán bộ trại này."
Khi trả lời câu hỏi của bạn, chính trong lòng Kim đã nhận biết chiều hướng chống đối của tập thể anh em, và cũng hứa hẹn còn nhiều gay cấn sau này.  Anh nhìn thấy hiểm nguy đang dình dập, nhưng việc đến phải đến, ít ra cũng xác định được ước vọng của tập thể, và mọi người đã quyết tâm sát cánh đối đầu với cộng-sản.
Sau giờ nghỉ trưa, buổi sinh hoạt tiếp tục.  Hùng có ý-kiến trước tiên:
-"Tôi đồng-ý với những lời phát biểu sáng nay, và một lần nữa tôi muốn nói thêm về lễ tiết.  Hẳn chúng ta chưa quên khi bước chân tới trại này, chúng ta vào phòng 8, thành lập đội lao động.  Chúng ta có cán bộ Thành phụ trách về lao động của đội.  Ngay từ phút giây đầu tiếp xúc, cán bộ Thành đã gọi chúng ta là "lũ ăn mày".  Tư tưởng nặng tính giai cấp quan liêu, không đúng với đường lối của nhà nước.  Và vì sẵn thù hận, có thành kiến với anh em cải tạo nên gây ra nhiều trở ngại thay vì hướng dẫn lao động.  Tôi có đặt một dấu hỏi là với thành kiến của cán bộ quản giáo, liệu chúng ta có an tâm cải tạo không?"
Lời phát biểu của Hùng như gãi đúng chỗ ngứa.  Anh em thay nhau đưa lời phản đối, cho rằng hắn là người hướng dẫn đội lao động mà có thành kiến không tốt về đội, đội sẽ khó đạt thành qủa tốt trong lao động.
Một anh  bạn ở cuối phòng dơ tay phát biểu:
-"Chúng ta đã phát biểu về lễ tiết, về tác phong của một số cán bộ trại, mặc dù khuyết điểm còn nhiều, như hành động tàn nhẫn của một số cán bộ ngày một gia tăng, sẽ được các bạn bổ túc sau." 
"Riêng tôi, tôi muốn đi ngay vào bản nội quy chúng ta đang học tập.  Ngay một trong những điều đầu tiên, chúng ta thấy có câu "án lệnh 3 năm tập trung cải tạo ..." Không hiểu các bạn ở diện "phản động chống cộng-sản" có ra tòa lãnh án hay không tôi không rõ, còn chúng tôi thuộc thành phần quân nhân trình diện theo lệnh gọi, chưa ra tòa lãnh án bao giờ.  Chúng ta đi cải tạo mới hơn hai năm, chưa tới hạn 3 năm.  Không hiểu điều này có được thực thi nghiêm chỉnh hay không."
"Khi tới trại này, tôi có thêm thắc mắc về án tập trung 3 năm của nhà nước.  Tôi có gặp mấy em hình sự của trại, một em cho hay năm 10 tuổi có ăn trộm một con gà của hàng xóm, em bị bắt giải giao cho trường bộ cải tạo.  Ðến năm 16 em được chuyển qua trại này tiếp tục cải tạo lao động.  Em ở đây đã hơn 6 năm, đã qua mấy kỳ 3 năm mà vẫn chưa được về vì cán bộ ghi nhận chưa tốt."
"Tôi đưa ra thắc mắc là án lệnh 3 năm tập trung cải tạo có được thực thi nghiêm chỉnh không?  Và chính sách học tập cải tạo có phải nhằm mục-đích hướng dẫn con người, trong thời gian luật định, để trở về với xã hội sống một đời sống bình thường không?"
Ðiểm thắc mắc của anh cũng là điều ưu tư chung của mọi người cải tạo dù Nam hay Bắc.  Người miền Bắc có câu: "Thời gian tập trung cải tạo như một sợi giây thung, kéo dài vô tận".  Ðó là một nhận xét chính xác, vì luật pháp nhà nước "xã hội chủ nghĩa" hạn hẹp, lại trao quyền nhận xét cho người cán bộ trực tiếp, mà cán bộ trại vốn thiếu  cả về sự hiểu biết lẫn lòng nhân đạo.  Luật pháp chỉ là một hình thức lấy có, bao che cho những hành động vô luật pháp của đám thừa hành.
Tất cả những thắc mắc về các điều trong bản nội quy được anh em trong phòng lần lượt nêu ra.  Những sai trái của đám cán bộ được mổ xẻ tận tình.  Chẳng hạn như vụ thiếu cơm của phòng 8 là dấu hiệu tham nhũng của cán bộ nhà bếp mà lần đầu tiên mới được nêu ra.  Anh em cùng đưa đề nghị yêu cầu trại có thái độ với cán bộ nhà bếp, và tức thời thay đổi đám nhân viên nhà bếp, vì hành động của họ gây phương hại cho sức khỏe anh em cải tạo.      
Nghe các bạn phát biểu điều này, Anh tự hỏi không hiểu kết qủa đạt được bao nhiêu, nhưng điều cần nói cứ phải nói.
Qua hai ngày sinh hoạt không khí trong phòng có vẻ sôi động hơn.  Trong giờ đi lấy cơm hay lúc đội đi tắm trước bữa cơm chiều, Kim và các bạn trao đổi tình hình với các phòng khu B.  Các phòng có cùng một quan điểm, diễn tiến đều đặn, khí thế hăng say.
Vào buổi sáng ngày thứ ba, Kim thêm lời phát biểu:
-"Sau hai ngày sinh hoạt học tập, chúng ta đã nêu ra những thắc mắc về bản nội quy, cũng như tác phong của một số cán bộ trại, trước khi bước qua phần kiểm điểm phê bình, tôi muốn đề cập tới điều mà cán bộ văn-hóa đã lưu ý chúng ta ngay từ buổi đầu, là nêu lên sai trái về sự việc vừa xẩy ra mấy ngày trước đây."
"Chúng ta chứng kiến hành động của cán bộ trực trại đánh đập anh em bị bệnh nặng, mặc dù họ được y-sĩ trại cho phép nghỉ tại phòng trị bệnh.  Sau khi nặng tay đánh đập còn đem nhốt anh em bệnh trong phòng kỷ luật với tay chân cùm xích, tôi có ba thắc mắc:
-Hành động đánh đập tàn nhẫn người bệnh có phải đã thể hiện chính sách "khoan hồng nhân đạo" của nhà nước không?
-Quyền hạn của y-sĩ trại có được tôn trọng không?
-Sinh mạng và quyền sống của con người có giá trị ở xã hội này không?
Và sau chót, tôi có một đề nghị yêu cầu ban quản giáo trại trả anh em bệnh đang bị nhốt trong phòng kỷ luật trở về với tập thể anh em, vì họ cần được chữa trị và săn sóc kịp thời."
Sau lời phát biểu của Kim, đông đảo anh em trong phòng góp ý, yêu cầu ban giám thị trại thả anh em bệnh bị giam trong phòng kỷ luật.  Họ bị bạc đãi, sinh mạng của anh em bị đe dọa vì mang trọng bệnh ngày một thêm nặng.
Trong phần kiểm điểm, anh em đưa lời phản đối hành động của cán bộ trại, chỉ trích cán bộ thi hành chính sách nhà nước như trống đánh xuôi kèn thổi ngược.  Vấn đề này kéo dài cho hết buổi chiều, chấm dứt phần sinh hoạt học tập nội quy.
Biên bản sinh hoạt được cán bộ văn hóa tới lấy.  Sau khi đọc lướt nhanh biên bản, hắn nói:
-"Tôi và ban văn-hóa giáo dục trại đã nghiên cứu biên bản hai ngày sinh hoạt của các anh.  Tôi ghi nhận những thắc mắc để nghiên cứu.  Hôm nay chấm dứt sinh hoạt, các anh có thể bắt đầu viết bản "tự khai."  Chủ yếu là xoáy vào trọng tâm, đề ra ưu khuyết điểm cá nhân hầu giúp các anh thêm thuận lợi trong khi cải tạo.  Về phần nhận xét và những đề nghị sẽ được trại quan tâm."
Trở lại với bản tự khai lý lịch cá nhân, Kim suy nghĩ mình nên viết những gì trong bản khai này.  Trong hai năm tù đầy, đã nhiều lần anh viết lời khai, dù nhàm chán, thuộc lòng như một khúc phim quay ngược anh vẫn phải nhắc lại.  Anh phải kể lại cuộc đời anh từ năm lên 7 tuổi, là tuổi đi học anh phải khai đã học trường nào, lớp mấy ở đâu.  Anh đã gia nhập phong trào nào khi còn ở ngoài Bắc.  Anh di cư năm nào, vào miền Nam ở những đâu.  Còn đi học thì học trường nào, thôi học đi làm ở ngành nào.  Kể rõ các hoạt động đã tham gia tại miền Nam.  Sau tháng 4/75 hoạt động những gì, lý do đi cải tạo…
Khi bị bắt anh suy nghĩ rất nhiều trước khi khai cung.  Anh nhận ra một điều, với cộng sản càng khai ít càng tốt, dấu càng nhiều càng hay, mặc dù phải gặp nhiều vất vả ở thời gian đầu.  Phải thuộc lòng lời khai, nếu thiếu được ghi nhận vì lâu ngày nên quên, còn nếu mỗi lần khai lại phát hiện một ý mới sẽ bị nhiều phiền phức.  Về hoạt động sau ngày 30/4, anh nhắc lại những gì đã khai từ trại Ty đến Thành.  Tội danh của anh đã thành lập, một thứ "đầu não phản động."33
Về phần nhận xét, anh không muốn nhắc lại câu nói khi viết bản tự khai ở trại Phan-đăng-lưu ". . . nếu còn một hơi thở, tôi vẫn tranh đấu cho tự do" còn đậm nét trong tập hồ sơ cá nhân theo anh từ Nam ra Bắc.  Ý nghĩa câu nói thật đơn giản nhưng ước vọng sâu sắc vô cùng.  Bây giờ trong tình huống này, cần nói rõ thêm là phải tranh đấu cho quyền sống của con người, như đã phát biểu trong những buổi sinh hoạt vừa qua.

&

 Bước sang tháng mười nắng dịu dần.  Bầu trời vẩn mây như thấp hẳn xuống, những cơn gió lạnh đã thổi bớt hơi nóng của dẫy núi đá vôi phía trước.
Các đội lao động bình thường.  Nhân số lao động giảm đi vì người bệnh ngày một nhiều, còn số anh em bệnh bị giam trên khu kỷ luật vẫn chưa được về phòng tập thể.  Ðám hình sự ở trại ngoài lo cơm nước cho người bị kỷ luật nên không dò hỏi được gì, không rõ tình trạng sức khỏe của họ ra sao.  Sau này anh nghe các bạn kể lại, có một người vì bệnh nặng nên không chống chỏi được với cực hình mà qua đời.
Không khí đấu tranh vẫn còn nóng bỏng, niềm uất hận vẫn dâng cao trong tập thể anh em.  Ðám ăng-ten bớt ồn ào, nếu có chỉ là những lời báo cáo ngầm. Nhưng ở trong hoàn cảnh này, những lời phái biểu ghi trong biên bản vừa qua, đã đủ chứng cớ về hành động chống đối, thử hỏi lời báo cáo còn có gía-trị lợi dụng nào.  Có chăng, ban giám thị trại vẫn mong biết ai là người cầm đầu, là người khích động cuộc chống đối.
Một hôm trước giờ lao động buổi chiều, các phòng được lệnh nghỉ lao động và tập trung tại sân trại lúc 3 giờ để nghe ban giám thị sinh hoạt. 
Ðúng 3 giờ các đội tập họp đầy đủ tại sân.  Anh em hai khu ngồi theo thứ tự đội đối diện với bục gỗ kê giữa sân.  Một hàng ghế đẩu chạy dài phía sau bục.   
Ba giờ ba mươi, trại phó và một số cán bộ tới.  Phó trại đứng sau bục thuyết trình sinh hoạt, hắn nói về hành động chống đối mất kỷ luật của khu B trong những ngày vừa qua, gây nên tình trạng bất ổn trong trại.  Hắn lớn giọng:
-"Sau thời gian sinh hoạt học tập tại phòng đã không tiến bộ, năng xuất lao động giảm sút so với thời gian trước đây, số người khai bệnh gia tăng.  Các anh hãy suy nghĩ và nhận rõ hành động sai trái của mình.  Quyết tâm khắc phục, sửa chữa các khuyết điểm để cải tạo tốt.  Các anh phải đấu tranh, giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, hầu sớm về đoàn tụ với gia đình …"
Hắn bỗng ngừng nói, nhìn khắp tập thể cải tạo đang ngồi trước mặt, như đánh giá phản ứng của anh em sau lời hứa hẹn, như muốn lôi kéo thành phần yếu lòng.  Sau lời dẫn dụ, giọng hắn đanh lại nói tiếp:
"Còn một số anh cải tạo xấu vi phạm nội quy, không chịu sửa chữa sai lầm, trại sẽ chuyển tới một trại khác.  Tình trạng đời sống cải tạo ở đó khó khăn hơn.  Một nơi quanh năm sương phủ, thiếu ánh sáng mặt trời."
Câu cần nói hắn đã nói.  Kim quay qua hỏi các bạn ngồi cạnh ở cuối hàng, không hiểu trại hắn vừa nói có phải là Phù-Nẩm như đám hình sự nói không.
Anh đưa ý-kiến với một số anh em các phòng:
-"Tôi có ý-kiến là chúng ta phải nắm vững tình hình, chờ xem quyết định của phó trại thế nào.  Chúng ta nêu lên phần lỗi của cán bộ trại, anh em cải tạo chỉ muốn ngăn cản hành động vô nhân đạo của cán bộ trực trại, và yêu cầu trại trả anh em bệnh còn giam trên kỷ luật về với tập thể cải tạo."
Anh em có chung ý nghĩ, và chia nhau liên lạc với một số anh em sẽ đưa ý kiến ngồi rải rác trong các đội.
Phó trại vừa nói tới phần góp ý của anh em cải tạo, anh Tiên đứng dậy dơ tay nói:
-"Yêu cầu Ban giám thị trại hãy trả những người bệnh nặng đang bị giam kỷ luật trở về với tập thể ngay.  Người bệnh cần chữa trị đúng mức thay vì cùm xích trong phòng tối."
Sau Tiên, một số đông anh em các đội đứng lên nhấn mạnh "sự sống của anh em bệnh hiện giam trong phòng kỷ luật đang bị cơn bệnh và sự hà khắc hận thù đe dọa.  Nếu có lỗi là lỗi ở cán bộ y-sĩ đã cho họ nghỉ bệnh."
Một số anh em khác gay gắt hơn yêu cầu Phó trại thả ngay những người bệnh về các đội.  Mỗi người một câu trả lời Phó trại là "anh em phản đối cán bộ trực trại khi đánh người bệnh, vì không thể làm ngơ trước hành động tàn bạo đi sai đường lối nhà nước, và tức thời ngăn chặn những hiểm nguy có thể đến với người bệnh khi bị đánh đập tàn nhẫn."
Lời yêu cầu trên được lập lại nhiều lần, nhưng Phó trại vẫn không giải quyết theo đề nghị của anh em.
Bây giờ đã gần 5 giờ chiều, thấy anh em không chuyển ý, Phó trại ra lệnh chấm dứt buổi sinh hoạt và cho các đội về phòng.  Tức thời anh Tiên đứng lên yêu cầu Phó  trại giải quyết thỏa đáng yêu cầu của tập thể cải tạo trước khi các đội trở về phòng.
Ngay khi Phó trại cho lệnh các đội về phòng, một số  anh em ở các đội tới chỗ Kim và các bạn hỏi ý kiến.  Sau khi hội ý, anh đề nghị các đội lên ngồi lại và yêu cầu trại giải quyết tức thời tình trạng anh em bệnh. 
Anh nghĩ không thể bỏ lỡ dịp may này, các cây đũa đã gom thành bó, tình đoàn kết thật quý báu, là dịp duy nhất tập thể cải tạo đối diện với cán bộ trại.  Ðề nghị được truyền nhanh đi các đội, anh em nhất trí ngồi lại.
Phó trại thấy tình trạng quyết tâm của anh em cải tạo đã bỏ về.  Khu A đã trở về phòng khi có lệnh của Phó trại.
Còn lại khu B, anh em ngồi tới khi trời tối hẳn.  Có lẽ đã hơn 7 giờ.  Một số người vừa đói vừa mệt đã tỏ ý nao núng muốn trở về phòng vì sợ sự trả thù của cán bộ.
Nhìn thấy tình hình này, Kim hội ý với các bạn là mình nên lui một bước, không nên để tình đoàn kết của tập thể phải suy xụp khi có một vài kẻ xé rào.  Sự ngồi lại  trong thời gian vừa qua dù ngắn ngủi nhưng đã chứng tỏ  quyết tâm của anh em.  Các đội đồng ý trở về phòng và hẹn sẽ liên hệ trao đổi ý kiến thường xuyên để có chung hành động.
Mấy ngày sau, Kim và một số bạn phòng 8 trong đó có Vĩnh, Huyền, Hướng và Hùng buồng trưởng có
tên chuyển qua phòng 7.  Một số anh em phòng khác cũng chuyển tới phòng 7 trong đó có anh Tính.  Kim gặp lại Tiến-Ðạt, Khuân và các bạn đã từ trại Ty lên Phan-đăng-lưu rồi ra Bắc.  Nhìn lại hầu hết là anh em có thái độ chống đối rõ rệt trong thời gian vừa qua.  Phòng 7 đã trở thành phòng kỷ luật tập thể của trại.
Kim chuyển qua phòng 7 mới được hai tuần thì bên phòng 8, anh Uyên và mấy anh em đục tường phòng vệ-sinh trốn ra ngoài.    Mặc dầu bị bắt khi tới phần đê giữa đầm gần núi “Ba Cô”, nhưng đã để lại tiếng vang trong khi tình hình trại đang bất ổn.
Sinh hoạt hàng tuần tại các phòng vẫn sôi động, anh em liên tục đòi hỏi ban giám thị trại trả người bệnh về với các đội.
Phòng 7 không đi lao động, cửa cổng khóa kín phía ngoài.  Ngày hai bữa tổ trực đi lấy cơm, và cả phòng được đi tắm trước hay sau khi các đội lao động về đã tắm xong.  Phòng 7 như bị cô lập, mọi liên hệ với các phòng bị kiểm soát chặt chẽ.  Sự liên hệ với các phòng chỉ thực hiện được vào lúc lấy cơm.
Theo thông lệ, trại cho các phòng được nấu vào chiều thứ bẩy và cả ngày chủ nhật, nhưng vì không đi lao động  nên anh em nấu lại các món ăn trại phát cả vào ngày thường.  Lúc đầu trại ra lệnh cấm nhưng anh em vẫn nấu, sau đó trại làm ngơ không nói tới nữa.
Mặc dù không đi lao động, trại vẫn cho một số anh em phòng 7 theo các đội lao động đi lấy củi vào chiều thứ bẩy.  Nhưng vì đun nấu hàng ngày, nên tình trạng thiếu củi thường xẩy ra.  Cả phòng chỉ còn trông vào chiếc sân khấu dựng sát cổng vào phòng.  Tre làm sân khấu được chiếu cố tận tình.  Ðến cuối tháng 10 chiếc sân khấu chỉ còn lại những thân tre làm trụ buộc chặt với khung tre xung quanh.  Ngày kỷ niệm tháng 10 Nga đã không được tổ chức như mọi năm.
Thời tiết trở lạnh hơn.  Về ban đêm chiếc mền qúa mỏng không giữ đủ ấm, và ban ngày bộ bà ba trại phát cũng không đủ dầy.  Chiếc mền được cắt bớt 1/3 theo chiều dài để làm áo ấm, thêm chiếc mũ che kín hai tai và gáy.  Những mảnh vụn còn lại chắp nối làm xong "đôi tất" dùng ban đêm.  Nhờ vậy anh em thấy ấm hơn. 
Sau đề nghị của anh em khu B, nhân sự nhà bếp đã thay đổi.  Mặc dù vẫn cán bộ cũ quản lý nhà bếp, đám hình sự đã trở về trại ngoài và anh em bên khu A thay thế.
Một buổi chiều khi đi lãnh phần ăn cho phòng, anh em phòng 7 đề nghị với nhà bếp đổi cho bánh mì mới, vì bánh cũ mốc ăn rất nguy hiểm cho sức khỏe anh em.  Cán bộ nhà bếp ra lệnh không đổi thứ mới.  Lời qua tiếng lại xẩy ra cuộc xô xát.  Phong, một sĩ quan trẻ, đã tới trước mặt tên cán bộ sĩ quan nhà bếp, phanh ngực áo nói lớn:
-"Anh phải đổi bánh mì mới cho chúng tôi.  Anh có giỏi bắn tôi đi.  Anh có dám không…"
Kim cảm phục anh bạn trẻ tuổi của mình, với nét hào hùng của một sĩ quan nhý ngày nào.  Anh ðã cùng đơn vị chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.  Liệu có bao nhiêu người dám có hành động này trước mặt đám cán bộ cộng-sản.
Cuộc xô xát gây náo động cả trại.  Phần ăn được đổi thứ mới.  Trước cảnh tan hoang của nhà bếp, tên cán bộ quản lý tức giận bỏ vào trong sau khi nói lớn:
-"Trong lịch sử xây dựng trại này, đây là lần đầu tiên tù nhân dám làm loạn, coi thường cán bộ và kỷ luật trại."
Hắn nói đúng, đây là lần đầu tiên một tù nhân thách đố cán bộ trại.  Một tập thể gần 400 cải tạo đã chống lại lệnh của trại, chống lại hành động tàn bạo cuả cán bộ đối xử với tù nhân. Và cũng là lần duy nhất một tập thể đông đảo tù nhân miền Nam hô vang "đả đảo cộng-sản" ngay trong vùng đất thành đồng miền Bắc.
Có lẽ những báo cáo của Ban giám thị trại về hành động của khu B ngày càng nhiều.  Kim hiểu cán bộ trại sẽ không tha cho hành động chống đối này, nhất là những ngày gần đây các anh đã lộ diện.  Ban giám thị sẽ nhắm vào nhóm nhỏ dễ hơn là tập thể đông đảo.
Kim cám ơn lời khuyên của một vài vị bên khu A: “các anh không nên chống đối trực diện như đã làm, vì chẳng khác nào trứng chọi đá”.
Anh biết là mình chẳng khác nào mũi tên thoát khỏi giây cung, đã ở trên lưng cọp không thể thối lui được nữa.  Lui chưa hẳn có con đường sống, mà chắc chắn tình đoàn kết của anh em sẽ tan vỡ, là cơ hội thuận lợi cho đám ăng-ten phá rối, đâm sau lưng. 
Các anh chỉ có một con đường lựa chọn là tiến tới phía trước, tiếp tục con đường đang đi, và luôn biết mình đang đùa rỡn với tử thần.  Chấp nhận cái chết đến bất cứ lúc nào. 
Anh em vẫn vui vẻ, không thoáng một nét ưu tư.  Hơn tháng nay không phải đi lao động, xa hẳn cái mai cái cuốc, cả cái chỉ tiêu đần độn, lời báo cáo căm hờn.  Phòng 7 như một thế giới riêng biệt, trầm lắng trong một sinh hoạt năng động xung quanh.  Những vết thương nơi tay chân đã lành dần. 
Từ sáng khi mở cửa phòng cho tới bữa ăn chiều, anh em đi lại thoải mái trong khuôn viên, chia nhau những hớp trà nóng, hút điếu thuốc lào ngon.  Ai cũng biết thời gian nhàn rỗi này chẳng kéo dài lâu.  Mọi người vui vẻ tận hưởng phút giây qúy báu mà cuộc đời cải tạo khó có được một lần. 
Trại làm ngơ trước hành động của anh em, như không muốn nhổ cái gai sợ làm vỡ vết thương.  Hay trại đang xếp đặt lựa chọn cho thành phần chống đối một bữa ăn thịnh soạn vào những ngày sắp tới.
Bây giờ đã sang tháng 11.  Bầu trời nhiều mây như muốn đè cái lạnh xuống thấp.  Khói sương đã đọng trắng mờ sau mỗi hơi thở.  Cái lạnh cắt da đang hành hạ chiếc dạ dầy vốn bèo nhèo của tù nhân, vì thiếu ngọn rau hạt gạo.  Phần cơm ít hẳn đi, chiếc bánh mì đen cũ cũng nhỏ hơn trước.  Phần ăn bị cắt xén để vỗ béo đàn lợn, con trâu để cải thiện cho những ngày lễ Tết đã làm tấm thân tù gầy dộc.
Cán bộ quản giáo vào phòng nhiều hơn trước. Mỗi lần thấy hắn xem xét lục soát tư trang, anh em trẻ thường bảo hắn "trong phòng có buồng trưởng, cán bộ cần xem xét tìm kiếm cái gì cũng phải có buồng trưởng chứng kiến…"
Ngày Giáng sinh sắp tới, anh em có chung ý nghĩ là phải làm cái gì để kỷ niệm ngày thiêng liêng này.  Mặt khác chính công việc bận rộn sẽ giải toả bớt căng thẳng về tinh thần của anh em trong phòng.  Ý kiến được cổ võ,  dù có đạo hay ngoài đạo mọi người đang ngồi chung một chiếc thuyền, mà tinh thần và thể xác đã cùng chung một số phận.
Lấy cớ nhà cũ thiếu vệ sinh, anh em xin cán bộ cấp phát vôi để quét lại căn nhà cho sạch, nhất là phòng vệ sinh để giữ cho sức khỏe tốt hơn.  Trại đồng ý ngay, vì anh em đang ăn không ngồi rỗi, lại tự ý làm việc có ích cho trại.
Phòng 7 là phòng duy nhất được quét vôi từ trong ra ngoài, như phong tục sơn quét nhà cửa vào dịp Tết.  Như vậy mới thực hiện xong phần đầu của chương trình, những việc còn lại phải chia nhau làm.
Một số cây hoa trong khuôn viên phòng đã cho vào lon sắt được để lại chỗ cũ, sẽ mang vào phòng trong đêm Giáng Sinh.  Mấy chục lọ đựng thuốc trụ sinh được rửa sạch đổ đầy dầu thay cho đèn cầy.  Nhóm hát thánh ca do Nguyễn-Ðức phụ trách, còn Vĩnh lo cắt hình và trang trí nơi đặt hình đức Chúa.  Dự trù phần ăn chiều ngày 24 tháng 12 sẽ tập trung biến chế để ăn chung đêm Giáng Sinh.  Các nhóm phân công bắt tay vào việc, chỉ tiếc không có sự hiện diện của Linh Mục Nguyễn-hữu-Lễ.
Tinh thần phấn khởi như không còn quan tâm tới mọi việc quanh mình.  Khi đi tắm anh em phòng 7 đã rỉ tai các phòng khác về chương trình mừng lễ Giáng Sinh của phòng 7.  Các phòng hưởng ứng việc tổ chức đêm Giáng Sinh.
Thời tiết vào tháng 12 lạnh hơn. Chiếc áo cắt ra từ tấm chăn đắp không còn đủ ấm.  Cái lạnh như ở trong lòng lạnh ra, đúng là bụng đói thì cật rét.  Ban ngày anh em thường xúm quanh bếp lửa sưởi ấm.
Sinh hoạt trong phòng vẫn bình thường, mọi người chăn chú vào việc sửa soạn cho ngày lễ Giáng Sinh. Cán bộ quản giáo vào gọi Tiên đi làm việc nhưng anh em bảo Tiên không nên đi.  Vì đi không tránh khỏi kỷ luật như các bạn khác, nếu cần cả phòng sẽ cùng đi với anh.  Tiên đã ở lại phòng, không thi hành lệnh cán bộ.
Có lẽ tin phòng 7 tổ chức đêm Giáng Sinh tới tai cán bộ, nên phòng bị kiểm soát thường xuyên.  Tư trang của anh em bị khám kỹ hơn.  Dù bị theo rõi gắt gao nhưng anh em ai nấy tiếp tục thực hiện chương trình như dự định.
Ngày Giáng Sinh tới gần, nhiệt độ đột nhiên xuống thấp. Anh em mặc những chiếc áo khác mầu cắt từ tấm chăn đắp, một hình ảnh lạ mắt khác với các bạn tù ở đây. Trước đây trại cấm không được cắt tấm mền làm áo, nhưng lúc này không còn gì phải e dè sợ hãi cán bộ trại.  Cán bộ khám phòng bất thường và nhiều hơn trước đây.  Kim linh cảm có chuyện gì sắp xẩy ra cho tập thể anh em.
Ngày 22 tháng 12, một số bạn bị chuyển qua phòng khác.  Anh em hiểu giờ phút ra tay của đám cán bộ bắt đầu.  Mọi người còn lại quyết tâm thực hiện chương trình đã định mặc dù số người giảm sút.  Không khí trong phòng căng thẳng hơn, mất đi vẻ trầm lặng của những ngày vừa qua.
Ngày 23 tháng 12, một số anh em khác được gọi tên chuyển phòng.  Ai cũng nghĩ là mình sẽ ra khỏi đây, nhưng chưa biết lúc nào.  Ðổi phòng là biện pháp duy nhất mà cộng-sản thường áp dụng tại các trại cải tạo, để phân tán hầu phá vỡ sự đoàn kết của anh em khi thấy phòng nào ổn định.  Và đó là biện pháp mà cán bộ trại phải dùng đối với anh em phòng 7, để ngăn chặn việc tổ chức kỷ niệm một ngày lễ tôn-giáo chưa bao giờ được thực hiện trong xã hội cộng- sản, huống chi lại xẩy ra trong một trại tù nổi tiếng miền Bắc như trại này. 
Căn phòng như vắng hẳn đi.  Một cảm nhận của tù nhân, "thêm một người vào phòng thấy chật hơn, bớt một người như vắng hẳn đi."
Nhóm tập Thánh ca vẫn tiến hành.  Khi thiếu có người khác thế vào.  Những buổi tối như tối nay, khi cửa phòng khóa kín, anh em lắng nghe tiếng ca nhè nhẹ, tinh thần cảm thấy lâng lâng, như được gột rửa những vẩn đục của cuộc đời, như thoát ra ngoài khung cảnh hiện tại.
Ðạt, Khuân đã ra khỏi phòng, không biết hai anh bạn trẻ này tới phòng nào.  Cũng chẳng khác gì từ sông ra biển, đàn cá vẫn bơi lội vẫy vùng.  Nhưng nhìn các bạn lần lượt ra đi lòng anh không khỏi bâng khuâng. 
Kim vẫn tự hỏi sao chưa tới lượt mình.  Hay họ đã sửa soạn cho anh một phần đặc biệt.  Bây giờ đã chiều rồi, anh vẫn mong ở lại tối nay, được nhìn thấy ánh nến chiếu sáng phía sau bức hình Chúa Cứu Thế trên nền giấy bóng mờ, mà ánh nến lung linh càng làm bức hình thêm sống động.
Trong khung cảnh này, anh có cảm giác sự thiêng liêng vượt lên cao, xúc động mãnh liệt hơn những lần anh cùng các bạn đi dự lễ nửa đêm ở nhà thờ Ðức Bà.  Có lẽ khi đó tinh thần anh phấn trấn, tràn ngập yêu thương, nên dù ngày lễ tổ chức huy hoàng khác biệt với ngày thường, nhưng đời sống ấy vẫn là những chuỗi ngày hạnh-phúc liên tục. Còn lúc này, trong lòng anh ít nhiều giao động, tâm tư anh đang phân vân, đời sống anh bị đe dọa, anh vẫn mong mỏi được an lành. 
Anh muốn được nghe Thánh ca vào giờ phút thiêng liêng sắp tới.  Mọi người cần sự dìu dắt giúp đỡ trong khi tinh thần đang chao đảo. Vì lòng ham sống vẫn còn trỗi dậy mãnh liệt trong lòng mỗi người đang gặp bước hiểm nghèo, mà tinh thần bỗng chốc trở thành yếu đuối.
Dù gì trước sau anh cũng ra khỏi nơi đây, anh vẫn muốn tối nay được ăn chung với các bạn một bát cháo lạt.  Anh quyến luyến họ, vì biết khi ra khỏi đây, có thể sẽ không còn cơ hội gặp lại những người bạn cũ.
Bầu trời một mầu trắng đục. Cả ngày không có lấy một chút ánh nắng, khung cảnh thật ảm đạm thê lương.  Từ trên sàn nằm, qua khung cửa sổ, khuôn viên không nhộn nhịp như trước, các bếp lửa đã bớt đi ồn ào như bị buồn lây với những người ra đi.  Các bạn đang xúm quanh các bàn đá truyện trò như mang nặng ưu tư.Hôm nay đã là ngày 24/12/77, không hiểu giờ này gia đình anh thế nào, bố mẹ anh có khỏe không, vợ con anh biết có an toàn. Không rõ các con anh có được chung vui ngày lễ Giáng Sinh như nhiều năm trước.  Niềm cay đắng  xót xa trong lòng.
Chưa tới giờ lấy cơm chiều, cánh cửa cổng chợt mở, hơi sớm hơn thường lệ. Cán bộ trực trại vào sân.  Kim  tự hỏi cái gì sắp xẩy ra nữa đây, chắc lại thêm một số người chuyển phòng.  Hắn đứng giữa sân, nét mặt nghiêm trọng, kênh kiệu như bản chất hung tàn sẵn có, gọi lớn tên Kim.  Anh đi tới trước hắn.  Hắn cho anh 5 phút để sửa soạn đồ dùng cá nhân.  Anh biết mình bị chuyển phòng.
Nhìn cử chỉ lời nói của hắn anh biết hắn chẳng ưa gì anh, trong lòng thù hận của hắn đã có chỗ cho anh.  Nhất là khi anh vạch trần thành tích ăn chặn cơm tù của cán bộ nhà bếp, đã chỉ trích hành động tàn bạo của hắn khi đánh đập người bệnh trước mặt anh em cải tạo.  Nhiều lúc anh tự hỏi, tại sao với hành động tàn ác công khai đi ngược lại chính sách nhà nước thường rêu rao là “nhân đạo khoan hồng”, mà hắn vẫn được trọng dụng.  Hay bản chất của chế độ này là thế, khó có thể thay đổi.  Anh lặng lẽ trở vào phòng để hắn đứng đợi ngoài sân.
Ðời sống của Kim thật đơn giản, anh đã tập quen từ ngày đi "cải tạo."  Từ trại Ty đến Phan-đăng-lưu đối diện với Lăng Ông Bà Chiểu, một nơi dự trù trở thành "trung tâm cải-tạo trường kỳ" cho những người chống cộng bằng tư-tưởng.  Anh đã nếm trải nhiều thứ.  Ở phòng kỷ luật một thời gian được cho ra phòng tập thể, vì ghi nhận cải tạo có vẻ tốt.  Có phải vì anh không đập phá, chửi bới tập đoàn cộng sản như những căn xà lim khác trong lúc cùm xích cả tay chân.  Mới ở phòng tập thể được ít ngày lại bị nhốt vào phòng kỷ luật.  Anh nghĩ chắc cán bộ trại biết anh vừa hết tốt.
Một tháng mấy lần chuyển phòng, một năm mấy lượt vào xà lim.  Nằm mãi một mình thành thói quen, làm biếng cả nói, dù chỉ nói với mình, để nhận thức mình còn tồn tại, còn sáng suốt trong bóng tối lâu ngày. 
Anh đã được huấn luyện thuần thục ở "trường 5 phút", nhất là hiện tại không còn gì để phải sửa soạn, đồ dùng cá nhân mỗi ngày một ít đi, vì để sót lại qua những lần di chuyển vội vàng.  Cũng giống như những cán binh cộng sản, hành trang nhẹ tênh, ngay cả tâm tư của họ, còn gì là của riêng mà quan tâm.  Tất cả bỏ gọn vào túi đeo vai, ôm theo chiếc chiếu nhỏ trải nằm.  Bước ra sân, anh dơ tay chào các bạn, mỉm cười hẹn ngày gặp lại.
Qua cổng phòng 7, rẽ về bên phải, hắn đưa anh tới căn phòng mới xây, hiện anh em ở trại Hoàng-liên sơn chuyển về xử dụng.  Thật trớ trêu, khi mới tới đây, căn phòng này đang xây dở dang, anh đã góp sức vào để hoàn tất, và bây giờ được hưởng thành qủa công việc mình làm.
Căn nhà kích thước bằng phòng 7 nhưng số người chứa gấp rưỡi.  Một chỗ nằm không có dư, mặc dầu nằm trở đầu đuôi như cá hộp, hơi người nồng nặc.  Anh được buồng Trưởng cho nằm chung bệ nằm chiều ngang chưa được 80 phân.
Bây giờ đã 9.30 giờ tối, quá giờ ngủ 30 phút.  Kim vừa nằm xuống, cuốn chiếc mền làm gối.  Xung quanh anh, những tiếng thở với nhịp độ âm thanh khác nhau nghe thật rõ trong đêm vắng.  Bỗng tiếng mở ổ khóa phía ngoài cửa khua vang, cánh cửa mở rộng.  Hai cán bộ bước vào, vẫn cán bộ trực trại và một võ trang.  Hắn gọi anh tới trước mặt bắt đứng ở thế nghiêm.  Hắn dơ cao tờ giấy đánh máy khổ giấy học trò, dưới ánh đèn anh nhìn rõ có in dấu tròn lớn mầu mực đỏ.
Hắn ưỡn ngực như sắp làm một việc quan trọng, như muốn dằn mặt anh, chứng tỏ hắn có uy quyền ở đây, mà trong thời gian vừa qua anh em cải tạo đã khinh bỉ vì hắn có hành động vô nhân đạo.  Hắn đọc to:
" Bộ Nội vụ ngày… Lệnh chuyển trại… Nay chuyển trại tên Trần-nhật-Kim, can tội đầu não phản động ..."
Kim nghe nhịp tim mình như đập mạnh hơn, mặc dù anh đã làm quen với khung cảnh này từ lâu.  Trại phó đã thực hiện đúng lời hắn nói, sẽ đưa anh tới nơi quanh năm sương phủ, thiếu ánh nắng mặt trời.  Anh chưa biết nơi đó là chốn nào, nhưng hắn đã nhấn mạnh nhiều lần, nơi anh tới sinh hoạt cải tạo rất khó khăn.  Anh biết hắn chẳng cần phải dọa, cũng chẳng vì thương xót, mà chỉ muốn nói lên một sự thật.  Bước đường sắp tới của anh sẽ gian lao hơn,  do đó cuộc sống sẽ căng thẳng hơn.
Nhưng mặt khác anh luôn có cảm nghĩ, ở đâu lâu cũng thấy chán, thời gian như ngưng lại mà cuộc đời ngắn đi.  Anh luôn mong đợi một cái gì mới mẻ, đến một nơi xa lạ, gặp những bộ mặt hắc ám hay khoan hoà, mặc dù những bộ mặt đó ở dưới bất cứ hình thức nào, cũng chỉ là bàn tay thép bọc nhung.
Ðổi chỗ càng nhiều càng tốt, mấy tháng một lần càng hay.  Không phải anh ham đi nhiều nơi như thường nói với các bạn, là đi du lịch không mất tiền.  Cơm bưng nước rót, lính gác xung quanh.  Không phải anh "chây lười lao động" như đám cán bộ thường nói, mặc dù anh không thấy lao động là vinh-quang chút nào, chỉ thấy cuộc đời mình càng ngày càng thê thảm, thân tàn ma dại.  Anh ao ước có một ngày nghỉ ngơi, quên hẳn cái xẻng cái cuốc, cả cái chỉ tiêu tàn nhẫn luôn đầy ải hủy diệt kiếp sống con người, để có dịp lành lại những vết thương đang rỉ máu.
Khi đọc dứt lệnh chuyển trại, hắn nói:
-"Tôi cho anh 5 phút thu dọn đồ dùng cá nhân. Quên cái gì để lại cái ấy."
Chắc hắn muốn nhắc, anh sẽ đi đến một nơi thật xa, không còn cơ hội trở lại chốn này.  Nhìn hắn, anh mỉm cười.  Tất cả đã xếp đặt rồi, anh đang bước ra khỏi uy quyền của hắn. 
Kim gấp vội chiếc mền vừa dùng làm gối, nhét vào túi đeo vai, một tay cầm chiếc chiếu cuộn tròn dựng bên bệ nằm.  Anh bước ra ngoài trước cặp mắt ngạc nhiên của mọi người trong phòng.  Họ ngạc nhiên là phải, anh vừa tới chưa ấm chỗ lại khăn gói ra đi.
Bầu trời tối đen, lác đác vài vì sao nhỏ.  Vầng trăng nấp ở đâu không thấy, nên thế gian phủ đầy bóng tối.  Trời về khuya càng lạnh.  Chiếc áo cắt từ tấm mền đắp không giữ cho anh ấm hơn.  Bàn chân anh lạnh buốt trong đôi dép râu trống trải.
Kim đi theo ánh đèn bấm của cán bộ trực trại chiếu loang loáng trên mặt đường.  Vai mang chiếc túi cũ đã theo anh mấy mùa mưa nắng, nó xuất thân từ một túi xách mà vợ anh thường dùng đi chợ.  Nàng để lại anh dùng khi mấy mẹ con lên thăm lần đầu tiên ở trại Gia-rai Long-Khánh.  Qua thời gian theo nhu cầu, đã giúp anh có thêm một niềm vui nhỏ bé, để vượt qua những cơn đói vào ngày nghỉ cuối tuần, anh đã biến đổi hình dạng nó, khâu thêm giây đeo vai, gắn vài miệng túi.  Một túi dành riêng đựng bình hút thuốc lào dã chiến làm bằng bình nhựa đựng thuốc đau bụng.  Trong túi chỉ có vài thứ lỉnh kỉnh cộng với chăn màn, vì bộ quần áo duy nhất trại phát anh đang mặc trên người.  Nhiều khi không đủ đồ nhét vào túi trông nó bèo nhèo như chiếc dạ dầy lép xẹp của anh.  Anh đã gìn giữ nó như một kỷ-vật, mang hình bóng yêu thương gia- đình.  Nó với anh như hình với bóng.  Không có nó anh có cảm tưởng như thiếu vắng thứ gì, vì vậy nó luôn gọn gàng trên đôi vai gầy của anh vào mỗi lần di chuyển.
Qua khu sân rộng, quang cảnh của gần một năm trước khi anh tới đây lúc 2 giờ sáng, cũng giống như bây giờ.  Có chăng chỉ có một sự khác biệt là, khi đó anh biết đã đến một nơi xa lạ, còn bây giờ anh chưa biết nơi nào anh sẽ tới.  Anh tới đây lúc đêm khuya, và bây giờ trở ra khi trời vừa tối.  Các phòng hai bên yên lặng, ngọn đèn điện gắn trên đầu cọc chiếu sáng hàng rào kẽm gai giăng trên bờ tường cao.
Kim đi qua phòng 7, vẫn còn tiếng lào xào như mọi người còn thức.  Bây giờ còn quá sớm để hát bài Thánh ca, hay đó chỉ là tiếng thì thầm vĩnh biệt của các bạn, chứng kiến cảnh ra đi đến nơi chốn tận cùng của những người bạn.
Ði qua cổng gác, nơi rào ngăn khu tù ở, như lằn ranh của hai thế giới.  Tới chỗ đậu xe phía trước khu cơ quan, một xe chở khách nhỏ đang đợi, phía sau xe một số anh em ngồi hàng đôi.
Trời quá tối, nên không nhìn rõ mặt những người ngồi trong hàng, anh lên tiếng:
-"Tôi, Kim đây."
Anh nghe các bạn trả lời, từng người xưng tên, thế là đầy đủ mọi khuôn mặt: Từ "Linh Mục Nguyễn-hữu-Lễ đến các anh Tô-tứ-Hướng, Vũ-văn-Vang, Nguyễn-tôn-Tính, Mai-văn-An, Dương-văn-Lợi, Ngô-đình-Thiện, Nguyễn-vãn-Hà, Trần-phụng-Tiên, Mai-ngọc-Y, Nguyễn-tiến-Ðạt, Nguyễn-đức-Khuân, Phạm-văn-Thông, Ðỗ-duy-Hùng, Huỳnh-thế-Hùng, Phạm-hồng-Thọ, Ninh-vệ-Vũ, Nguyễn-sĩ-Thuyên, Nguyễn-văn-Huyền.  Anh là người cuối cùng cho đủ con số chẵn 20. 
Hai mươi bộ mặt hiện diện đã đóng góp khá nhiều trong biến động vừa qua. Với những người ngồi đây, bọn cán bộ trại hân hoan như đã nhổ xong những cái gai làm chúng đau nhức mấy tháng nay.  Nhưng liệu khu trại này có được yên ổn trong thời gian sắp tới như ý đám cán bộ trại mong muốn, hay vẫn bất ổn vì những người ở lại có chung lòng căm hận.     
Mọi người lên xe. Hai người chung một còng sắt số 8 đã xét rỉ ôm chặt cổ tay.  Kim còng chung với anh Tính.  Thực không hẹn mà gặp, cũng từ trại Phan-đăng-Lưu tới Gia-Rai Long Khánh. Xuống chung chuyến tầu sông Hương đến trại này.  Bây giờ tay sát tay trong chuyến xe định-mệnh, không hiểu sẽ đi về đâu.
Chiếc xe chở khách nhỏ đã cũ, nệm ngồi và lưng tựa hư rách, để lộ đầu sắt nhọn của những chiếc lò xo.  Kim không dám cựa mình, anh có cảm giác như ngồi trên gai nhọn.  Ðèn bật sáng, anh thấy nét mặt các bạn vẫn rạng rỡ, không một thoáng lo âu, nói cười vui vẻ coi thường đám cán bộ võ trang đi hộ tống.  Bác tài đang rồ máy, làm nóng động cơ xe trước khi chuyển bánh.  Của kính đã đóng kín, trong xe thấy ấm hơn.
Bây giờ đã qúa 10 giờ đêm, chỉ còn hơn một giờ nữa là tới giờ hành lễ.  Một phần quả đất sẽ cầu xin ơn trên ban phép lành để có một cuộc đời hạnh phúc.  Chúa ở khắp mọi nơi, sẽ đến với tất cả mọi tâm hồn cần tới sự cứu rỗi trong cuộc đời bể khổ.
Nhưng không hiểu sao, ở vùng đất nhỏ bé này của địa cầu, ở một góc tăm tối như nơi đây, vẫn không thấy ánh nến lọt qua khe cửa sổ.  Không thấy vẻ nhộn nhịp của đêm thiêng liêng, không thấy nét hân hoan của mọi người.  Các khung cửa đóng kín, những gian phòng vẫn tăm tối, im lìm.  Có phải vì linh hồn Bác ở trên cao và Ðảng đứng sau lưng, với chính sách tam cùng, phê bình và kiểm điểm, niềm tin đã bị bóp chết, đời sống luôn luôn bị đe dọa. 
Anh Tính quay qua hỏi Kim:
-"Anh nghĩ họ sẽ đưa mình tới đâu?"
-"Quanh vùng này trại Ðầm đùn là có tiếng nhất.  Hôm sinh hoạt ở ngoài sân, trại phó nói là sẽ đưa tới nơi quanh năm sương phủ, chắc chúng mình sẽ lên mạn Bắc."    
-"Nghe đồn trại "Phù-Nẩm" gì đó. Nghe âm thanh có vẻ ở vùng thượng du, tôi cũng chưa nghe nói tới tên này bao giờ."
-"Tôi cũng chưa phân định được, đợi xem xe chạy hướng nào vì miền Bắc chúng ta cũng biết ít nhiều, nhất là các tỉnh quanh đây.  Tuy nhiên, tôi có ý nghĩ vì chưa biết rõ sinh hoạt nơi sắp tới, mà bây giờ chỉ còn bây nhiêu anh em, chúng ta cần tính toán kỹ trước khi hành động."
-"Tôi đồng ý với anh về điểm này.  Chúng ta cần giữ im lặng lúc đầu chờ xem động tĩnh ra sao.  Chắc các bạn đều có chung ý nghĩ như chúng ta…"


_________________

Chú thích
Trại Nam

Trại cải tạo Nam Hà nằm trong xã Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam Ninh (tên gộp 3 tỉnh).

Từ thành phố Phủ Lý, qua cầu Hồng Phú, theo quốc lộ 21 độ 15 Km, trên đường đi Chi Nê, Hòa Bình là tới xã Ba Sao.  Trại Nam Hà ‘A’ nằm bên bờ đầm, một vùng ngập nước với những núi đá cao (khu đầm Tam Chúc, nên trại Nam Hà còn được gọi là trại Đầm Đùn từ thời Pháp thuộc).  Đầm Tam Chúc thuộc xã Ba Sao, huyện Kim Bảng, cách thị xã Phủ Lý khoảng 12 Km, tiếp giáp với Hòa Bình và Hà Tây, cách Hương Sơn khoảng 3Km đường núi.  Diện tích đầm khoảng 600 ha.

Trại Nam Hà cũng được gọi là trại Ba Sao.  Danh từ “Ba Sao” có lẽ được dịch ra từ nhóm chữ “Les trois Étoiles = Ba Sao”, còn nhận được phần nào do chữ còn lưu lại trên khung lưới sắt bắc ngang trên đầu trụ gạch trước khi vào trại.  Nơi đây là một khu đồn điền trồng cà phê còn lại từ thời Pháp. 

Thỉnh thoảng có bạn bắt gặp  những gốc cà phê cổ thụ, còn  sót lại trái cà phê to bằng trái mận, thơm phức, ngọt lịm. Một số anh em thường lấy lá cà phê nấu nước. Nước cà phê có sắc vàng nâu, đặc biệt có hương thơm mùi trái cam.

Ngoài trại Nam Hà ‘A’ còn có trại ‘B’, là một trại kỷ luật nằm trên đường đi Thung Gianh.  Trại ‘C’ và ‘D’ giam giữ thành phần hình sự miền Bắc.  Trại ‘Mễ’, gần Phủ Lý, là khu trại kỷ luật
nhưng ngụy trang dưới hình thức
một trại y tế. 
Trên đường đi tới rừng Cúc Phương còn một trại giam phụ nữ, có lẽ thành lập từ ngày chia đôi đất nước.

Xã Ba Sao trở thành thị trấn của huyện Kim Bảng, có diện tích 34,76 Km2.  Quốc lộ 21 đi qua xã Ba Sao tới Chi Nê (Hòa Bình) và rừng Cúc Phương.

Tọa độ:    20o 32’ 28” B  -   20o 54’ 11”  B
     105o 47’ 51” Đ  - 105o 79’ 75”  Đ

Thị trấn Ba Sao gồm 16 xã: Đại Cương, Đồng Hóa, Hoàng Tây, Khả Phong, Lê Hồ, Liên Sơn, Ngọc Sơn, Nguyễn Úy, Nhật Tân, Nhật Tựu, Tân Sơn, Thanh Sơn, Thi Sơn, Thụy Lôi, Tượng Lĩnh và Văn Xá.

Huyện Kim Bảng: từ đời nhà Trần trở về trước gọi là Cổ Bàng thuộc châu Lỵ Nhân, thuộc lộ Thiên Tường.  Năm Quang Thuận 7 (1446), triều đình bỏ tên Trấn đặt là Thừa Tuyên.  Năm Quang Thuận 10 (1469), vua Lê Thánh Tông cho đổi tên Thiên Trường thành Sơn Nam, Kim Bảng thuộc Thừa Tuyên Sơn Nam.  Năm Hồng Đức 21 (1490), triều đình đổi tên Thừa Tuyên thành Xứ.  Năm Cảnh Hưng 2 (1741), triều đình bỏ tên Xứ đặt thành Lộ, chia Sơn Nam thành 2 Lộ.  Đời Tây Sơn (1788-1802), Kim Bảng thuộc trấn Sơn Nam Thượng. 

Năm Minh Mạng 13 (1832), triều đình thành lập tỉnh Hà Nội, Kim Bảng và phủ Lý Nhân thuộc Hà Nội.  Dưới đời Thành Thái 2 (1890, tỉnh Hà Nam được thành lập từ một số huyện của Hà Nội và Nam Định (lấy tên Hà của Hà Nội và Nam của Nam Định).  Phủ Lý trở thành tỉnh lỵ của Hà Nam.

Giai đoạn tứ 1965-1996, tỉnh Nam Định sát nhập với tỉnh Hà Nam thành “Nam Hà”, sau đó sát nhập với tỉnh Ninh Bình thành “Hà Nam Ninh”.  Từ tháng 1-1997, tỉnh Hà Nam được tái lập như trước đây.  Thị xã Phủ Lý thuộc tỉnh Hà Nam.

Thị xã Phủ lý nằm trên quốc lộ 1A, bên bờ phải của sông Đáy.  Phủ Lý cách Hà Nội 60 Km, cách thành phố Nam Định 30 Km, cách  Ninh Bình 33 Km.  Phủ Lý là nơi gặp nhau của 3 con sông: sông Đáy, sông Châu Giang và sông Nhuệ.

*

9.
Tới vùng biên giới 
Từ lúc khởi hành anh em vui vẻ nói chuyện như lâu ngày không gặp.  Câu chuyện vẫn xoay quanh hành động tàn bạo của đám cán bộ trại, của chính sách trước sau bất nhất.  Mọi người vui chuyện như chẳng quan tâm tới đám cán bộ võ trang đi theo xe, cũng chẳng phân vân lo lắng là mình sẽ đến nơi nào.  Ánh lửa châm thuốc thỉnh thoảng bùng lên soi rõ từng khuôn mặt không thoáng nét ưu tư,  coi thường tên sĩ quan công-an tay lăm lăm khẩu súng ngắn, đôi lúc choài người về phía anh em quát tháo bảo mọi người im lặng.    

Kim không phân định được con đường mình tới đây vì khi đó đã quá nửa đêm, ánh sao không đủ chiếu sáng cảnh vật xung quanh.  Và bây giờ trở ra, xe đang lọt vào giữa rừng cây, các con đường quanh co như mất hút trong màn đêm. Anh chỉ nhìn thấy khung cảnh phía trước thu gọn trong vùng ánh sáng của hai bóng đèn chiếu ra từ đầu xe. Sau một thời gian khá lâu xe mới tới đường lộ.
Khi xe tới khu ven biên thành phố Hà-nội đã vào nửa đêm. Thành phố đang say ngủ, không có lấy một bóng xe chạy qua. Những ngọn đèn đường vàng lợt mờ sương, không đủ sáng cho con phố vắng.  Cái lạnh cắt da của mùa đông miền Bắc như dấu kín mọi người trong nhà. 
Kim chợt thấy một người đàn ông quần áo chỉnh tề đang rảo bước trên đường, qua dáng đi phải là người đã có tuổi.  Ông đi đâu vào giờ này khi mọi người đang trốn lạnh.  Có phải ông đi về phía nhà thờ cũ, như vẫn còn thói quen ra khỏi nhà vào giờ phút này.  Ðể cầu xin có một cuộc sống an lành, và tâm hồn được an ủi.
Vào nửa đêm, anh em yêu cầu Linh-Mục Lễ làm phép lành. Trong xe đột nhiên yên lặng.  Kim nghe rõ từng hơi thở của các bạn hoà nhịp với lời kinh nhè nhẹ thanh thoát. Trong hoàn cảnh này, vào giây phút này anh càng thấy kính trọng hơn đối với người đại diện Chúa trước mặt. Linh mục Nguyễn-hữu-Lễ đã đi cùng chuyến tầu từ Nam ra Bắc, chia xẻ với anh em nhiều cay đắng.  Chẳng phân biệt giữa đạo và đời, giữa con chiên và người đại diện Chúa.  Cấp bậc địa-vị trước đây đã trở thành vô nghĩa, tất cả chỉ còn tình huynh đệ, là tình yêu thương con người mà sự sống và cái chết đã gắn bó với nhau.    
Mặc cho tiếng hét của đám cán bộ công an, lời kinh vẫn trầm bổng, như đang gửi hồn vào chốn thiêng liêng tối thượng.  Kim như nghe rõ cả tiếng trái tim mình đập trong lồng ngực. Anh đặt dấu hỏi, tại sao những người này lại không khiếp sợ trước bạo lực.  Phải có một cái gì mầu nhiệm mà con người đã dốc lòng tin tưởng, vượt qua những hiểm nguy đe dọa.  Anh chợt hiểu khi nhớ tới gương sáng của các Thánh tử vì đạo với đức tin cao cả.
Tới ngã ba, nơi góc đường có xây chiếc bảng hình chữ nhật hiện rõ dòng chữ Hà-Sơn-Bình dưới ánh đèn ống.  Xe theo mũi tên trên bảng rẽ về phía trái.  Từ đây tới tỉnh Sơn-Tây theo đường chính chỉ gần 40 cây số. 
Anh nhớ ra sắp tới quê vợ, xã Phượng-Cách phủ Quốc-Oai. Anh nghĩ tới người cha vợ chưa gặp mặt một lần, mà vì cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã chia cắt tình cảm yêu thương cha con chồng vợ, kẻ Bắc người Nam.  Theo vợ anh nói nếu đi ngả Hà-Ðông, từ Hà-nội về làng chỉ có khoảng 16 cây số. Nếu đi tắt theo đường làng còn ngắn hơn nữa. Trước kia thuộc tỉnh Sơn-Tây, bây giờ mấy tỉnh gom lại mang tên mới là Hà-Sơn-Bình. 
Nhà nước thay đổi thể thức tổ chức cơ cấu địa-phương để tiết kiệm ngân qũy, nhưng có nhiều điều ca thán là cơ chế nặng nề, không thống nhất ý kiến trong việc quản lý, vẫn còn nặng tính địa phương. Vì vậy đã không tiết kiệm còn phung phí hơn trước, mà thủ tục lại trì trệ.  
Trời đã sáng, gió ban mai mát dịu, ánh mặt trời chói lòa lơ lửng giữa bầu trời xanh trong.  Những mảnh ruộng lấp xấp nước trải dài bên đường, gợi nhớ hình ảnh khi anh về quê cha vùng Hải-hậu - Nam-Ðịnh.  Theo các bạn ra đồng vào ngày mùa, ngồi trên mình trâu thả rong ăn cỏ, nhìn cảnh trâu cầy người cấy…Những hình ảnh nghèo nàn đơn sơ nhưng khó quên.  Bây giờ cảnh cũ đã thay đổi, không hiểu người ta đã đưa trâu đi đâu lại lấy người làm thế.  Những thanh niên khỏe mạnh cường tráng ở đâu không cầy thay trâu, có phải vì đã trải thân trên đường mòn Hồ chí Minh và tại chiến trường miền Nam nhiều năm về trước, hay vì đời sống mới nam nữ bình quyền nên phụ nữ lãnh phần trách nhiệm thay trâu.  
Con đường trải nhựa phẳng ngày xưa đã nổi gồ những viên đá cục.  Nước mưa xối mòn mặt đường để lại những chiếc ổ gà khiến xe nhẩy lên liên hồi.  Con đường cũng hẹp lại vì hàng cây trồng hai bên, và hai lạch nước "thủy lợi" đào sát chân đường khiến mặt đường khó lòng mở rộng.
Xe chạy không nghỉ, đã qua địa phận Sơn-Tây bát ngát ruộng đồng.  Ðịa danh trước mặt là Việt-trì.  Con đường trở lên hoang vắng, quang cảnh khô cằn thiếu hẳn vẻ mềm mại ấm cúng của vùng đồng ruộng.
Khi qua khỏi Việt-trì, Vĩnh-Yên nằm về hướng bên phải, và ngược lên không xa theo hướng tay trái là Phú-Thọ.  Anh nhớ khi còn nhỏ học địa dư miền thượng du, anh đã ngơ ngác trước các địa danh mang đầy tính chất huyền bí.  Nào là Pa-kha, Hoàng-su-Phì đến Fan-si-Pan, Pia Oac với âm thanh miền núi, ngờ ngợ hình ảnh hoang vu.  Nhưng bây giờ chúng chẳng còn cách xa anh bao nhiêu, đang ở sát một bên.  Anh có cảm tưởng là mình sẽ nhận vùng rừng núi hoang vu này làm chỗ an nghỉ sau cùng.  
Khi tới địa phận tỉnh Tuyên-Quang, khung cảnh có phần thay đổi. Hai bên đường xuất hiện những xóm nhà  thấp nhỏ, mái ngói đỏ au.  Nhánh sông chảy qua đây chỉ còn là một lạch nước, nằm trơ trọi giữa bãi cát mầu nâu tía.
Xe ngừng lại giữa khu chợ nhỏ bên đường, quán hàng bầy bán trước những căn nhà mái rạ lụp xụp.  Bây giờ khoảng một giờ trưa, hàng quán đã thưa người.  Ðám cán bộ thay nhau vào ăn trưa, còn bác tài thiếp đi trên tay lái.
Trông anh ta thật tội nghiệp, lái không ngưng nghỉ từ đêm qua đến giờ.  Nhiều khi vừa lái xe vừa dụi mắt, một tay cầm tay lái một tay xoa mặt.  Chắc anh ta muốn xua đuổi cơn buồn ngủ luôn kéo xụp đôi mắt.  Có lúc đang lái xe, đầu anh gục nhẹ về phía trước, chiếc xe hơi chao đi, anh chợt tỉnh lấy lại tay lái.  Trước cảnh này, anh em nói đùa với nhau "dễ hắn định đưa mọi người trên xe đi thăm bác Hồ."
Anh em nhờ cán bộ mua cho ít thức ăn với số tiền trại Nam-Hà giữ từ khi ra Bắc.  Dân chúng to nhỏ nhìn vào xe, một số anh em dơ tay bị còng cho mọi người dưới chợ trông thấy. Chắc họ đoán biết những người trên xe là ai.
Kim mua nhánh chuối xứ trái no tròn, vỏ mỏng mầu vàng ươm.  Vài chiếc bánh nếp ngoài gói lá chuối còn nóng hổi.  Anh thèm chúng đã lâu rồi, cái đói dầy vò anh đã hơn hai năm nay.  Bữa cơm chiều qua bị bỏ quên vì đổi phòng và chuyển trại, và lúc này trong dạ dầy anh như có hàng ngàn con sâu đang dẫy dụa.
Anh thưởng thức từng miếng bánh nếp, hương vị thật thơm ngon.  Vị bùi của nhân đậu như quyện vào chân răng, hòa tan trong miệng, xoa dịu con sâu đói dang chờ đón nơi dạ dầy.  Ðúng là miếng ăn ngon trong suốt thời gian dài vừa qua.  
Cửa xe mở rộng, các em nhỏ nhẩy lên xe.  Thấy chúng anh nhớ đến đám con anh ở nhà. Anh em chia cho chúng những viên kẹo bột vừa mua. 
Trong khoảnh khắc khu chợ như ngưng đọng.  Họ nhìn vào xe như muốn thấy rõ từng khuôn mặt, những bộ mặt sáng sủa, lời nói hòa nhã khác hẳn những người đã đi qua đây.  Kim nghe rõ mấy bà bán hàng quay nói với nhau: "cải tạo miền Nam đấy, bán rẻ cho họ..." Anh không thấy ở họ một chút hận thù như đám cán bộ thường nói.
Tình đồng bào là thế.  Họ thông cảm hoàn cảnh của các anh, hay hoàn cảnh này cũng giống như hoàn cảnh họ đang sống. 
Họ chưa thấy quân đội miền Nam ra đánh miền Bắc, mà chỉ thấy con em họ bị thúc đẩy nhập ngũ ồ ạt vào miền Nam dưới danh nghĩa bênh vực nhân dân miền Nam bị áp bức. Với chiêu bài miền Nam nghèo khó nên hạt gạo phải chia tư, lá lành đùm lá rách.  Ðám dân nghèo khó này đã phải thắt lưng buộc bụng, hy sinh cả người lẫn của cho "mộng ước cao cả" của Bác và Ðảng. 
Bây giờ họ đối diện với người miền Nam, mà nhà nước thường nhắc nhở trước đây là "tình anh em ruột thịt", và ngỡ ngàng trước hoàn cảnh của những người ruột thịt mà nhà nước thường tuyên truyền, sau khi thống-nhất đã biến đổi từ "nghĩa đồng bào - thành nợ máu xương."       
Sau mấy thập niên chiến tranh, và hai mươi năm cách biệt, Kim vẫn nhận ra thứ tình cảm cố hữu của người miền Bắc.  Năm 1946, anh rời Hà-nội về quê Nam-Ðịnh để tránh trận chiến ngày một lan rộng.  Về quê chẳng được bao lâu, gia-đình anh lại phải tản cư sang Thái-Bình, anh đã ghé chùa Keo và phủ Kiến Xương.  Cũng như phần đông đồng bào các nơi chạy về đây, đã được địa phương giúp đỡ tận tình từ vật chất đến tinh thần. 
Cả miền Bắc như thế, người ở nơi an bình giúp người chạy giặc ngoại xâm.  Khi đó không hẳn là người dân ở vào thời kỳ dư dả, nhưng vì nghĩa đồng bào, chủ với khách chia nhau từ củ khoai đến lon gạo.  Anh đã thấm đượm được thứ tình cảm yêu thương đồng bào đùm bọc từ khi còn nhỏ.
Xe vẫn theo con lộ chạy thẳng hướng Bắc.  Anh không biết mình sẽ tới đâu, nơi nào mới là trạm chót dừng chân. Tới Thị Xã Tuyên-Quang, xe bỏ đường lộ rẽ vào sân vận động nằm thấp hơn mặt đường.  Xe dừng lại ở giữa sân, anh em được xuống xe nghỉ chân sau hơn nửa ngày đường ngồi bó gối. 
Hai người vẫn chung một còng, nên một người phải đứng nhìn khi bạn mình làm công việc vệ-sinh cá nhân sau các bụi cây ở cuối sân vận động.
Anh em ngồi quây quần giữa sân cỏ, đám cán bộ đứng gác xung quanh.  Ðã mười mấy tiếng đồng hồ ngồi không tựa lưng, thân thể mỏi nhừ như rời ra từng khúc, người thật mỏi mệt sau một đêm không ngủ.  Anh em được ăn bữa cơm trưa, phần cơm trại mang theo.  Mọi người nói cười vui vẻ, như không có gì xung quanh, trong khi một số đông dân chúng địa phương đứng trên đường nhìn xuống đám người y phục lẫn lộn vừa tù vừa dân sự.
Sau bữa ăn trưa, xe tiếp tục lộ trình theo hướng bắc, xa dần xóm nhà đông đúc, đường đi mỗi lúc một vắng vẻ hoang sơ hơn.  Xe đã vượt qua Hàm-Yên rồi Vĩnh-Tuy. Khi tới địa phận Bắc-quang, anh biết là mình không tới Lào Cay.  Một hình ảnh thật mơ hồ thoáng trong trí nhớ về nơi nghỉ mát Sapa, một khu rừng thưa thật đẹp mà khi còn nhỏ anh không phân định được vẻ đẹp của núi rừng.
Xe vẫn theo hướng Bắc, vượt qua những cánh rừng trải dài hai bên.  Con đường đất nhỏ dần, mất hút vào rừng cây phía trước. 
Gần 6 giờ chiều tới một Thị xã, xe chạy qua khu chợ rồi tới một bến xe.  Nhìn tấm biển treo nơi trạm xe, Kim mới hay đây là Hà-Giang, một tỉnh sát biên giới Việt-Trung.  Không hiểu xe ngừng ở đây hay còn đi tiếp.  Anh vừa trải qua quãng đường dài gần 200 cây số từ tỉnh Tuyên-quang tới đây, và không c̣n bao xa nữa là tới lằn ranh hai nước Việt-Trung.
Vào giờ phút này lòng anh vẫn dửng dưng, không quan tâm tới là họ sẽ đưa anh đi đâu.  Mặc dù âm vang hai chữ "Hà-giang" đã một thời làm người miền Bắc chẳng mấy ưa thích.  Nó chứa đựng những huyền thoại kỳ bí, một nơi rừng thiêng nước độc, đã tới ít khi có trở về.  Nó cho mọi người cái ấn tượng hãi hùng và muốn xa lánh.
Nhưng bây giờ anh đã đặt chân tới đây, liệu có còn con đường về.  Trong mấy năm đi tù nay đây mai đó, không có gì cho anh một chút tin tưởng ở ngày về, nếu có chỉ là ước vọng mong manh, như một hy vọng bọt bèo bám víu để sống.  Thành thử anh đã quen đi với khung cảnh mới, đổi thay dồn dập trong một thời gian thật ngắn ngủi.  Tâm tư anh đôi lúc bấn loạn, trái tim như bị bóp nghẹt khi nghĩ tới phải vĩnh viễn xa rời người thân yêu.  Sau đó thân xác bải hoải không mấy tha thiết với hiện tại.
Ðã thấy nhiều bộ đội xuất hiện.  Nghe nói có tới hai sư đoàn chính quy đồn trú ở đây, với nhiệm vụ án ngữ mặt Bắc, đề phòng quân đội Trung Hoa tràn qua biên giới như những trận đánh đã xẩy ra.
Xe vẫn tiếp tục theo hướng Bắc.  Ðường lộ nhỏ dần,  lên dốc nên xe không chạy nhanh như trước.  Mặt trời đã khuất dạng từ lâu, rừng cây hai bên đường một mầu xám đậm, khung cảnh miền núi chìm trong bóng tối thật nhanh.
Hơn 8 giờ tối mới tới chỗ rẽ, xe rời lộ theo con đường nhỏ phía bên trái.  Kim cố nhìn xung quanh nhưng màn đêm phủ trùm vạn vật.  Từ xa, nơi chân núi leo lét ánh đèn của trạm gác nằm sát bên đường.  Xe ngừng nơi trạm.  Người cán bộ võ trang ra khỏi vọng gác dơ cao chiếc đèn bão kiểm soát và ra hiệu cho xe chạy.
Xe rời vọng gác tiếp tục đi theo con đường dốc, bất chợt anh nghe thấy giọng ngâm của bác tài:

     "Quyết-Tiến là cổng của trời,
      Sao mà khổ thế hỡi người trần gian."

Kim không hiểu nghĩa của chữ Quyết-tiến, tại sao lại là cổng của trời.  Giọng ngâm không đúng âm điệu như một nghệ sĩ chuyên nghiệp.  Nhưng trong khung cảnh tĩnh mịch của đêm vắng, âm thanh nghe thật buồn, não lòng người tới đây.  Có phải nó diễn tả cái thê lương, cuộc sống bất hạnh của những người ở nơi này.
Xe quanh co vượt hết con đường dốc mới tới mặt bằng, và ngừng trước dẫy nhà ngang, ánh đèn vàng không đủ sáng cho căn phòng.  Anh tự hỏi đây là chốn nào, sao lại âm u như vùng địa ngục, hoang vắng như bãi tha ma mộ địa.  Một người xách đèn bão đi tới chỗ xe đậu.  Anh em xuống xe, được tháo bỏ chiếc còng tay, tới ngồi hàng đôi trước cửa căn phòng đèn thắp sáng.
Người Sĩ-quan công-an trại Nam-Hà ôm chồng hồ sơ bước vào nhà.  Hắn để chồng hồ sơ cá nhân của hai mươi anh em trên bàn, không quên kèm theo lời giới thiệu với người ngồi trước mặt:
"…Chúng tôi gửi các anh những con cọp xám của trại Nam-Hà…"
Lời gửi gấm thật nồng nhiệt chí tình, đã đẩy các anh vào con đường gian truân hơn.
Sau một đêm không ngủ, lại vượt qua một quãng đường dài mệt mỏi, Kim cảm thấy thoải mái được nằm duỗi thẳng tay chân dù nền xi măng gía lạnh.  Anh thiếp đi trong giấc ngủ không pha trộn một hình ảnh đẹp nào.


*

10.
Vùng cuối chân trời
(Trại Quyết-tiến, Hà-giang)

Kim thức giấc từ lâu, cái lạnh buốt xương như lôi anh ra khỏi tấm mền quá mỏng.  Trời chưa sáng, qua khe cửa hình ảnh bên ngoài vẫn chìm trong mầu xám lợt.  Anh đã nghe thấy tiếng gà gáy sáng xa xa.  Cái lạnh ở ngoài như thấm sâu vào phòng.  Ðôi dớ mền không đủ giữ ấm bàn chân.  Anh khoác chiếc mền đắp phủ ngoài chiếc áo mền mà vẫn thấy lạnh.  Dù chỉ cách xa có một ngày xe chạy, cái lạnh của  Nam-Hà mới chỉ làm xe da, còn ở đây, cái lạnh đã thấm  sâu, len lỏi  tận cùng các thớ thịt.

Tám giờ sáng cửa phòng mới mở, khí lạnh lùa vào phòng.  Kim bước ra sân, bầu trời một mầu trắng đục trông thật thấp.  Sương xuống nhiều nên không nhìn rõ cảnh vật phía trước ngoài chục thước.  Sau vài cử động hít thở, anh có cảm giác hơi lạnh len vào tận buồng phổi, hơi nóng đã đọng thành sương mỗi khi há miệng.  Các bạn anh co ro trong chiếc mền cuốn quanh người.  Kim đang ở trên vùng đất gía lạnh mà ánh sáng mặt trời thật hiếm muộn.
Chín giờ sáng anh em tới trình diện cán bộ trại.  Một cán bộ gọi Kim và chỉ anh ngồi ghế trước bàn hắn, vui vẻ với nụ cười trên môi:
-"Anh Kim đi đường có mệt không.  Ðêm qua anh ngủ có ngon giấc không?"
Kim ngạc nhiên khi hắn gọi tên anh như quen biết đã lâu.  Giọng nói Hà-nội thứ thiệt thật hòa nhã, không pha trộn một chút âm thanh miền quê.  Anh chợt nhớ tới Hai-Tiến của trại Phan-đăng-Lưu.  Cũng giọng nói thật nhẹ nhàng, nhưng không hiểu sao vẫn không thấy âm hưởng vui tươi, một sắc thái hài hoà làm người nghe có một chút cảm tình.  Không ai đoán hiểu được trong lòng hắn đang nghĩ gì, để biết hắn đang vui hay giận.  Anh trả lời:
-"Ði đường xa cũng hơi mệt, đêm qua được ngủ một giấc nên tôi thấy khỏe hơn."
Hắn chậm rãi mở tập hồ sơ cá nhân của anh để trên bàn.  Vẫn cái bìa mầu vàng đi theo anh từ trại Ty, qua các trại ở miền Nam rồi ra Bắc và bây giờ lên tận vùng rừng thiêng nước độc này.  Hắn mở trang bìa, ngón tay đưa từ trên xuống dưới theo hàng có ghi tên cán bộ chấp pháp và ngày tháng hỏi cung.  Trang trong, phần ghi chú ngoài lề với dấu hỏi viết lớn bằng bút chì mầu đỏ vẫn còn đó.  Hắn dừng lại ở phần nhận xét của trại Nam-Hà và nói:  
-"Trại Nam-Hà ghi thành tích lao động của anh rất xấu.  Nào là chống lại lệnh của cán bộ quản-giáo đội, tự ý cho đội nghỉ giải lao.  Không đôn đốc anh em lao động, năng xuất lao động kém.  Và gần đây nhất là đầu não tổ chức tuyệt thực…"       
Kim nghe hắn đọc, đôi lúc nhấn mạnh như muốn tăng mức quan trọng của vấn đề.  Lại một lần nữa anh được nghe nhắc lại hai chữ "đầu não," không hiểu chúng có thành kiến gì mà luôn luôn khoác cho anh hành động cầm đầu.  Anh trả lời khi hắn ngưng nói:
-"Cán bộ vừa đọc thành tích của tôi ở trại Nam-Hà, tôi không hiểu trại Nam-Hà có ghi rõ sự việc không, nhưng có điều khi ghi" đầu não tổ chức tuyệt thực" đã không sát với thực tế.  Chúng tôi không tuyệt thực, nhưng khi thấy phần ăn không đúng tiêu chuẩn, tôi có yêu cầu cán bộ trực trại tới kiểm soát. 
Nếu đó là sự sai trái của nhà bếp, cần phải sửa đổi, vì phần ăn bị cắt xén sẽ ảnh hưởng tới sức lao động của anh em.  Còn nếu bảo tôi là đầu não lại càng không đúng, vì ở địa vị buồng phó tôi phải đại diện anh em liên hệ với cán bộ trại.  Ngay khi đó cán bộ trực trại có tới kiểm tra, có sự hiện diện của cán bộ nhà bếp.  Sự việc đã được giải quyết là nhà bếp phải bồi hoàn phần cơm thiếu."
Mặt hắn bỗng đanh lại, nụ cười vừa nở trên môi vụt tắt.
-"Thế hành động các anh hô đả đảo cộng-sản, gây ảnh hưởng xấu trong trại?"
Câu hỏi khó trả lời, tuy vậy anh vẫn phải nói:
-"Thực ra sự việc này phải bắt đầu từ hành động đánh đập tàn nhẫn anh em bệnh của cán bộ trực trại, mặc dầu họ đã được cán bộ y-sĩ trại cho phép nghỉ lao động.  Vì tình người, cán bộ cũng như chúng tôi, khó có thể cầm lòng trước sự việc xẩy ra.  Chúng tôi lên tiếng phản đối cán bộ trực trại với mục đích ngăn chặn hành động có thể gây thiệt hại đến sinh mạng người bệnh, khi sức khỏe của họ không chịu nổi trận đòn."
-"Còn vụ các anh ngồi ngoài sân không chịu vào phòng theo lệnh cán bộ, anh ở thành phần nào?"
Kim nhớ khi sự việc xẩy ra, anh và các bạn đã đồng ý là tập thể khu B ngồi lại cho đến khi cán bộ trại giải quyết tình trạng anh em bệnh đang bị giam kỷ luật.  Mặc dù các anh hiểu đó là một việc khó khăn khi đòi hỏi cán bộ trại phải chiều theo ý của tập thể cải tạo.
-"Vì tình trạng sức khỏe anh em bệnh không được chữa trị, lại bị giam kỷ luật cùm xích, chúng tôi đưa đề nghị cán bộ trại giải quyết, để anh em bệnh trở về với tập thể hầu chữa trị kịp thời."
-"Anh nghĩ thế nào về hành động các anh gây mất trật tự, náo loạn nơi nhà bếp?"
-"Khi lãnh phần ăn cho buồng, chúng tôi phát hiện bánh mì đã mốc xanh, có nhiều chiếc đã nặng mùi.  Chúng tôi yêu cầu nhà bếp đổi cho bánh mới, vì bánh hư mốc gây nguy hiểm cho sức khỏe anh em."
Kim không hiểu trong đó có ghi hành động thách đố cán bộ nhà bếp của Phong trước sự chứng kiến của anh, cũng như anh em phòng 7 dùng xẻng xúc than gây náo loạn khu nhà bếp.
Hắn im lặng nhìn Kim trong giây lát như muốn tìm biết ý nghĩ của anh trong lúc này.  Ðôi mắt hắn soi mói người đối diện.  Hắn thong thả nói:
-"Không phải bây giờ tôi mới biết anh.  Khi chúng tôi được trại Nam-Hà thông báo các anh không chịu ăn cơm, Bộ đã điều tôi và một toán cán bộ tới trại theo rõi để nắm vững tình hình.  Tôi đã đọc những lời phát biểu của các anh trong buổi sinh hoạt học tập nội quy tại phòng.  Tôi đã đọc kỹ bản khai của anh, đã nắm vững tư tưởng của các anh.  Bộ đã quyết định đưa các anh lên đây, anh hãy an tâm cải tạo, vì đây là nơi thuận tiện nhất."
Kim hiểu đây là trạm chót của cuộc hành trình, là “quê hương” sau cùng của anh, nhưng lại là bước đầu của những chông gai gian khổ hơn những gì anh đã trải qua.  Phải, anh đã tới trại "Cổng Trời", lên tận đỉnh cao, đỉnh cao của tủi nhục và cơ cực.
Hai mươi người trại Nam-Hà được ở riêng một căn nhà nhỏ, tường xây mái ngói cũ kỹ.  Thời tiết ngày cành lạnh hơn, chiếc áo may từ một phần tấm mền cắt ra không đủ ấm, thêm chiếc mền quấn quanh người vẫn còn lạnh.  Anh trở dậy nhiều lần mỗi đêm, làm nóng người bằng những động tác thể dục, rồi vào ngủ tiếp.  
Các anh vẫn được nghỉ lao động.  Ngày hai bữa ngô xay nấu chín, món ăn chính của người miền núi vùng này.  Các anh không được rời khỏi khuôn viên phòng mình ở, cơm nước do nhà bếp gánh lên tận phòng.
Sáng ngày thứ ba, trại Trưởng tới phòng, sau khi hỏi thăm sức khỏe anh em, hắn nói:
-"Các anh mới tới vùng này, chưa quen khí hậu, nhớ xuống nhà bếp lấy nước nóng về tắm…"
Khi gặp trại trưởng, Kim không còn ngạc nhiên về cử chỉ và lời nói của cán bộ an-ninh.  Vẻ hoà nhã thân thiết bên ngoài liệu có che dấu được dã tâm tàn ác.
Nghe nói trại trưởng là một đại-úy, đã ở trại này hơn hai mươi năm từ khi còn là trung-sĩ.  Hắn và đám nhân viên dưới quyền phải như thế nào, trại này mới có danh xưng là "trại kỷ-luật số 1 của Bộ", với thành-tích nhiều năm cầm cờ đỏ.  Ðã qua mặt các trại nổi tiếng khác của miền Bắc, một thời làm mọi người khiếp sợ như Ðầm Ðùn của Hà-Nam-Ninh, Lý-bá-Sơ của Thanh-Hóa.  Kim nhận biết các anh đã rơi vào ổ kiến lửa, với bàn tay thép bọc nhung, mà thực tế còn khiếp đảm hơn những gì viên trại phó trại Nam-Hà đã cho hay trước khi các anh đi.
Người thứ ba mà các anh gặp là cán bộ giáo dục, cũng  lại Bắc Kỳ chính gốc. Có lẽ hắn sinh trưởng ở Hà-nội nên nói rõ từng chữ, không có một chút âm thanh địa phương nặng chịch hay ngang phè.  Hắn xưng tên là Thiếu-úy Tố, phụ trách văn-hóa giáo-dục.  Hắn còn trẻ, dỏng cao, trắng trẻo mang nét thư sinh.  Ðứng trên bục cao, hắn nói:
-"Các anh được viết thư về nhà, nói rõ cho gia đình biết các anh ở đâu để thư không lạc. Tôi nhấn mạnh các anh phải ghi địa-chỉ rõ rệt.  Các anh đang ở trại Quyết-Tiến thuộc huyện Quản-bạ tỉnh Hà-Tuyên."
Hắn im lặng đi lại trên bục như để anh em có nhiều thì giờ ghi nhận.  Anh em nhìn hắn theo dõi.  Bất chợt hắn dừng lại nói tiếp:
"Còn về sinh-hoạt ở đây, các anh hãy an-tâm cải-tạo.  Còn nếu muốn trốn trại thì tùy ý, nhưng tôi nói để các anh rõ, từ trước tới nay chưa ai trốn thoát khỏi trại này.  Ðể các anh rõ hơn, tôi cho hay trại có hai con đường, đường thứ nhất là đường các anh vào đây, còn đường thư hai đi về phía sau trại, sẽ đưa lên đồi Bà Then…"
Lại thêm một lần ngạc nhiên.  Trại đã không che dấu địa danh như các trại anh đã đi qua, mặc dù anh hiểu nơi đây có ai tới thăm nuôi mà hòng nhắn tin như khi còn ở miền Nam.  Còn thư có viết chắc gì đã được gửi, nên cho biết tên trại cũng chẳng mấy quan trọng.  Nhưng về điểm thách đố tù nhân trốn trại qủa là đặc biệt, hắn đã dựa vào điểm nào để có hành động này.  Khi tới đây anh đã bỡ ngỡ với "cổng trời", và bây giờ lại thêm thắc mắc về “Đồi Bà Then."
Bây giờ đang mùa đông, bầu trời một mầu trắng đục, không khí lạnh buốt.  Trại ở trên đỉnh cao, từng đám mây trắng thoáng qua phủ mờ mặt đất như tấm thảm bông mầu sữa.  Hiếm thấy những cánh bướm bóng chim bay qua, chỉ trừ những cánh vạc ăn đêm lạc lõng.
Ðã 3 ngày nay bầu trời một mầu sương trắng, không có lấy một chút ánh nắng sưởi ấm nhân gian.  Không hiểu còn bao nhiêu ngày vẩn mây như lúc này, hay sẽ kéo dài suốt mùa đông âm-u ảm-đạm.
Từ trại xuống Thị-xã Hà-giang độ chừng 36 cây số.  Ngược lên phía Bắc, huyện Quản Bạ nằm sát biên giới, chỉ cách trại khoảng 10 cây số.  Qua đỉnh núi, phía bên kia là biên giới Việt-Trung.
Xe chở khách từ Hà-Giang lên Quản-bạ không chạy mỗi ngày.  Ða phần là các chuyến xe chở hàng và khách buôn lên xuống Hà-giang Quản-bạ.
Mặt trước trại hướng về đường lộ, hai bên là vách núi thẳng đứng tiếp xúc với những cánh rừng gìa trải rộng dưới chân.  Phía sau trại dựa vào sườn đồi tiếp nối với rặng núi cao.  Một vùng đất rộng sau trại được dùng làm nghĩa trang mang tên "đồi Bà Then", nơi vùi lấp xác thân những người xấu số của trại.
Tự nhiên anh có cảm nghĩ thật chua xót.  Người ta đã nói trước và nhấn mạnh nhiều lần với các anh là, đã đến đây sẽ ở lại đây suốt đời.  Các anh chót bước chân vào cửa trước, và chỉ còn lại con đường duy nhất là đi ra cửa sau, lối lên đồi Bà Then.  Các anh phải ổn định tâm tư mình đừng vọng động, yên lặng âm thầm mà sống những năm tháng còn lại trong đời.
Ðộc đạo được canh giữ phía dưới chân dốc.  Nếu đi theo đường hai bên hông trại cũng khó thực hiện.  Sức lực nào vượt hết cánh rừng hoang kia, cho dù có qua được vách núi này.
Xuống được phía dưới kia sẽ đi về đâu.  Nếu đi về phía biên giới, ai sẽ dẫn đường vượt qua rào cản quân đội hai bên.  Còn nếu xuống miền xuôi, liệu có thể hòa đồng với lớp dân chúng đã sống lâu ngày trong vòng tay cộng-sản.  Liệu có thể che dấu được bộ dạng, nét ngây ngô như chú mán vào thành.  Còn sự khác biệt về giọng nói, đôi lúc pha một chút âm hưởng của miền Nam.  Về quần áo, liệu anh có thể che dấu được bộ quần áo tù mầu xanh duy nhất dành cho cải tạo miền Nam.
Vào ngày cuối tuần các đội nghỉ lao động, trại tổ chức một buổi chiếu bóng ngoài trời.  Cuốn phim trình chiếu có tựa đề “Vùng Trời”, tả cảnh người vợ đi thăm chồng khi hay tin phi cơ anh lái là một chiếc Mig, sản xuất tại Nga Sô, gặp hư hỏng sau một thời gian quần thảo với máy bay “Con Ma” của Mỹ trên vùng trời miền Bắc.  Người vợ đã vào trong rừng gặp chồng.  Khi gặp chồng, câu đầu tiên người vợ hỏi:
-“ Máy bay có sao không anh?”
-“ Không sao hết.  Anh đáp an toàn trong rừng cây…”
Mặc dù thời tiết cuối năm thật lạnh, cuốn phim đen trắng dùng làm tài liệu không dài, nhưng là cơ hội cho anh em gặp gỡ các bạn trong khu O, và biết thêm về tình cảm gia đình của xã hội miền Bắc.
Mấy ngày sau Tiên và Vang đi kỷ luật, rồi đến Thiện.  Không ai ngạc nhiên vì biết trước sau gì cũng đến lượt mình.  Kim tự hỏi đây có phải là hậu quả của hành động Tiên không đi trình diện ban giám thị trại, hay từng người sẽ lần lượt nếm mùi kỷ-luật vì hành động chống đối vừa qua.  
Chính khi xẩy ra cuộc chống đối anh cũng ngạc nhiên, tại sao cán bộ trại Nam-Hà không có hành động nào khi anh em chống lại lệnh ban quản giáo.  Hay trại không muốn làm công việc thổi bùng ngọn lửa chống đối của tập thể khu B trở thành phức tạp hơn. 
Còn về phía anh em cải tạo, có phải đã tới đường cùng nên bất chấp mọi hiểm nguy, và trước mắt không thể có thêm một người bạn bị hành hạ, ngược đãi.  Không cần phải có một lời khích động, mọi người đã liên kết cùng gánh chịu mọi bất hạnh xẩy ra.
Nhưng ở trong hoàn cảnh đơn lẻ này, chỉ còn một điều quan tâm, bây giờ là mùa đông gía rét, người bị kỷ-luật chỉ được mặc một bộ bà ba trại phát, mang theo một chăn một chiếu một màn.  Không được mặc áo ấm, mà nền xi-măng lạnh buốt.  Khẩu phần ăn vốn khiêm nhượng nay lại bị cắt giảm.
Phía trước mặt phòng anh ở là khu kỷ luật, chỉ cách hai dẫy tường cao và một con ngõ hẹp.  Anh nghe rõ tiếng đập phá chửi bới của người bị kỷ luật.  Nhưng đám cán bộ trại chẳng quan tâm tới, vì tù nhân phải đối diện với cái đói, cái gía lạnh, gông cùm còn kinh hoàng hơn là những trận đòn rách da chẩy máu.  Rồi thời gian sẽ làm hao mòn cả thể lực lẫn ý-chí, và một ngày không xa sẽ bị khuất phục. 
Thiện còn trẻ, mới 20 tuổi, khi còn ở trại Gia-rai vác bao gạo 100 ký coi nhẹ như không.  Sau hai tuần vào kỷ-luật, nghe nói khi ra em phải bò khỏi phòng, vì hai chân đã bị tê dại.
Dù sao ở khu kỷ-luật này vẫn còn coi là may mắn, vì là những căn nhà trên mặt đất, như phòng giam của các trại anh đã đi qua, gồm đủ còng tay với xích chân.  Chỉ có một điểm khác là thời tiết quá khắc nghiệt vào mùa đông.  Và trại còn có một ðặc ðiểm là, ngoại trừ thành phần bị kiên giam lâu ngày trong khu biệt giam, ða phần ði kỷ luật vào mùa ðông, vì mùa hè vẫn là thời gian sản xuất lương thực nuôi tù.
Còn một loại phòng giam khác là những hầm đá, vào mùa đông hầm càng lạnh hơn.  Khẩu phần ăn quá ít, mỗi bữa cơm nắm lại chỉ lớn bằng trái trứng vịt với muối.  Không có lấy một chút chất ngọt, chất béo.  Trong hoàn cảnh ngược đãi, thể xác sẽ bị hao mòn theo thời gian.  Có nhiều người đã qua đời ở đây.
Chính tại căn hầm đặc biệt này, cùm xích và cai ngục cũng khác thường.  Vòng sắt dẹp ôm cổ chân lâu ngày sét rỉ, đường kính khoảng 4 phân tây, nhỏ hơn cổ chân bình thường.  Khi cùm, tù nhân để cổ chân trên nửa vòng sắt dưới, cán bộ úp nửa vòng sắt trên xuống không vào khớp vì thịt cổ chân thừa ra ngoài.  Cai ngục dùng gót giầy đạp xuống phần sắt trên để vòng sắt vào ngàm.  Họ làm như một thói quen trong khi tù nhân đau đớn.  Phần thịt nơi cổ chân đã dập nát, vết thương chẩy máu dễ làm độc vì vòng sắt xét rỉ, dơ bẩn. 
Không được chữa trị kịp thời và hình phạt kỷ luật vẫn tiếp diễn trong nhiều ngày, vết thương lở loét sau mỗi cử động.  Cổ chân sưng lên khiến vòng sắt như nhỏ lại lún sâu vào thịt, vòng sắt nhám như mặt dũa cọ vào vết thương.  Cái đau nơi cổ chân bóp thắt trái tim, các bộ phận trong người như bị cắt ra từng mảnh.
Tù nhân có cảm giác vết thương ngứa ngáy khó chịu, như đang bị những dòi bọ gậm nhấm.  Muốn cử động cho bớt ngứa lại sợ vòng sắt làm vết thương chẩy máu.  Lâu ngày nằm một chỗ, bàn chân như nặng hơn, mất dần cảm giác nơi gan bàn chân.  Cảm giác nặng nề lên dần tới hông, như không còn chịu sự điều khiển của trí óc.  Rồi chẳng bao lâu, chân bị còng thấy nhẹ tênh, như không còn là một phần của cơ thể.  Không lúc nào bằng lúc này, tù nhân thấy chua xót cho số phận hẩm hiu của mình.
Những ngày cuối năm dương lịch qua thật mau.  Bầu trời vẫn u ám đọng mây như tấm khăn xô ướt đầm nước mắt.  Cảnh vật trở lên tiêu điều ủ dột, như tâm tư buồn nản không ngày mai của người “cải tạo."
Ngày đầu năm dương lịch là ngày lễ được nghỉ lao động, tù nhân được "ăn tươi" cả ngày.  Hai bữa cơm không độn, mỗi người vài miếng thịt trâu kho, một chén canh rau hầm xương. Khẩu phần thật khiêm nhượng nhưng là một ngày vui, vì khẩu vị được thay đổi, có một chút chất béo trong người.
Ðể hội nhập với sinh hoạt lao động, anh em trại Nam-Hà được chuyển vào khu 0.  Không hiểu danh từ khu 0 có từ bao giờ, nhưng với phong thái bình dân mà cuộc cách mạng mệnh danh giải phóng dân tộc đã "giải phóng" luôn cả nền văn hóa có từ mấy ngàn năm, bắt đầu làm lại từ khởi điểm cổ xưa.  Người dân Sài-gon ngỡ ngàng khi thấy tấm bảng "xưởng đẻ" thay thế cho "bảo sanh viện," lấy cớ danh từ mới có vẻ gợi hình và giản đơn hơn danh từ cũ. 
Thành thử khi bước chân vào khu O, anh biết là mình đã bước chân vào trong một vòng tròn khép kín, đã tới con đường cùng, một ý nghĩ luôn ám ảnh từ ngày vào tù.  Ðó là một vùng đất riêng biệt, một khu nhà giam trong trại tù.  Anh như cá nằm trong giỏ, không có hy vọng vượt thoát ra ngoài.  Anh ít có dịp gặp người khác ngoại trừ những người sống trong vòng tường này.
Một vòng tường tròn hình chữ O xây cao trên 10 thước, đầu tường có giăng kẽm gai được chiếu sáng bằng những ngọn đèn cao thế.  Lối ra vào duy nhất là khung cửa bằng gỗ lim dầy luôn khóa kín phía ngoài.  Từ ngoài nhìn vào khu O, Kim không thấy  được gì vì vòng tường quá cao, im lìm như một ốc đảo.  Trên đầu tường rải rác nhiều vọng gác, có cán bộ võ trang trực gác ngày đêm.  Mức độ an-ninh trong khu O căng thẳng hơn bên ngoài.
Qua khỏi ô cửa nhỏ vừa lọt một người đi nằm về bên phải của khung cửa lớn, phía trong là khu đất rộng.  Một căn nhà ngủ lợp ngói tường xây nằm cách xa khu trại mộc và cưa.  Phần đất còn lại biến thành vườn bắp cải, có cả vài ngàn gốc do tù trong khu gieo trồng, phần hoa mầu thuộc quỹ của trại.
Kim nhìn quanh, tầm mắt bị ngăn lại bỏi vòng tường xây cao phẳng lì, chỉ thấy bầu trời một mầu trắng đục.  Anh có cảm giác đang ngồi sâu dưới đáy giếng, vùng trời phía trên thu nhỏ lại, không thấy được gì ở phía xa, ngoại trừ bóng cây lờ mờ trên đỉnh núi.
Với nhân số hơn 70 người chen chúc nhau trong căn nhà nhỏ.  Mặc dầu có sàn nằm trên thành hai tầng, nhưng chỗ nằm chia nhau nằm rất hạn hẹp, vẫn vai chấm vai.      
Ngoài 20 người trại Nam-Hà, còn có các anh: Nguyễn-văn-Phước (Sì-quan Hải quân), Nguyễn-văn-Trình (Sĩ-quan Truyền tin) đến từ trại Vĩnh-Phú. 
Các anh: Ðặng-văn-Tiếp (Sĩ-quan Không quân, Dân biểu), Nguyễn-thái-Quân (Sĩ-quan binh chủng Dù) và Hoàng-trọng-Hanh (Sĩ-quan Cảnh-sát) đến từ trại Hà-Tây. 
Một số anh em từ trại Thanh-cẩm lên đây sau nhóm Kim mấy ngày có các anh: Trịnh-Tiếu (Ðại-tá), Trang-minh-Hải (Thiếu Tá), Nguyễn-ngọc-Xuân (Thiếu Tá), Phạm-dương-Ðạt (Thiếu tá), Lê-văn-Khương (Phó quản đốc trại Côn-Sơn), Nguyễn-Vạn-Thọ (Bộ Tư Pháp), Trần-trung-Chi và Lê-văn-Mười (can tội chống Cộng).
Một số qúy vị Linh-mục, Tuyên-úy Công giáo chưa hẳn đã có hành động chống đối trực diện tại các trại cũng bị đưa lên đây, vì vốn là thành phần mà cộng-sản không thể sống chung gồm có các Linh Mục đến từ các trại:  LM Ðinh-Cao-Thuấn (Nha Tuyên úy Công giáo), LM Nguyễn-thiện-Thuật (Tuyên úy Binh chủng Hải quân), LM Trần-công-Ðịnh (Tuyên úy, Cần Thơ), LM Nguyễn-hữu-Chương, LM Cao Đức Thuận (Nha Tuyên úy Công giáo), LM Nguyễn Văn Nguyễn Văn Thành (Tuyên úy, Thủy quân Lục chiến), LM Nghị, LM Chu Văn Oanh (Mỹ Tho), LM Phan Hữu Nam (Dòng Chúa Cứu Thế, Sài sòn), LM Phạm Văn Hùng (Tuyên úy, Gia Định), LM nguyễn Văn Hòa (Địa phận Phú Cường), LM Phạm Ngọc Lan (Tiểu Chủng viện Ban Mê Thuột)
Thành phần tù nhân của miền Nam sau ngày 30/4/75 từ các trại tới đây cộng chung là 48 người.  Kim gặp lại một số anh em Biệt kích ra đây từ thập niên 60 và trải dài những năm sau đó. 
Thời gian từ năm 1972 trở về trước, đời sống của họ rất thê thảm.  Những người may mắn sống sót sau nhiều năm kỷ-luật tra tấn đến kiên giam cũng chẳng mấy lành lặn.  Họ được hưởng tiêu chuẩn như một tù hình sự miền Bắc.
Ðang trong tình trạng kiên giam hay kỷ-luật cùm xích trong phòng tối, họ được đưa ra khỏi nơi đây, tháo bỏ sợi xích tay và vòng sắt niềng cổ chân. Ăn tiêu chuẩn cao hơn, được ra lao động ngoài trời để nắng gió hàn lành các vết thương trên cơ thể. Ðể nhuộm thẫm mầu da, vì thiếu ánh sáng lâu ngày trong các căn hầm tối, đã trở thành trắng bệch mốc meo như những xác chết.  Ðược ngủ thoải mái hơn trên vuông chiếu cá nhân trong khu tập thể.  Ðược ăn no hơn trước dù chỉ với ngô khoai sắn nằm trong tiêu chuẩn.  Như vỗ béo cho ra vẻ một con người mập mạp, dù chỉ là mập bột béo nước.  Nhưng có lẽ vì "kiêng cữ" lâu ngày trong phòng kỷ luật nên làn da vẫn thâm xám, nét mặt vẫn nặng nề.  Vết đầu ngón tay ấn vào da vẫn còn in sâu.
Anh em có ngạc nhiên về sự đổi thay trong cuộc sống, nhưng chẳng ai quan tâm vì khó đoán được ý định của người cộng-sản, vốn thay nay đổi mai. 
Cũng vào thời gian này, số quân cán miền Bắc vào đánh phá miền Nam bị bắt làm tù binh khá đông, Phú-Quốc như không còn chỗ chứa.  Nhiều hội đoàn tại miền Nam đã chỉ trích chính quyền về tình trạng giam tù cộng-sản.  Họ đòi tới tận nơi quan sát đời sống tù nhân, đòi hỏi chính quyền phải cho tù nhân ngày 3 bữa ăn no, đầy dủ chất bổ dưỡng cho một cơ thể, cân lượng thực phẩm cho mỗi người phải được kiểm tra.  Các nhu cầu cho cá nhân nhất là vệ sinh y-tế phải đặt lên hàng đầu . Một anh bạn cùng phòng ở trại Nam-Hà nguyên là một sĩ-quan tại trại Phú-quốc nhắc lại sinh hoạt trại Phú-quốc trước năm 75 bằng câu nói:  "Nhất tù, nhì quân khuyển, thứ ba mới tới nhân viên an-ninh trại."
Một vài nhật báo tại miền Nam đã đăng hình khu "chuồng cọp," cộng thêm những lời phản đối về hình thức vô nhân đạo của phòng giam này.
Còn bây giờ, sau bao nhiêu năm tù đầy trong Xã hội cộng-sản, chuyển từ Nam ra Bắc, hết trại này đến trại khác, anh chưa thấy một hội đoàn, một cơ quan thiện nguyện hay một hội bảo vệ nhân quyền nào tới thăm các trại tù cộng sản giam giữ những người miền Nam, để thấy tận mắt đời sống tù nhân "cải tạo," một đời sống phải có làm mới có ăn.  Làm ra nhiều hoa mầu vẫn không được ăn no, mà miếng ăn đó có đáng là thứ để nuôi sống con người ở thế kỷ này.  Vì vậy anh nhận ra một điều là chính sách tù đầy của Cộng-sản rất khoa học, tù nhân tự nuôi sống và số lương thực tù làm ra đã nuôi cả đám cán bộ coi tù.  Do đó thời gian giam tù có kéo dài bao lâu cũng không ảnh hưởng gì tới ngân sách của nhà nước Cộng-sản.   
Chưa thấy báo chí hay các hội đoàn quốc-tế tới thăm các hầm giam này.  Hay họ đã yên lòng tin tưởng vào danh từ "nhân đạo khoan hồng," vào "tình anh em ruột thịt máu chẩy ruột mềm."  Liệu chuồng cọp của Côn-sơn Phú-quốc có sánh đước với hầm giam ở đây không?
Ðến ngày trao trả tù binh, nhiều quân cán cộng-sản  xin ở lại miền Nam trong chương trình Chiêu hồi.  Anh  khâm phục những người này, họ có một nhận thức đúng về hai phía xã hội họ đã sống.  Họ ở lại vì hai chữ Tự-Do, mà khi trở về quê hương miền Bắc tự do chỉ còn là ảo tưởng.
Gặp lại các anh Biệt-kích ở đây Kim mới chưng hửng.  Lại thêm một bài học kinh nghiệm về sự thành thật, thẳng thắn của người cộng-sản.  Vậy tỉ số trao đổi ngày xưa là bao nhiêu.  Vì lực lượng cộng-sản khi tiến đánh miền Nam họ không có cơ sở để giữ tù, nên đối tượng gây trở ngại cho cuộc tiến quân của họ đã được giải quyết số phận tại chỗ.  Hình ảnh mồ chôn tập thể của quân dân miền Nam  từ Tết Mậu Thân đến mùa hè đỏ lửa vẫn còn là một dấu tích khó quên.
Vậy tại sao những người Biệt-kích dự trù cho cuộc trao trả vẫn còn đây.  Có phải cộng-sản miền Bắc muốn giữ họ làm con tin cho các mục đích sau này.  Hay họ sợ những người Biệt-kích sẽ là chứng nhân cụ thể về hành-động tàn ác, đi ngược lại tinh thần nhân đạo của cộng đồng quốc tế một khi câu chuyện này được phơi bầy.  Hay họ vẫn che dấu, bưng bít những hành động vô nhân đạo hầu lấy được phần nào lòng tin của những người nhẹ dạ vì những lời tuyên truyền mật ngọt.
Ðợt trao đổi tù binh năm 1973 qua đi, anh em Biệt-kích lại trở về nếp sống cũ.  Nhận lại sợi xích tay cái niềng chân trong các căn phòng ẩm thấp thiếu ánh sáng và phương tiện vệ sinh.  Hay họ phải lao động cực khổ hơn trước, như để trả lại công lao "vỗ béo" vừa qua, với tiêu chuẩn 11 ký chất bột mỗi tháng gồm ngô khoai sắn, tiêu chuẩn của một tù hình sự miền Bắc.
Họ mang tội danh khá đặc biệt, "gián điệp hoạt động tại miền Bắc". Có như vậy mới danh chính ngôn thuận khoác cho một cái án mà chẳng qua một cơ chế pháp lý nào xét xử.  Nếu không kêu án tử hình, thì với "lệnh tập trung cải tạo" cũng suốt đời an cư tại các vùng núi rừng biên giới Hoa-Việt.
Có người đã trải qua 20 năm tù ở đây vẫn chưa được về.  Nhà nước bảo các anh Biệt-kích cải tạo chưa tốt, chưa rửa sạch đầu óc còn nặng tính tư-bản đế-quốc.  Như vậy chẳng cần án trung thân khổ sai, các anh vẫn vĩnh viễn ở đây, nhận mảnh đất này là nơi an nghỉ cuối cùng.
Nhiều khi anh tự hỏi, tại sao có cuộc huynh đệ tương tàn.  Vì định kiến chính trị hay tham vọng cá nhân.  Khởi đầu một cuộc cách mạng chống ngoại xâm, nhưng lại khơi dậy lòng căm thù đấu tranh giai cấp, nồi da xáo thịt. Nêu cao chính nghĩa chống thực dân đô hộ áp bức, lại đi làm tay sai cho một đế quốc thực dân khác, nấp dưới danh xưng là các nước anh em vĩ đại.  Nêu cao mỹ danh "Anh hùng dân tộc, đỉnh cao nhân loại" như một lớp vỏ hào nhoáng, che đậy sự dốt nát nghèo đói và chậm tiến.
Có người đặt ra câu hỏi :"Sau khi đánh chiếm miền Nam, cộng sản không bắt quân cán miền nam đi cải tạo, không đuổi dân thành phố tới vùng kinh tế mới, không chiếm đoạt tài sản của nhân dân miền nam, thực tâm thống nhất hòa đồng dân tộc, tiếp tục phát triển đất nước…"
Theo lẽ thường tự ngàn xưa, đó là con đường phải làm để thu phục nhân tâm, để phục hưng đất nước sau nhiều thập niên chiến tranh.  Nhưng tiếc thay, vì bản chất, người cộng sản đã đi ngược lại.  Ðã biến cuộc Nam tiến thành xâm lăng, tự đào huyệt chôn hai chữ "chính nghĩa" mà họ từng nêu cao như một nghĩa cử, và hiện nguyên hình của một tập đoàn thực dân mới.  
Họ đã nhúng tay vào máu của người miền Bắc qua những đợt đấu tố.  Dành đất của địa chủ để dân cầy làm chủ nhưng nhà nước quản lý.  Giết hại những người có tinh thần quốc gia dân tộc vì không đi theo con đường phản bội quê hương.  Phát động cách mạng văn-hóa phá hủy truyền- thống để du nhập một thứ văn-hoá vay mượn.
Và một lần nữa lại nhúng tay vào máu của người miền Nam.  Nêu cao chính nghĩa giải phóng dân tộc như một thứ hỏa mù hầu thực hiện ý đồ bá quyền.  Ðã đẩy hàng triệu người vào các trại tập trung để ngăn ngừa mầm mống chống đối, khả dĩ làm lung lay chế độ cộng-sản.  Biến xã hội thành một nhà tù khổng lồ.  Liệu người dân có thể sống hạnh phúc trong một quốc gia ngày đêm lo sợ vì chính-sách công-an trị, trong một xã hội mà quyền tự do con người bị tước đoạt.
Bức màn sắt vén mở, người dân có dịp nhìn thấy tận mắt đời sống hai miền, hiểu rõ thực chất chế độ cộng-sản.  Cuộc thống nhất Nam Bắc đã gia tăng sự chia rẽ nội bộ.  Lá bài "Giải phóng miền nam" trở thành mối lo cho cộng-sản miền Bắc.  Ðể người miền Nam trở lại miền Nam, dù là người miền Nam có máu cộng-sản, nhưng vì tính kỳ thị vẫn chỉ là thả cọp về rừng.
Ðịa phương nặng tính tự trị.  Mỗi vùng mỗi tỉnh nằm trong tay một lãnh chúa.  Mà lãnh chúa xuất thân từ giới công nông, được phong thưởng vì trung thành với chế độ, có nhiều thành tích sắt máu với nhân dân.  Tạo dựng uy quyền tối thượng, phép vua thua lệ làng, mạnh tay vơ vét tài sản đồng bào.
Nhà nước có cả một chính sách để miền Nam tiến nhanh tiến mạnh bằng miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa. 
Anh cũng chẳng ngạc nhiên về hành động của một số quân cán trẻ tuổi miền Bắc khi vào thành phố Sài-gon. Anh thương bọn trẻ, cái gì cũng thấy lạ mắt trong khi khoe ngoài Bắc cái gì cũng có, ti-vi tủ lạnh chạy đầy đường …Anh  thông  cảm, vì đám trẻ miệt mài trên đường tiến đánh miền Nam, chưa được học tập lại nên không bắt kịp sự thay đổi chính-sách qúa nhanh của nhà nước.  Thay vì khoe khoang như trước đây, đường lối học tập thay đổi khi họ nắm chắc phần thắng trong tay, họ nhận miền Bắc nghèo đói hơn miền Nam, nhưng tự hào là kẻ chiến thắng.
Nhưng anh vẫn phải suy nghĩ về câu chuyện xẩy ra tại Hà-nội, thủ phủ của vương quốc cộng-sản miền Bắc.  Vì hệ thống chuyển vận nước uống qua các đường ống tới từng nhà chưa thoả đáng, nhiều khu dân chúng vẫn phải lấy nước xử dụng hàng ngày tại các vòi nước công cộng.  Các địa điểm lấy nước lại không có nhiều, đa phần lưu lại từ thời chưa chiến tranh.  Ðường ống hư cũ, mạch nước chẩy chậm, hàng xếp dài cả năm bẩy chục thước.  Tình trạng tranh cãi kẻ trước người sau xẩy ra luôn. 
Tại một vòi nước, hàng xếp đã dài, cả trăm cặp mắt nhìn vòi nước mong cho tới lượt mình.  Bất chợt, một thanh niên áo thung, dép râu, quần xanh bộ đội đi tới đẩy cặp thùng đang hứng nước ra ngoài và để cặp thùng của hắn vào.  Mọi người phản đối hành vi thiếu kỷ luật và yêu cầu hắn xếp hàng như mọi người.  Hắn đã không làm theo ý kiến chung, lại tức giận hai tay chống nạnh nói lớn trước đám đông toàn đàn bà và trẻ nhỏ:  "...vì có những người như hắn chiến đấu nên mới có hòa bình như ngày hôm nay.  Hắn có quyền hưởng phần ưu tiên vì công lao của hắn đã bỏ ra…"
Chắc hắn muốn nói với mọi người trước mặt là vì họ hắn phải chiến đấu, đã hy sinh hạnh phúc của tuổi trẻ.  Hắn cũng mong muốn được hưởng một chút ân huệ, biến đổi cuộc sống từ nghèo nàn đến no ấm.  Hắn không dám nhìn cao, không dám sánh với Sư Trưởng, Trung Trưởng, với những người có đảng tịch trong đơn vị.  Họ được cấp phát nhà cả ngoài Bắc lẫn trong Nam.  Ðã hoá gía nhà đến mấy lần, không kể cắm dùi bán đất công cho người khác. 
Hắn rất hiểu nghĩa chữ "quyền lợi."  Ðã có quyền trong tay thì lợi nhuận phải tới.  Còn lũ lính như hắn, tháng ngày lặn lội, nhịn đói nhịn khát trên đường mòn Hồ-chí-Minh, phải chống chỏi với bệnh tật hiểm nguy.  Vào sinh ra tử trên khắp chiến trường miền Nam, với những vắt cơm lạt, những hạt gạo rang dằn bụng.  Khi chiến thắng miền Nam, hắn may mắn hơn các bạn không bị vùi thây nơi góc rừng hẻm núi, có cơ hội trở về.
Miếng mồi miền Nam thật béo bở, đã bị cắt xén chia chác bởi đám người quyền thế, như kẻ khát nước đói ăn lâu ngày, lòng tham của họ thật vô cùng.
Khi cuộc chiến tàn lụn, đám lính tốt như hắn được hưởng những gì ngoài đặc ân "giải ngũ tập thể."  Mang sức lao động hoàn thành con đường sắt nối liền Nam Bắc.
Hắn trở về gia-đình, vẫn căn nhà cũ xiêu vẹo, mái tôn nhìn thấy bầu trời.  Hắn và đồng đội đã ồ ạt tiến vào miền Nam, nhưng khi chiến thắng lại âm thầm rút khỏi.  Danh hiệu anh hùng chỉ là hư ảo.  Hắn cần phải sống, và đang sống lây lất ngoài lề xã hội.
Nhìn sự tức giận của hắn lộ ra ngoài, đám người trước mặt nghĩ gì.  Có phải vì lòng mẹ bao dung, vốn nặng tình thương xót.  Ðã tuân theo khuyến cáo của nhà nước, một thời thắt lưng buộc bụng, hạt gạo xẻ làm tư để cứu trợ nhân dân miền Nam đói khổ.  Ðã từng thấm khô bao nhiêu giòng lệ khi những đứa con yêu có đi không trở về.  Lòng mẹ vì tình yêu thương trở thành ích kỷ, bà không muốn con cái mình vào nơi nguy hiểm ở một phương trời xa lắc.  Bà đã dấu con không cho ra đi.  Bà chấp nhận cả gia đình thiếu thốn, bữa rau bữa cháo khi tiêu chuẩn bị cắt xén, vì không khuyến khích con em nhập ngũ.  Nhưng cuối cùng vì sự thúc bách, bà đành chịu đựng đau khổ để hoàn thành xứ mạng do Bác và Ðảng đề ra.
Kim vẫn tự hỏi, những người lãnh đạo có hành động này với mục đích gì.  Ðã bần cùng hoá đời sống miền Bắc, đảo lộn cuộc sống miền Nam.  Có phải để tạo dựng một lớp tư bản mới nằm trong tay giới lãnh đạo và các cán bộ cao cấp của đảng, trong khi thành phần công nông vẫn đói khổ.  Hay vì con cái họ không phải đi lính, không chết trên chiến trường vì đã xuất dương du học hầu nối nghiệp ông cha sau này, nên không hiểu được sự đau khổ mất con.  Hay vì ở địa vị ăn trên ngồi trước, lên xe xuống ngựa, không biết tới củ khoai mẩu sắn nên không hiểu được cái đói khổ hàng ngày.
Ngoài số cải tạo miền Nam vào trại sau ngày 30/4/75, còn một số anh em biệt-kích, số còn lại là hình sự miền Bắc, có án từ 10 năm đến khổ sai trung thân, đa phần can tội cướp của giết người.
Kim và các bạn Khuân, Hướng, Lợi chuyển qua tổ đan mây tre.  Tổ đan gồm có 10 người, hầu hết là anh em Biệt-kích.  Ngày hai buổi anh và các bạn tổ đan rời khu O tới chỗ lao động.
Chỉ còn hơn tháng nữa là Tết Nguyên đán.  Tiết trời càng lạnh hơn.  Ðã mấy tuần không có lấy một chút nắng, bóng mặt trời chỉ còn là một vầng sáng mờ sau màn mây dầy đặc.  Cảnh vật trở lên ủ rũ, buồn nản.
Căn nhà tranh thấp nhỏ, không cánh cửa ra vào cũng như các khung cửa sổ trống trơn, nên không cản được những luồng gió lạnh lùa vào.  Anh em ngồi làm việc quanh đống lửa đốt bằng những khúc giang còn thừa.  Ngọn lửa bốc cao, hơi nóng làm rát mặt nhưng sau lưng vẫn lạnh buốt.
Kim chưa biết đan rổ rá nên lãnh phần chẻ lạt gói bánh chưng và đũa tre cho bếp cán bộ.  Số lượng yêu cầu thật nhiều, vì ngoài số cung cấp cho cơ quan, các cán bộ còn cần riêng cho gia đình. 
Sau nhiều ngày làm chung, anh càng kính phục anh em Biệt-kích.  Mặc dù đã trải qua bao nhiêu năm cùm xích kỷ-luật và kiên giam, hàng chục năm trời chỉ biết tới đói và rét, nhưng vẫn giữ được nghĩa khí của một quân nhân miền Nam.  Anh Luyện là sĩ quan cấp bậc cao nhất trong toán ở đây, được anh em kính trọng như con chim đầu đàn.  Anh kín đáo hòa nhã nhưng rất kỷ luật với chính mình.
Kim thường trò chuyện với anh trong giờ lao động, vì chỉ nơi đây mới có thể tâm sự, khi về phòng ai cũng cẩn trọng, nhất là trong một tập thể hỗn độn chen lẫn đám hình sự miền Bắc.
Ðược biết toán anh ra đây từ năm 65, anh đã ở miền Bắc 13 năm.  Có lần tâm sự…
Kim trả lời câu anh hỏi:
-"Khi anh nhẩy toán tôi đã về Bộ chỉ huy vùng 2."     
   -"Anh theo toán lập trại?"
-"Vâng, trôi nổi ở các trại An-Khê, Kannack, Thu-thủy lên Plateau GI Kon-tum sau đó mới về Pleiku."
-"Anh có nhận được thư của gia đình không?"
-"Sau hơn một năm bị bắt tôi có gặp nhà tôi và các cháu một lần ở trại Gia-rai Long-khánh.  Khi chuyển trại ra Bắc đến Nam-Hà tôi có nhận được thư nhà.  Theo thư viết, nhà tôi vẫi tin tôi đang bị giam tại trại Chí-hòa.  Còn anh, anh có liên lạc với gia đình không?"
-"Từ ngày đi đến bây giờ tôi không có tin của gia đình…"   
Kim hiểu, các anh Biệt kích thuộc thành phần mà cộng sản tận tình khai thác, được khoác danh hiệu là "gián điệp nằm vùng" cực kỳ nguy hiểm.  Các anh còn sống đến bây giờ qủa là điều may mắn.  Kim thông cảm với suy tư của các anh, dù sao gia đình vẫn là một nguồn an ủi, một  hy vọng để bám lấy mà sống.  Kim khó có thể nói ra những điều mình biết.
Thực tế các anh được ghi nhận là mất tích sau lần công-tác.  Một thời gian sau, gia đình được lãnh tiền tử tuất, người vợ trẻ được gọi là qủa phụ, đàn con dại trở thành cô nhi.  Tấm hình bán thân với gương mặt rạng rỡ, tươi cười được đóng khung đặt trên bàn thờ, những tấm huy chương gắn thẳng hàng trên mặt gối bọc mầu nhung đỏ.  Ngày các anh ra đi đã trở thành ngày tưởng nhớ, lệ đã thấm ướt nhiều tấm khăn xô.       Tháng ngày qua chỉ còn là kỷ niệm đau thương cho người ở lại.  Hơn chục năm qua các anh vẫn sống ở đây, như đang sống trong một thế giới riêng biệt mà mọi người tưởng chừng đã chết.  Kim tiếp lời:
-"Trước năm 75, khu cư-xá Lữ-Gia phát triển rất đẹp.  Nhà cửa khang trang hơn, đường xá mở rộng, không khí sầm uất rất nhiều.  Nhưng trước ngày miền Nam bị chiếm đoạt, Saì-gon trở thành tan hoang.  Mọi người ai nấy tìm đường thoát hiểm ra nước ngoài, khó mà lường được ai ở ai đi.  Và sau khi miền Nam mất hẳn vào tay cộng-sản, Sài-gon như mất hết sinh lực, quân Cán miền Nam đi cải tạo, gia đình trở thành chia ly tan tác."
-"Không hiểu nhà tôi và các cháu ra sao?"
Kim thoáng nhận ra nét ưu tư trên gương mặt anh.  Các anh cũng mong mỏi có một ngày trở lại khung cảnh cũ.  Liệu những gì đã thay đổi.  Cũng có thể người vợ trẻ lại một lần sang ngang vì mỏi mòn đợi chờ.   Còn những đứa con ngoan thơ dại ngày nào cũng có thể trở thành một thứ rác rến sống vật vờ bên lề xã hội. 
-"Chỉ trừ trường hợp chị và các cháu ra nước ngoài trước giờ Sài-gon mất, nếu còn ở lại tôi nghĩ chắc cũng chẳng ảnh hưởng gì vì anh xa nhà đã lâu.  Sau khi Sài-gon bị chiếm đoạt, những căn nhà chủ bỏ đi nước ngoài đều bị tịch thu, một số căn nhà có chủ nhà đi cải tạo thường bị chính quyền địa phương trưng dụng, lấy cớ người đi cải tạo có nợ máu với nhân dân.  Hoặc địa phương khuyến dụ thân nhân người đi cải tạo tới các vùng kinh tế mới, người cải tạo sẽ sớm được trở về đoàn tụ với gia đình.
Tại Sài-gon đã có nhiều gia đình gặp cảnh này.  Mẹ con bồng bế nhau tới các vùng Phước-Long, Ðồng-soài, Quảng-đức… nhưng chẳng được bao lâu phải trở lại Sài-gòn, vì chưa quen ruộng rẫy.  Nhất là vì không được chính quyền giúp đỡ như lời hứa hẹn trước khi đi."
Chiều 30 Tết được nghỉ lao động.  Gọi là bảo vệ truyền thống dân tộc, vui chơi 3 ngày Tết, mọi người được nghỉ thêm ngày mồng một và mồng hai.
Sáng ngày mồng 2 cả trại kéo lên núi trồng cây, gọi là "trồng cây nhớ Bác."  Nhân dịp Tết, mỗi người được phát 2 chiếc bánh chưng.  Một chiếc có chút thịt, chiếc kia vì hết thịt nên chỉ còn đậu.  Ðó là kết qủa cắt xén bữa ăn hàng ngày để cuối năm có chút “ăn tươi”. 
Mỗi ngày Kim theo toán đi lao động tại căn nhà tranh, anh mới có dịp nhìn thấy một phần quang cảnh trại.  Từ chỗ làm ra tới cổng gác là một sân rộng, hai bên có nhiều căn nhà nhỏ giam tù.  Một căn dùng làm trạm xá.  Các anh trong khu O chỉ khi đau ốm khai bệnh mới ra tới đây.
Ba ngày Tết, trại cho phép tù nhân được tự do đi lại trong vòng trại.  Kim nhớ khi tới đây, vượt hết con đường dốc chạy theo vách núi tới mặt bằng, đi qua khu cổng rào kẽm gai rồi vườn bắp cải rộng mênh mông mới tới khu cơ quan là chỗ anh xuống xe. Từ đây anh phải đi qua một quãng đường nữa mới tới cổng trong là khu giam tù. 
Kim và các bạn đi về phía sân vận động.  Con đường đất bụi mù vì đông người qua lại.  Pha trộn quần áo rách vá của tù với y phục mầu sắc rực rỡ của người Tầy.  Một chiếc cổng trào cao dựng lên ở đầu con đường rẽ vào sân vận động.  Trên nóc cổng có đặt một con chim bồ câu đứng giang cánh trên qủa cầu.
Ðấy là con chim gỗ do Nguyễn-Tiến-Ðạt khắc ở trại mộc mấy ngày trước đây. Khi đó anh em nói đùa là trông nó chẳng vui chút nào, dáng dấp nó thật buồn như mang tâm trạng tha hương của người điêu khắc, chứa đựng vẻ hờn tủi của người đã mất tự do, biểu tượng cuộc sống ngắn ngủi thê lương của những người cải tạo đang tới chốn đường cùng.
Tiếng súng vẫn vọng về từ biên giới.  Có cái gì lẫn lộn giữa chiến tranh với hòa bình, hay xã hội này đang ở vào thời điểm hòa bình trong chiến tranh, mà bóng chim bồ câu chỉ là hình thức ru ngủ vỗ về những người thiểu số.  Hay nó cũng giống như bức hình khổng lồ của Bác đứng chỉ tay về phía Bắc, mang ý nghĩa nhắc nhở nước anh em vĩ đại "không có gì qúy hơn Ðộc-Lập Tự-Do."  Thể hiện đúng ý nghĩa "Ðộc-Lập Tự-Do" trong vòng tay chặt chẽ của các nước anh em.
Phía trước là sân bóng, mọi người đứng xem đang cổ võ cho đội nhà.  Một trận đấu giao hữu giữa đội tù hình sự và đội cán bộ trại.  Khó có thể cân bằng lực lượng giữa thân hình béo tốt của cán bộ và hình hài trơ xương của đám tù, chưa kể một bên chân giầy một phía chân đất.
Dù sao cũng chỉ là một trận "giao hữu" ghi nét sinh hoạt vui tươi của ngày Tết.  Thay vì chứng kiến cảnh trọi trâu trọi gà như truyền thống, lại được thấy khung cảnh thân ái và lành mạnh giữa "người có quyền và kẻ bị trị."  Là dịp tốt cho đám cán bộ tập luyện chân cẳng, đá cả bóng lẫn người.  Còn về phía tù dù mang thương tích, thân mình ê ẩm chân cẳng chầy chụa, cũng được đền bù một phần ăn bồi dưỡng.
Tinh thần thể thao lên cao, mọi người cùng liên hoan ngày Tết.  Thể hiện tình nghĩa đồng bào dù chỉ trong khoảnh khắc.  Nhưng liệu có giảm được những trận đòn tàn nhẫn, hay phần ăn nặng tay cắt xén vào những ngày sau đó.
Ngày Tết qua đi thật nhanh, lao động trở lại bình thường.  Không còn chẻ lạt vót đũa, anh chuyển qua đan rổ rá cho bếp cơ quan.  Anh đã học đan long 2, long 3.  Những thân tre to thẳng được đập dập, rọc một đường theo vết nứt từ gốc đến ngọn.  Trải rộng thân tre, róc hết mắt và cạnh sắc hai bên.  Tùy theo cây tre dài hay ngắn, sẽ đan thành tấm phên che cửa sổ hay cửa ra vào.  Với những cây tre dài dùng đan những tấm mui xe.  Tấm phên tre được bẻ cong chụp lên phía sau xe, hai đầu gốc ngọn cắm vào hai bên thành xe.  Thật đơn giản, không cần xương đỡ mái.  Ðủ để che nắng, nhưng khó che mưa nhất là những cơn mưa nặng hạt, nếu không phủ ngoài bằng lớp giấy dầu.
Nhìn công việc mình làm, Kim có cảm tưởng anh đang tiến tới thời kỳ dân tộc mới lập quốc, không khác gì hoàn cảnh của những người vỡ bè trôi giạt vào đảo hoang.  Chỉ có một điểm khác là tâm tư họ mưu tìm một con đường sống, còn các anh chờ đợi cuộc đời tàn lụn theo thời gian.
Bầu trời đã sáng hơn những tuần qua, có lẽ từ ngày anh tới đây.  Những cuộn mây xám không còn đùn lên từng khóm, màn mây trắng đục như mỏng đi.  Ðã thấy lác đác những hạt mưa.  Mưa phùn đang điểm nhẹ xuống mặt đất gía lạnh.
Bây giờ đang vào Xuân, mưa giăng khắp bầu trời như màn lụa mỏng, Kim chợt nhớ đến cơn mưa phùn của Hà-nội.  Mưa nhẹ như những hạt bông, bám trên mái tóc mây óng ả, vương trên bờ vai thon nhỏ, lăn dài trên các tà áo mầu...Mưa không thấm ướt đôi má, không làm hoen mầu son trên môi, chỉ lấp lánh trên rèm mi như những hạt châu muôn sắc.  Mưa nhẹ đan nhau như tấm voan mềm rủ xuống mặt hồ, phủ mờ tháp rùa và những tàng cây xung quanh, tạo thành một bức tranh thủy mạc thiên nhiên mờ ảo.  Vừa mang nét cổ kính, vừa có vẻ thơ mộng hữu tình.
Mưa phùn đẹp thật, nhất là mưa phùn trên thành phố Tháp Rùa.  Anh không hiểu danh từ mưa phùn có từ bao giờ, diễn tả động tác nào.  Nhưng mưa phùn đã làm xanh các chồi nhánh, làm mơn mởn các đóa hoa đào, làm lòng thêm hứng khởi mỗi dịp xuân về.
Tất cả qua đi thật nhanh, chỉ gợi nhớ trong lòng anh những kỷ niệm xưa, nhưng cũng thêm chua xót cho cuộc đời còn lại.  Liệu anh còn cơ hội nhìn mưa trên thành phố Tháp Rùa. 
Giờ này vẫn là cơn mưa cũ, liệu người Hà-nội có tâm trí tận hưởng vẻ đẹp của cơn mưa như ngày xưa.  Hay họ cũng như anh trong lúc này, vẫn là cơn mưa phùn, dù mưa có nhẹ hạt, cái lạnh vẫn thấm sâu vào da.
Càng lạnh, anh càng hiểu thấm thía câu nói "bụng đói thì cật rét", chiếc dạ dầy trống trải không đủ hơi nóng giữ ấm con người, như bếp tro tàn vào ngày mưa bão.  Cái đói luôn hoành hành, gậm nhấm lớp thịt mỏng còn bám vào cơ thể anh, soi mòn dần khí lực.  Anh cảm thấy hơi thở mình nhẹ dần, đôi lúc thều thào như người vừa dứt cơn bệnh nặng.  Ðôi tay và cặp chân như không còn chịu sự điều khiển của trí óc, như muốn tách rời ra khỏi cơ thể.
Kim quay lại khi thấy có người vỗ nhẹ vào vai, anh nhận ra anh Ðông Biệt-kích.
-"Có gì không anh Ðông?"
-"Vào bếp lửa sưởi cho ấm.  Ngồi ngoài mưa lạnh lắm,  còn lâu mới tới giờ lao động."
Anh theo Ðông vào bếp.  Chính lúc này anh cần có bạn để vơi đi nỗi nhớ nhà.  Gọi là bếp nhưng chỉ là phần đầu hồi, được che phên ba mặt chừa lối vào phía trước.  Anh ngồi bên bếp lửa, hơi nóng làm dịu cái lạnh ngoài da.  Anh uống hớp nước nóng, hơi nóng lan nhanh xuống dạ dầy.
Ðông chợt hỏi:
-"Anh Kim có đói không?"
Nhìn Ðông, anh cười trả lời:
-"Chúng ta ăn để khỏi chết, có bao giờ được ăn no đâu mà chẳng đói.  Nhất là thời tiết vùng này, cái lạnh như thấm sâu vào dạ dầy, khuấy động cơn đói luôn luôn muốn trỗi dậy."
Ðông chỉ chiếc mũ sắt lật ngửa trên bếp lửa hồng, khói bốc nghi ngút từ dưới tấm lá chuối đậy phía trên, nói:
-"Tôi có nhặt một ít đầu sắn, nấu đã chín.  Anh ăn một chút không?"
-"Không có thứ gì ăn được mà lại từ chối, nhất là vào lúc này."
Ðông dở lớp lá chuối trên mặt, bên trong đầy đầu sắn với lớp vỏ ngoài mầu nâu.
-"Tôi chưa kịp lột vỏ, nhưng đã thay nước nấu hai lần, chắc không say đâu."
Kim đã nghe nói nhiều về sắn, nhất là tại các vùng rừng núi có trồng xoan và lim.  Chất độc nơi đầu củ sắn dễ làm say, vì vậy trước khi luộc cần bóc vỏ và chặt bỏ hai đầu.  Ngâm nước vài giờ trước khi luộc để chất độc thoát bớt ra ngoài.
Nước luộc sắn đã cạn, chỉ còn lấp xấp ngang mặt mấy que củi để dưới đáy.  Sắn được hong trên lửa nên khô ráo.  Kim cầm mẩu sắn bóc lớp vỏ ngoài, mẩu sắn chỉ lớn bằng ngón chân cái, nhưng nhai nghe thật bùi.  Anh cảm thấy ngon miệng, vị ngọt thấm dần, dằn bớt cơn đói đang quặn thắt dạ dầy.  Anh nhai hết phần bột, chậm rãi nhai cả phần xơ.  Chưa bao giờ anh thấy vị sắn ngon như lúc này, chất bột làm bụng anh đỡ cồn cào, vì mỗi sáng anh chỉ "điểm tâm" bằng lon nước lạnh.
Kim chợt nhớ đến gánh sắn bán rong tại công trường con rùa, cuối đường Duy-Tân, mà sau ngày Sài-gon bị chiếm, vợ chồng anh thường ghé gánh sắn sau mỗi lần mua hàng qua đây.  Sắn ủ nóng hổi trong nồi hấp, trắng muốt như những thỏi ngà.  Trên mỗi miếng sắn có phủ một ít dừa bào sợi, điểm một chút muối mè cho vừa miệng.  Miếng sắn có vị vừa ngọt vừa bùi pha một chút mằn mặn thật hấp dẫn.
Nhưng trong giây phút này, dù chỉ là mẩu đầu sắn vứt bỏ, lại không có cả muối mè lẫn dừa bào sợi, mà vị thật thơm ngon đậm đà.  Ngày trước anh ăn cho vui, nên không thấy gía trị của miếng ăn bằng lúc này.  Anh cảm thấy tỉnh người như vừa có thêm một liều thuốc bổ.
Kim gặp anh Công-Thành, một hạ-sĩ quan Biệt-kích, khi anh ra thăm anh em trong toán đang lao động tại căn nhà tranh.  Anh mới ở kiên giam ra, sau nhiều năm nằm trong phòng kỷ luật rồi kiên giam, nên người anh như mang bệnh nặng.  Khoác chiếc áo bành tô mầu vàng tía đã cũ, có lẽ còn lưu lại từ thời Pháp, anh ngồi yên lặng nhìn các bạn lao động.  Khi thấy trại Trưởng đi qua anh đứng dậy, hai tay vẫn ủ trong áo ấm.  Trại Trưởng dừng lại hỏi:
-"Anh Thành có khoẻ không.  Ra ngoài có dễ chịu hơn không?"
Anh Thành không trả lời câu hỏi, anh nói:
-"Xin Ban cho tôi trở lại phòng kỷ luật."
Trại Trưởng thoáng một chút ngạc nhiên trước lời yêu cầu của anh Thành, hắn hỏi anh:
-"Anh vừa mới ra ngoài sao lại đòi trở lại phòng kỷ luật."
Anh Thành điềm tĩnh trả lời:
-"Tôi không muốn nhìn thấy cảnh cưỡng bách lao động như thế này."
Vị Trại Trưởng như cố nén cơn giận, vì ở đây chưa ai dám coi thường biện pháp kỷ-luật, nhất là sự việc xẩy ra trước mặt tù nhân khác.  Hắn vẫn điềm đạm:    
-"Anh ở lâu ngày trong kỷ-luật, cần phải lao động.  Ra ngoài nắng gió mới có lợi cho sức khoẻ của anh."
Nghe câu trả lời của Trại Trưởng, một người ở địa vị cầm đầu một trại giam nổi danh là trại kỷ-luật số 1 của Bộ, sự tức giận vẫn không lộ ra ngoài.  Hắn qủa là người đáng sợ.  Còn anh Công-Thành vẫn đứng nguyên vị thế, vẫn giọng nói cương quyết:
-"Nhưng tôi không muốn ra ngoài, xin Ban cho tôi trở lại phòng kỷ-luật."
Kim ngạc nhiên trước câu trả lời của anh Công-Thành.  Anh đã coi thường kỷ luật tàn bạo của trại này. Anh đứng yên nhìn Trại Trưởng chờ đợi.  Trước khi đi Trại Trưởng bảo anh với giọng khô khan, không còn dịu dàng như trước:
-"Chiều anh gặp tôi giải quyết."
Anh em Biệt-kích bảo Kim là anh Thành vẫn vậy.  Ngay từ ngày bị bắt anh luôn luôn tỏ ra cứng cỏi, coi thường cái chết.  Trong sinh hoạt với anh em trong toán, anh là người điềm đạm trực tính, được cảm tình của nhiều người.  Sau khi bị bắt, anh đã trải qua nhiều nãm kỷ-luật và kiên giam.  Khi biết miền Nam bị mất, anh càng cýõng quyết không chịu khuất phục cộng-sản.
Công việc tổ đan ít dần, Kim và các bạn Nam-Hà trở về trại mộc khu O.  Anh chưa biết gì về nghề mộc nên công việc khá nặng nề.  Ðội Trưởng giao cho anh rọc gỗ, những phiến gỗ gõ dầy 15 phân dài một thước rưỡi.  Anh phải rọc thành những tấm ván mỏng dầy 1.50 phân theo chiều dài.  Ngày hai buổi anh cong lưng trên tấm ván với chiếc cưa tay nhỏ.  Bây giờ anh mới thấu hiểu thấm thía câu "nhất thổ nhì mộc."  Ở trại Nam-Hà anh đã thưởng thức món thứ nhất trong khu đầm lầy ngập nước, và bây giờ ở chốn Cổng Trời anh đang nếm món thứ hai.
Chiếc cưa tay lưỡi nhỏ như muốn quăn đi vì gỗ cứng.  Sau khi rọc thành ván anh phải bào nhẵn hai mặt.  Anh luôn bị đội trưởng hối thúc.  Hắn bảo anh lao động không đạt chỉ tiêu, nghỉ nhiều hơn làm.  Hắn nói nhiều lần khiến anh cũng bực mình nên bảo hắn anh làm theo sức, không thể làm hơn được.
Kim cũng hiểu hắn là một thứ tay sai cho cán bộ, luôn theo rõi hành động của anh em "cải tạo miền nam".  Hắn chứng tỏ làm được việc, để đổi lấy lòng ưu ái, một cơ may sớm trở về với gia đình, với xã hội bên ngoài.
Kim cảm sốt đã hai ngày, vẫn không được nghỉ lao động.  Hôm qua lên cơn sốt dữ hơn, anh không nuốt nổi phần ngô xay bữa ăn chiều mặc dù bụng thật đói.  Sáng nay anh không dậy nổi, sức lực như tiêu tan đi đâu mất, anh tới trạm xá từ sáng sớm.  Trại không có bác-sĩ, mà y-sĩ cũng vắng mặt thường xuyên, trạm y-tế giao cho một tù nhân miền Bắc làm y-tá.  Anh được phát 2 viên thuốc cảm, một thứ thuốc duy nhất trị bách bệnh của trại.  Anh không hiểu mức công hiệu của nó như thế nào, vì đó là loại thuốc có tên "thuốc dân tộc".  Hy vọng với cơ thể ốm yếu của anh, nhất là đã không dùng thuốc mạnh từ hồi vào tù, sẽ có hiệu nghiệm khi dùng thuốc.
Kim ngồi bên lò than đặt nơi đầu hồi sau phòng ngủ.  Anh tựa lưng vào vách tường đắp đất, duỗi thẳng hai chân.  Cơn sốt đêm qua vẫn chưa dứt, anh có cảm giác nóng bên trong mà lạnh ngoài da.  Chân tay rã rời như chỉ còn dính hờ vào cơ thể.
Trời vẫn ẩm mây, không có lấy một chút nắng.  Mới qua Tết được ít ngày nên tiết trời còn lạnh.  Mưa xuân đã đọng thành đá trên lá cây bắp cải sau mỗi đêm.  Chiếc áo mền mặc ngoài vẫn không làm anh ấm hơn.
Kim cho thêm nước lạnh vào phần ngô xay còn lại từ chiều hôm qua nấu thành cháo.  Ðội đi lao động đã lâu, anh làm vệ sinh phòng cũng không thấy mặt từ sáng.  Trong phòng chỉ còn Kim với anh Ngoan, một tù hình sự miền Bắc ở trại này đã lâu.  Anh Ngoan mới đau một tuần mà người trông thật tiều tụy, thân hình nhỏ nhắn của anh lúc này chỉ bằng đứa trẻ lên mười.  Anh Ngoan ngồi nhìn xoong cháo bắp để trên bếp lửa sôi đã lâu, bọt nổi lên như muốn trào ra ngoài.  Sắc mặt anh đã đổi sang mầu trắng bạch như không còn chút máu dưới làn da, hai mắt trũng sâu đờ đẫn không hồn.  Anh Ngoan khai bệnh mỗi ngày, nhưng cũng như Kim, chỉ được phát vài viên thuốc cảm dân tộc.  Thức ăn cũng không thay đổi, vẫn là bắp xay với ít miếng rau bắp cải luộc chấm muối.
Kim nhấc xoong cháo khỏi bếp lửa đặt trước mặt anh Ngoan và hỏi anh có cần gì không.  Vẫn không thấy trả lời.  Người Ngoan run lật bật, bất chợt đổ xuống co quắp.  Kim nhắc anh ngồi dậy tựa vào vách như trước, nhưng người anh Ngoan mềm nhũn, rũ xuống như tầu lá úa, chân tay buông rơi tự nhiên.  Kim nhìn kỹ vào đôi mắt, mắt mở nhưng đã lạc thần.  Anh Ngoan nấc lên từng cơn, chân tay lạnh dần.
Trong phòng không còn ai để giúp một tay.  Như phản ứng tự nhiên, Kim bế xốc Ngoan lên, thân hình anh nhẹ tênh, chỉ còn da bọc xương.  Kim cố gắng bước nhanh, nhiều lúc người Ngoan như muốn tụt xuống, vuột khỏi tay anh.  Kim phải xốc Ngoan lên nhiều lần trên đường tới trạm xá.  Vừa đi anh vừa gọi tên, như muốn trí óc Ngoan hoạt động, để phần hồn còn lưu lại nơi thân xác gía lạnh, đang tàn lụn dần như ngọn đèn dầu trước gió.
Tới trạm xá gặp anh Lượng y-tá, Kim chỉ kịp nói "anh Ngoan bị xỉu tại phòng."  Anh Lượng đỡ Ngoan vào căn trong, ngăn bằng tấm vải che nơi cửa ra vào.  Như vừa trút bỏ được gánh nặng, Kim cảm thấy chân tay rã rời, mồ hôi rịn trên trán.  Anh ngồi xuống chiếc giường gỗ nơi phòng ngoài đặt bên cửa ra vào thở dốc.  Bây giờ anh mới thấy mệt, anh đã tận sức vừa đi vừa chạy trên suốt quãng đường từ phòng tới đây.  Kim thấy chóng mặt, phải tựa lưng vào thành giường, cơn mệt làm sức lực anh tiêu tan.
Khi thấy Lượng, anh vội hỏi:
-"Anh Ngoan có sao không?"
-"Quá trễ rồi, dù anh có đưa tới trạm xá sớm hơn cũng thế thôi.  Anh ấy ốm đã lâu mà vẫn phải đi lao động. Bệnh không có gì quan trọng, chỉ suy dinh dưỡng.  Tôi đã xin Ban giám thị cho bồi dưỡng chút sữa bột mà không có,  bệnh trở thành nặng, không thuốc nào chữa được."
-"Anh Ngoan có cho gia đình hay tới thăm nuôi không?"
-" Ở hoàn cảnh xã hội bây giờ, gia đình còn thiếu thốn, kiếm ăn không ra, lấy gì thăm nuôi bồi dưỡng…"
Kim suy nghĩ về câu nói của anh y-tá.  Khẩu phần ăn của tù nhân trong trại đồng đều, một bát ngô xay mỗi bữa với một chén bắp cải luộc chấm muối vào ngày thâu hoạch.  Rau tươi, đậu hạt...tù trồng dành cho cán bộ xử dụng.  Tù nhân gia sức lao động tăng mức hoa mầu thâu hoạch, nhưng vẫn làm nhiều ăn ít. 
Nhìn lại chính mình, anh chỉ còn cân nặng bằng nửa lúc ra đi, mặc dù thời gian anh ở trong trại chưa thấm gì với những người đã tới đây trước anh.  Liệu anh và các bạn tù miền Nam kéo dài đời sống được bao lâu nữa.  Rồi cũng giống như anh Ngoan, như những người đã đi ra khỏi đây bằng ngả cửa sau, đường lên đồi Bà Then. 
Kim chắc chắn anh không thể kéo dài đời sống như đám hình sự ở đây.  Chúng phải kiếm ăn thêm trong giờ lao động, bẻ trộm vài trái bắp, lấy cắp mấy củ khoai để dằn bụng khi đói lòng.  Các anh không thể hành động như chúng dù có đói.  Chúng làm lơ cho nhau khi bắt gặp, nhưng không bỏ qua cho các anh.  Có người bắt trộm gà của cán bộ khi đi lao động, bóp chết mang về phòng.  Sợ mọi người phát hiện, đã xé thịt gà ăn sống trong màn vào lúc đêm khuya.  Chúng còn dám vào bếp cán bộ ăn vụng bánh chưng tại chỗ vào dịp Tết, bị đánh đập tàn nhẫn khi cán bộ bắt gặp. 
Cái đói làm chúng mất lương tri trở thành liều lĩnh bất chấp mọi hình phạt kỷ luật.  Khi vừa mới tới trại, các anh được thưởng thức vị thịt bò, mỗi người được chia một miếng thịt bằng 2 đốt ngón tay.  Đó là “công lao” của một tù hình sự phụ trách chăn bò.  Có lẽ quá thèm thịt nên hắn cắt nhượng chân sau con bò, hy vọng được ăn thịt.  Biết chắc con bò khó sống nổi nên trại cho làm thịt, mọi người được chia phần.  Về phần hắn, phải chấp nhận hình phạt.  Kim nhìn thấy 4 cán bộ mang hắn vào con đường nhỏ giữa khu kỷ luật và phòng giam của anh.  Bốn cán bộ quây hắn vào giữa, thay nhau đấm qua đá lại cho đến khi hắn nằm bất động dưới đất.
Ðể gia tăng lương thực, trại phát động trồng sắn.  Toàn đội khu O lên khu sườn núi đã phát quang.  Mỗi người được chia vùng lao động, chỉ tiêu buổi sáng là 35 hố, và buổi chiều ngắn giờ hơn nên rút xuống là 25 hố.  Hố phải đào sâu 90 phân, miệng hố vuông mỗi chiều 80 phân.
Kim lấy khúc xậy làm mức đo, anh dùng xà beng đục sâu theo lằn vẽ ô vuông miệng hố.  Ðất núi qúa cứng, toé lửa ở đầu xà-beng khi đụng đá.  Hai bàn tay anh đã sưng phòng, mọng nước.  Sức khoẻ anh qúa yếu, không theo kịp người khác.  Anh làm không đạt chỉ tiêu, nên bị cho là chây lười lao động.
Sau ngày 1 tháng 5, Kim và một số anh em miền Nam được ghi nhận là không thích ứng với nghề mộc, nên chuyển qua đội rau xanh.  Số anh em ở lại đều ái ngại cho những người rời khu O.  Dù sao làm mộc cũng không bị dầm mưa dãi nắng, có cực nhưng cũng không nhọc nhằn bằng gánh nước tưới rau, cuốc vườn làm rẫy trong khi thời tiết qúa khắc nghiệt.
Về phần Kim, anh nghĩ đi đâu cũng được.  Ðời sống anh đã không còn là của anh, không còn quyền lựa chọn hay từ chối, nhưng anh vẫn tin trong cái dở có cái hay.  Anh  được nhìn khung cảnh trời cao đất rộng, tầm mắt không bị hạn hẹp trong vòng tường cao.
Ðội rau xanh tập trung toàn hình sự trẻ, tuổi đa phần dưới 30, thường là tội trộm cắp, vì vậy sinh hoạt có phần thoải mái hơn trong khu O.  Ðội trưởng còn trẻ, tính tình dễ dãi, hắn vào tù mới hơn một năm.
Kim theo đội đi lao động, không phải xếp hàng điểm danh báo cáo như trại Nam-Hà.  Nhưng có một điểm khác biệt với những trại anh đã qua.  Mỗi ngày, sau bữa cơm chiều, vào giờ đóng cửa, mọi người phải xếp hàng trước cửa phòng.  Cán bộ trực trại và số cán bộ võ trang phụ trách đêm đó sẽ tới từng phòng điểm danh.  Tù nhân được kêu tên theo sổ trại có dán hình, từng người vào phòng trong khi đám cán bộ võ trang nhận diện.
Ðội rau xanh có hơn 40 người, phụ trách diện tích trồng hơn 10 mẫu tây, đa phần trồng bắp vì bắp là thực phẩm chính của trại.  Nhiều mẫu bắp đã có trái, vườn rau muống cao cả gang, cà bát đã trổ hoa, còn bí mướp bây giờ là lúc cần phải chăm bón.
Vườn bí ngô phải làm cỏ trước khi trồng cây mới.  Anh đã phải ngồi xổm dùng tay nhổ đám cỏ tranh mọc cao ngang đầu gối.  Phần đất anh phải nhổ cỏ nằm trong hai xải tay và dài 50 thước tới.  Hai bàn tay anh đã sưng phồng rớm máu khó lành nhiều ngày sau đó, vì công việc chăm bón cây trồng vẫn tiếp tục.    
Kim vào toán gánh nước tưới phân.  Phân bón hóa học rất hiếm, chỉ dùng để thúc cho cây mau lớn, trổ hoa sai trái.  Lần đầu tiên trong đời anh làm việc này.  Một ngày không biết bao nhiêu chuyến, anh gánh đôi thùng gánh nước múc đầy phân chuồng trong bể chứa, dòi bọ lúc nhúc trên mặt nước.  Anh phải làm quen với công việc dơ bẩn mà nông dân miền Bắc đang làm.
Lần đầu chưa quen, bước đi loạng choạng không vững,  đôi thùng đầy nước đong đưa theo mỗi bước chân, chiếc đòn gánh vừa nặng vừa rát bỏng đôi vai.  Sau khi tưới phân bón cho các luống rau, gốc bí, đội anh phải chia nhau nhổ cỏ các luống rau muống vừa tưới phân, giòi bọ còn bám đầy trên lá.  Rau muống vừa cao hơn gang tay, nhờ phân bón nên xanh muốt.  Anh và một tù hình sự phụ trách nhặt cỏ một luống rau dài 20 m.  Thấy cán bộ võ trang đứng xa không để ý, Cẩn nắm một nắm rau muống, lá rau còn dính phân chuồng, hắn vẩy nắm rau cho bớt phần nước phân bám trên lá rau, đưa vào miệng nhai.  Kim thấy giòng nước xanh nhễu ra khỏi mép, anh vội bảo hắn:
-“ Cháu không nên ăn như vậy.  Rất dễ bị bệnh.”
Cẩn chưa kịp trả lời vì nắm rau còn đầy trong miệng, lát sau hắn nói:
-“ Bác ạ, chết no còn hơn sống đói…”
Phân chuồng không đủ cho nhu cầu, trại cho chuyển tới nhiều xe phân trâu bò và đội phải trộn chung với phân người thành chất bón tổng hợp.  Sau giờ lao động, các anh để nguyên cả quần áo nhẩy xuống bể chứa nước tưới rau, hy vọng gột rửa phần nào chất bẩn bám vào.  Mặc dầu biết nước trong bể chứa chẳng sạch gì, vì dây bẩn do các thùng gánh tưới không phải chỉ dùng gánh nước.  Kim đã dùng cả nắm lá cây “ngải-cứu” xoa tay mà không hết mùi hôi.  Tay cầm ổ bánh mì phần ăn buổi trưa, anh nói đùa với bạn, mình đang dùng bữa tại quán “Bình Điền” Phú Lâm, phảng phất mùi “đồng quê”.
Tiếng súng từ phương Bắc vọng về ngày một dồn dập.  Thân nhân đám hình sự tới thăm cho hay, nhiều trận đánh đang xẩy ra nơi vùng biên giới.  Từ khu đất đội rau xanh phụ trách, một dẫy núi cao chắn tầm mắt của Kim.  Qua dẫy núi, bên kia là biên giới Hoa-Việt, khoảng cách chỉ hơn 10 cây số đường chim bay, không xa với tầm đạn bắn.
Ông Cục trưởng cục trại giam đến thăm trại thường hơn, quan sát kỹ vòng đai trại, nhất là phần đất hướng về phương Bắc.  Trại cho sửa lại con đường trải đá ngang 4 thước, chạy dài như một dây cung xuyên qua vòng đai trại, theo hướng Nam Bắc.  Khai quang hai bên đường cho rộng thêm, nhất là lấp đầy các hố chân trâu, ổ gà lồi lõm.  Con đường dự trù sẽ xử dụng cho những trận đánh tới.  Những họng súng đại pháo sẽ được kéo về đây, dễ dàng di chuyển trên con đường đá này để đối đầu với nước anh em thù nghịch, đã một thời là hậu phương lớn giúp nhu cầu để miền Bắc tiến chiếm miền Nam.
Những luống đậu đen đã chuyển mầu, hai người một luống đậu dài 3, 40 m, hai tay hái những tái đậu già bỏ vào gùi mang sau lưng.  Đây là hoa mầu thuộc bếp cán bộ.  Khi lên luống trồng khoai lang, Kim nói chuyện với Linh Mục Trần Công Định:
-“ Tôi có linh tính mình sắp rời trại này.”
-“ Sao anh nghĩ thế?”
-“ Không hiểu lần này thế nào, nhưng trước đây mỗi khi lên luống trồng khoai lang là tôi chuyển trại.”
Ðội Kim lao động ngày một tích cực, bắp đã thâu hoạch, phơi khô trên sân gạch, đóng vào bao, cất giữ cẩn thận trên bục cao trong nhà kho. 
Mỗi tối sau khi cửa khóa kín phía ngoài, căn phòng giam nhỏ chỉ chứa được một nửa nhân số đội, đã trở thành một thế giới riêng biệt.  Khung cảnh có chật chội nhưng thân mật hơn trong khu O, mặc dù hai hoàn cảnh tù đầy khác nhau.
Một buổi tối, Kim và anh Nguyễn-sĩ-Thuyên đang ngồi hút thuốc lào ở sàn nằm trên, chợt Cường đội trưởng tới, hắn cầm một bi-đông nước trà nóng hổi mời mọi người uống.  Trong câu chuyện hắn hỏi Kim:
-"Các Bác đi cải tạo lâu chưa?"
-"Cũng gần 3 năm."
-"Các Bác ở tỉnh nào trong Nam?"
-"Chúng tôi ở tại thành phố Sài-gon.  Anh đã vào trong Nam chưa?"
-"Trung đoàn cháu có vào Sai-gon sau ngày giải phóng miền Nam.  Khi giải ngũ cháu vào lần thứ hai để tìm cô cháu."
-"Cô anh ở nơi nào trong Nam."
     -"Cô cháu ở đường Lê-Lai Sài-gon, gần ga xe lửa.  Cháu ở chơi hơn một tháng mới về Bắc."
-"Cô anh vào Nam lâu chưa?"
-"Từ hồi di cư năm 1954.  Sau ngày giải-phóng, bác có ra Bắc lần nào không?"
-"Tôi cũng muốn xem lại mấy thành phố gần Hà-nội nơi tôi ở trước, nhưng chưa kịp đi thì bị bắt."
-"Hà-nội so với Sài-gon một trời một vực.  Cô cháu bảo Sài-gon bây giờ trăm phần còn một. Ấy chỉ một phần mà đã khác xa rồi, cháu tiếc không được thấy Sài-gon ngày trước."
-"Anh đã vào Sài-gon, anh thấy đời sống trong đó thế nào?"
-"Cháu không nói tới phương tiện vật chất như nhà cửa đường xá…nhưng Sài-gon có một cái mà Hà-nội không bao giờ có được là về tinh thần, nếp sống thật thoải mái.  Mặc dầu không phải là Sài-gon ngày xưa, nhưng sự tự do vẫn còn thể hiện trong sinh hoạt dân chúng.  Muốn làm gì thì làm, không sợ ai nhòm ngó."
Kim thấy hắn nhận xét khá chính xác, là người ít học nhưng tư tưởng như không bị lệ thuộc vào giáo điều học tập, chỉ nói lại những gì mắt thấy.
-"Tôi xa ngoài Bắc đã hơn 20 năm, không biết ngoài này thay đổi thế nào, Hà-nội bây giờ ra sao?"
-"Cháu còn nhỏ tuổi, không được biết tới Hà-nội ngày xưa trước khi di cư, nghe nói cho đến bây giờ sau mấy chục năm, đường xá không mở rộng, nhà cửa nhiều năm qua không tu sửa quét vôi, nên thành phố trông tăm tối."
-"Anh đã đi xem lăng Bác chưa, tôi chỉ được xem hình chụp."
-"Cháu chưa vào, chỉ nhìn từ ngoài đường thôi.  Tại Hà-nội chỉ có lăng Bác là công trình mới nhất và vĩ-đại nhất."
Khi xem tấm hình chụp lăng ông Hồ-chí-Minh, Kim ngạc nhiên tại sao người ta lại đặt một nhà mồ giữa trái tim thành phố.  Một cấu trúc góc cạnh thô cứng, mầu sắc ảm đạm lại chen giữa các công trình có đường nét nghệ thuật dịu dàng, chỉ lộ ra nét không tương xứng, thiếu hoà hợp trong toàn thể.  Người ta nói, khi sống ông Hồ là một cây cổ thụ mà bóng râm của nó làm ớm các cây non dưới gốc, và khi chết bóng ma vẫn còn ám ảnh những thế hệ sau.
-"Anh làm gì khi giải ngũ trở về?"
-"Sau khi giải ngũ tập thể, trung đoàn cháu bị xung công lao động trên tuyến đường sắt Thống nhất.  Khi hoàn thành chúng cháu mới được trở về nhà. 
Không nói bác cũng rõ, ở ngoài này tới tuổi nhập ngũ mà không đi trình diện gia đình gặp rất nhiều phiền phức.  Chưa kể chính quyền địa phương đề ra chiến dịch thi đua nhập ngũ để thống-nhất đất nước.  Cháu đi lính còn trẻ, chưa có nghề gì trong tay.  Khi trở về, nhà nước không cho công ăn việc làm, đời sống vô cùng khó khăn.  Cháu làm đủ nghề mà vẫn không đủ sống, vì vậy chúng cháu phải kiếm sống trên tuyến đường sắt."
-"Tại sao anh phải đi cải tạo?"
-"Nói ra bác đừng cười, vào đây nhiều khi cháu suy nghĩ về hành động đã làm, nhưng hoàn cảnh của chúng cháu không còn lối thoát nào hơn.  Vì đời sống khó khăn, chúng cháu có cướp giật radio, xách tay cuả cán bộ từ miền Nam về.  Thấy dễ kiếm ăn nhất là đồng tiền không do mồ hôi nước mắt mình làm ra, chúng cháu ăn tiêu xa phí, dần dần tìm cướp các món hàng gía trị hơn.  Lần chót cháu bị bắt tại khu vực gần Vinh."
Kim hiểu đây là một trở ngại lớn mà miền Bắc phải gánh chịu.  Số người không công ăn việc làm sau các đợt giải ngũ tập thể ngày một gia tăng.  Một mặt vì kinh-tế không phát triển, nguồn nhân lực khả dĩ phục hưng kinh tế lại tận dụng cho nhu cầu quân sự đánh phá miền Nam, mặt khác số bộ đội trẻ khi trở về không chấp nhận cuộc sống ở thôn quê.
-"Anh định làm gì sau khi được về?"
-"Cháu có nghĩ tới điểm này, nếu được về cháu sẽ vào Nam, hy vọng đời sống trong đó dễ chịu hơn.  Nhưng thực ra nghĩ chỉ để mà nghĩ, vì chưa biết ngày nào được về.  Bác biết "gấu đen" ở đội kế mình không, nó chỉ ăn trộm vặt mà 6 năm mới được về. Về chưa được một tháng nó lại trở vào đây, vì không công ăn việc làm, đi ăn trộm bị bắt lại.  Miền Bắc có rất nhiều trường hợp này xẩy ra."
Kim không hiểu đây có phải là một khuyết điểm lớn của xã hội cộng-sản về chính sách "học tập cải tạo."  Hay nhà nước cho những thành phần vào trại là những phế nhân.  Hầu hết các trại mà anh đã qua từ Nam ra Bắc, mang danh là học tập cải tạo nhưng chỉ nhai lại mấy bản nội quy, không có lấy một chút sinh hoạt nào gọi là học tập, giáo dục.  Hơn nữa số tù hình sự còn quá trẻ, với các tội phạm không mấy quan trọng, mà nhiều người có nhận xét, là tới 50% số gia đình tại Hà-nội có con em vào trại cải tạo vì can tội hình sự.  Thành phần phạm pháp có cả đám con ông cháu cha giầu có và thế lực.
Nhà nước không có chính sách tổ chức các lớp học huấn nghệ hay văn hoá tại các trại, hầu giúp cho tù nhân khi trở về có phương tiện sống.  Hậu quả của "chính sách thiếu giáo dục cải tạo" này, là tù nhân sau khi được tha không lâu lại trở lại nhà tù vì thiếu công ăn việc làm. 
Một khuyết điểm nữa, hay đó cũng nằm trong chính sách "tóm dạ dầy", là nhu cầu vật chất tối thiểu không được đáp ứng, tù nhân luôn luôn đối diện với cái đói trước mắt, do đó khó tránh được hành động trộm cắp ngay tại trong trại.  Vì vậy, chính sách "học tập cải tạo" đã không thể hiện được tính chất như tên gọi, mà trái lại, các trại cải tạo đã là nơi đào tạo "tay nghề bất lương" vững chắc hơn.
Ðây không phải là lần đầu tiên anh nghe thấy những chuyện về chính sách "mang con bỏ chợ" của nhà nước.  Khi mở rộng trận chiến quấy phá miền nam, cùng lúc tăng cường lực lượng tại Lào và Mên, trừ thành phần "con ông cháu cha" có gốc Ðảng đặc cách miễn dịch, còn hầu hết thanh niên nam nữ miền Bắc phải nhập ngũ.  Và ngay sau khi chiếm trọn miền Nam, khi mặt trận Campuchia còn nóng bỏng, thanh thiếu niên miền Nam đã phải thi hành "nghiã vụ" để trám vào quân số hao hụt tại đây, như chuyện cô  em vợ anh…  
*
___________

Chú thích
Trại Quyết Tiến (Cổng Trời)  
     
Trại Quyết Tiến nằm trong địa phận xã Quyết Tiến, một xã thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.
Xã Quyết Tiến:

Bắc giáp xã Tùng Vải (thị trấn Tam Sơn).  Đông giáp xã Quản Bạ, xã Đông Hà và xã Thuận Hòa (Vị Xuyên).  Nam giáp xã Thuận Hòa (Vị Xuyên) và Minh Tân.  Tây giáp xã Minh Tân.  Diện tích:  60Km2.  

Tọa độ:    23o 00’ 16” B   -  
   104o 58’  01” Đ  

Huyện Quản Bạ:
Nằm về phía Bắc tỉnh Hà Giang.  Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam (TQ).  Phía Nam giáp Vị Xuyên.  Phía Đông giáp huyện Yên Minh.    Diện tích: 550Km2.

Tỉnh Hà Giang:
 Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng.  Phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai.  Phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang.  Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (TQ).    
Tọa độ: 22o 10’ đến 23o 30’ vĩ độ Bắc và 104o 20’ đến 105o 34’ kinh độ Đông.
Diện tích toàn tỉnh: 7.884, 37Km2.  Với các quốc lộ chính: QL 2,  QL 34, QL 4C, QL 279. Với 2  sông: sông Lô và sông Gầm.  Hà Giang là
tỉnh miền núi, có ngọn Tây Côn Lĩnh cao 2.418m.  Độ cao trung bình khoảng 800m so với mặt nước biển.

Sơ đồ trại Quyết Tiến    (Xin đón nhận sự góp ý để hoàn chỉnh sơ đồ trại Quyết Tiến)


*

11.
Chính-nghĩa
 Sau ngày đất nước thống nhất, mở đầu một nền độc lập toàn diện, Kim mới hiểu thế nào là nỗi lo sợ mỗi khi có tiếng gõ cửa, dù bất kể là ngày hay đêm.  Không giống tiếng gõ cửa trước đây, dù của người lạ mặt tới thăm, cũng mang đến những giây phút vui cho chủ nhà.
Anh đang mải miết tu sửa mấy món hàng vừa mua để kịp bán vào buổi chợ ngày mai, chợt nghe tiếng vòng xích quấn quanh hai cánh cổng sắt khua vang.  Anh nhìn ra cửa, một cô mặc quần áo bộ đội đầu đội nón cối đứng đợi.  Tim anh đập mạnh, tự hỏi không hiểu có gì xẩy ra đây.  Anh vẫn ngán những hình ảnh "áo vàng nón cối", biểu tượng của pháp lệnh nhà nước, hay những khuôn mặt chưa quen tới thăm.  Chiếc nón cối đã lấy ra khỏi đầu, để lộ khuôn mặt thật trẻ.  Anh chưa gặp cô lần nào, không biết cô tới có việc gì.  Anh quả như cá nằm trong giọ, nơm nớp lo sợ mỗi lần ngư phủ mở hom.  Anh quay ra bảo vợ:
-"Có cô bộ đội ngoài cửa, em xem có chuyện gì không?"
Vợ anh đứng dậy, trả lời:
-"Ðể em ra xem."
Nàng bước nhanh ra cửa, hai người trao đổi nhau những gì anh nghe không rõ.  Nàng mở cửa, cô bộ đội bước vào sân, anh tự nhủ hẳn có chuyện gì đây.  Vợ anh đang quấn vòng xích cửa, nàng nói vọng vào:
-"Con cậu Năm ở quê đó anh."
Kim thở phào như vừa trút được gánh nặng.  Kể từ ngày gọi là "giải phóng miền Nam", anh thường trải qua những giây phút đứng tim như thế này.  Nhà nước đã thay đổi hành động trong câu nói, không còn là "lá lành đùm lá rách," là "tình nghĩa đồng bào," là "tình anh em ruột thịt."  Nhà nước bảo các anh, những người bảo vệ mảnh đất tự do miền Nam trước đây, có nợ máu với nhân dân.  Anh hiểu vì mang nợ, nên họ có thể đến đòi bất cứ lúc nào.  Nhiều lần anh tự hỏi, tại sao lại có món nợ, một áp đặt vô lý như thế này, và nhà nước trả lời, đó là chính- nghĩa.  Anh đã hiểu và nhận ra đó là thứ "chính-nghĩa của kẻ có bạo lực."
Cô đã bước lên thềm nhà, Kim đứng dậy chờ:
-"Chào anh."
Kim thường nghe vợ anh nói cậu năm có người con gái duy nhất trong gia đình, cô là út, cũng đi bộ đội.  Mấy tháng trước, anh đã gặp người anh của cô, được giải ngũ vì mang bệnh nặng, không còn khả năng phục vụ trong quân đội, và bây giờ gặp cô em.
-"Chào cô."
Vợ anh lên tiếng hỏi cô:
-"Em tới đây lâu chưa mà bây giờ mới tới tìm anh chị?"
-"Ðã gần tháng nay.  Sở dĩ hôm nay mới tới thăm anh chị và các cháu vì em phải nằm bệnh viện Sài-gon.  Hôm nay đã khá, em xin xuất viện, nên mới tới thăm anh chị."
Vợ anh kéo cô ngồi xuống ghế cạnh nàng, rót nước cô uống, nàng hỏi tiếp:
-"Em làm sao phải vào bệnh viện, trông em còn xanh lắm, chưa khoẻ hẳn đâu."
-"Em bị thương trong trận phục kích tại Campuchia.  Em may mắn chỉ bị thương.  Bệnh viện bên đó không đủ phương tiện nên chuyển em về đây điều trị."
-"Em bị thương có nguy hiểm không, tình trạng sức khoẻ của em hiện giờ ra sao?"
-"Em bị mảnh vào bụng, phải giải phẫu.  Trong khi giải phẫu em bị nhiễm trùng, vì vậy vết thương trở thành nguy hiểm.  Bác sĩ bệnh viện Sài-gon cho hay em không còn khả năng chiến đấu, nên đợi ngày giải ngũ."
-"Em xuất viện rồi hiện giờ ở đâu?"
-"Bác sĩ bảo em còn yếu, nhưng bệnh viện rất thiếu thốn nên em xin xuất viện, và hiện giờ em đang ở hậu cứ.  Ðợi sức khoẻ khá một chút em sẽ về quê."
-"Ngoài nhà cậu mợ đã hay em bị thương chưa?"
-"Em sợ bố mẹ em lo lắng, nên khi về đây em chỉ báo cho nhà hay em bị bệnh, nên vào điều trị tại bệnh viện Sài-gon."
-"Em viết thư về cho nhà hay đi.  Hay để chị viết thư về cho cậu mợ.  Còn về phần em, chị nghĩ em đến ở với anh chị và các cháu cho vui.  Về hậu cứ cũng phức tạp, nhất là không có ai săn sóc.  Em còn phải đi tái khám không?"
-"Em phải trở lại bệnh viện sau một tháng, nhưng em ở đây chỉ sợ làm phiền anh chị."
-"Cũng chẳng có gì là phiền.  Chỉ có điều anh chị không thể chu tất cho em như trước đây.  Chỗ nằm em không lo, có phòng riêng cho em.  Còn ăn uống, nhà có gì ăn nấy, em đừng quan tâm.  Ðiều cần nhất là em phải dưỡng sức cho chóng khỏe lại."  
-"Ðược ở với anh chị và các cháu là em vui lắm rồi.  Em chỉ sợ sẽ là gánh nặng cho anh chị thôi."
-"Em cứ yên tâm ở đây.  Chị sẽ viết thư để cậu mợ hay là em ở đây với anh chị."
-"Vậy chị viết thư cho bố mẹ em biết, nhà sẽ yên tâm hơn khi em ở với anh chị."   
Vợ anh đứng dậy đi lo chỗ nằn cho cô em, còn lại Kim với cô, anh hỏi:
-"Em có nhận được thư của anh cả em không.  Khi vào đây cậu ấy yếu lắm, không hiểu hiện giờ sức khoẻ ra sao?"
-"Như anh biết sau Tết Mậu Thân, vì tấn công toàn diện miền Nam, quân số thiệt hại quá nặng, việc gọi nhập ngũ rất gắt gao.  Sẵn người ốm yếu, lại vất vả khi vượt đường mòn Hồ-chí-Minh, nên vào đến trong Nam anh em ngã bệnh.  Tới mùa hè đỏ lửa, anh em bị thương nhưng không được về nhà vì đơn vị tiếp tục đánh phá miền Nam.  Nhà cũng bặt tin anh em , tưởng anh đã tử trận.  Sau khi chiếm xong miền Nam, gia đình nhận được thư mới hay anh em bị bệnh phổi nặng."
Kim nhớ khi cậu ở đây chơi với gia đình anh, bệnh ho của cậu khá nặng, anh đưa đi bác-sĩ tư được biết cậu phải điều trị lâu ngày, và không được làm việc nặng nhọc.  Bây giờ trở về, cậu không giúp ích được gia đình mà còn là một gánh nặng cho mọi người.
-"Anh không hiểu tại sao em phải nhập ngũ.  Vừa là gái lại là con út trong gia đình có cha mẹ già yếu, hơn nữa đã có anh đi bộ đội?"
-"Những năm sau mùa hè đỏ lửa, nhà nước như muốn dốc toàn lực mong chiếm cho được miền Nam, nên tình trạng gọi nghĩa vụ ráo riết hơn.  Số thanh niên tại mỗi địa phương phải đạt con số do trung ương đề ra.  Lúc đầu em cũng không chịu đi trình diện vì bố mẹ em gìa yếu.  Bố em lại đau ốm luôn, nhà không có ai săn sóc.  Họ tới thúc dục hàng ngày em cũng không đi, sau đó em phải đi vì họ dọa cắt nhu yếu phẩm của gia đình."
-"Em có được huấn luyện kỹ càng trước khi vào Nam không?"
-"Chúng em được huấn luyện cấp tốc, gọi là biết xử dụng súng cá nhân, hy vọng sẽ học hỏi thêm trong thực tế."
-"Anh không hiểu sao những ngày đầu bộ đội vào đây, mọi người đều nói một cách thiếu thành thực về đời sống tại miền Bắc như nhà cao tầng, đời sống kỹ thuật cao…"
-"Ðấy là những đợt học tập trước, mọi người phải nói tốt nói hay cho xã-hội chủ-nghĩa.  Ðợt em đi đã cận ngày, với những thành qủa chiến thắng, chúng em được học tập lại, là khi vào miền Nam hãy nói đúng nói thật với người miền Nam về đời sống thiếu thốn của miền Bắc.  Học tập còn nhấn mạnh:  chúng ta có đói, có khổ, có thiếu thốn vật chất thật nhưng chúng ta là kẻ chiến thắng.  Vì vậy anh không khỏi ngạc nhiên, chỉ một thời gian ngắn mà hai câu nói mâu thuẫn nhau."
Vợ anh trở lại bàn, nàng hỏi cô em:
-"Em có ý định gì sau khi giải ngũ.  Ở lại miền Nam hay trở về quê?"
-"Em rất muốn ở lại trong này, nhưng một điều làm em suy nghĩ là nơi đây em chỉ có chị là người thân, sức khoẻ của em chưa biết thế nào.  Tình trạng kinh tế của anh chị hiện giờ cũng không khá gì, nếu em ở lại chỉ làm khổ anh chị thêm."
-"Theo chị nghĩ, tình trạng đói khổ là chung cho cả nước, dù sao ở lại đây đời sống vẫn dễ chịu hơn.  Miền Nam bị xụp đổ, nhưng tinh thần vẫn là miền Nam cũ, khó có thể tẩy xóa được ý tưởng tự-do.  Còn nếu em về Bắc thì sao?"
-"Nếu không ở lại đây được trước sau gì em cũng phải về quê. Chưa về quê nên chị chưa hiểu được đời sống khổ cực như thế nào.  Một việc làm duy nhất là trở lại với ruộng vườn.  Em không quản ngại vất vả, vì em cơ cực từ khi còn bé, đã biết chan bát cơm bằng những giọt mồ hôi.  Vào tuổi còn đi học,em đã phải tham gia thi đua sản xuất.  Nhưng với bệnh trạng, sức khoẻ của em hiện giờ, trở lại với công việc cực nhọc cũ, liệu em sẽ còn sống được bao lâu nữa.  Hay cũng giống như anh cả em, dù bệnh nặng vẫn phải lao động, vì trước mắt cần phải có miếng ăn để sống."
Kim thấy vợ anh bùi ngùi, như xúc động mạnh trước hoàn cảnh đáng thương của người em họ, giọng nàng bỗng trầm xuống như an ủi, vỗ về:
-"Em hãy quên chuyện ở hay về, lúc này em cần phải dưỡng bệnh.  Anh chị có thể lo cho em được, chuyện gì sau này sẽ tính."
Kim không ngờ đời sống người dân miền Bắc xuống đến thế, nhất là quê vợ anh, một huyện sát cạnh Hà-nội nổi tiếng là giầu có.  Anh nhớ trong bữa ăn tiếp người anh họ vào thăm, anh ấy nói:  "dân Hà-nội chứng nào tật ấy, vẫn khoái ăn sang…" Kim đã châm lời:  "chả cứ gì dân Hà-nội, dân nào mà chẳng thích ăn sang."  Người anh họ bỗng cười lớn, Kim tưởng anh ấy đồng ý với câu nói của mình, nhưng anh ấy bỗng đổi giọng: "Tôi có nói dân Hà-nội thích ăn sang đâu, mà bảo họ khoái ăn sang là sáng ăn khoai đấy chứ…" Mấy tháng trước nghe câu nói đó, và bây giờ biết hoàn cảnh này.  Vậy nhà nước có ý-định gì khi đưa ra chính sách "sẽ đưa miền Nam tiến mau, tiến mạnh, tiến kịp với miền Bắc xã-hội chủ-nghĩa."


*

12.
Hậu phương lớn.
(Nước anh em phương Bắc)

Tiếng súng vẫn dồn dập vọng về ngày nghe một rõ.  Nhiều nhân vật lạ viếng thăm trại.  Con đường đá vẫn là mục tiêu tu sửa, coi đó như địa bàn hoạt động một khi quân đội phương Bắc tràn xuống.
Hàng loạt trận đánh xẩy ra tại các tỉnh vùng biên giới, nhất là tại các cửa khẩu. Thân nhân đám hình sự tới cho hay, quân đội Trung-hoa dàn cả chục sư đoàn chính quy, họ pháo kích, tràn qua các quận ven biên cướp của giết người. Lực lượng đồn trú tại Hà giang đã đưa lên nhiều sư đoàn chủ lực, hầu chặn đứng mũi dùi nam tiến cuả quân đội Trung-Hoa.

Không khí trại có cái gì bất thường, đám cán bộ đang lo an nguy của họ và gia đình tại các Bản làng một khi chiến sự lan tới.
Công việc của đội rau xanh vẫn gia tăng, đã vào thời gian thâu hoạch hoa mầu, cất giữ lương thực cho qua mùa đông sắp tới.  Những trái bí đỏ lớn hơn vòng tay phải hai người khiêng, được bôi vôi giữ giống cho mùa năm sau. Những ruộng ngô đã khô lá, bạt ngàn len vào tận chân núi phía xa.  Trái bắp khô cứng muốn tách ra khỏi thân cây, thõng xuống như không còn sự sống. 
Nói là mùa thâu hoạch, cây nhà lá vườn, no nhà bếp nhưng khẩu phần ăn của tù vẫn nằm trong tiêu chuẩn 11 ký chất bột khiêm nhượng cho mỗi tháng.  Cái đói vẫn gậm nhấm, khiến thân tù ngày càng còm cõi, hom hem.
Tin anh Khoan, một biệt kích trốn trại làm Kin xửng xốt.  Anh ở trại này đã lâu, hy vọng tình hình nơi biên giới bất ổn anh có thể vượt thoát dễ dàng.  Nhưng anh bị bắt lại khi qua hết vòng rào trại.
Dám cán bộ mang anh vào con ngõ cụt trước cửa phòng Kim, chỉ cách một bức tường cao.  Bốn cán bộ trẻ lực lưỡng đứng 4 góc, anh như cái mốc ở giữa.  Chúng thi nhau đấm qua đá lại, mặt hầm hầm thù hận, không còn vẻ dịu dàng thân thiết thường thấy hàng ngày. 
Anh cuộn tròn dưới đất, lăn lóc như trái banh da, máu đã nhuộm đỏ khuôn mặt, đọng từng vũng trên mặt đất.  Không còn một tiếng rên dù chỉ là hơi gió.  Thân thể anh rũ liệt như không còn nuối tiếc sự sống.  Chúng ngừng tay khi thấy anh nằm bất động.  Ðám cán bộ kéo anh vào phòng kỷ-luật, quẳng anh trên nền đá lạnh, chẳng màng tới anh còn sống hay đã chết, phủi tay như một việc thường làm.
Anh phải nhận lãnh hình phạt, vì làm trái quy luật trại, đã đi sai đường.  Thay vì anh phải ra khỏi đây bằng lối sau, đường lên đồi Bà Then như nhiều người trước đã làm, anh đã cưỡng lại tự ý đi theo lối ra cửa trước.
Ðội vẫn lao động, nhưng tinh thần anh em cải tạo miền Nam giao động khi hay tin quân đội Trung-hoa vượt qua biên giới, đánh phá tỉnh Lào-Cay.  Phá trại cải tạo và khi rút mang theo một số anh em cải tạo miền Nam.  Ðó có phải là tin vui hay vẫn là mối lo, vì dù sao vẫn còn nằm trong tay người cộng-sản.
Chuyện anh Khoan trốn trại vẫn còn nóng hổi lại xẩy ra vụ anh Chấn, một tù hình sự miền Bắc trốn thoát.  Anh ở đã lâu trong tù, thuộc diện tự giác.  Ðược cán bộ tin, thường giao cho anh lên huyện Quản Bạ mua các thứ hàng cần thiết cho trại.  Nhân lúc biên giới bất ổn, gia đình anh đã dàn xếp cho anh vượt biên giới một khi anh tới huyện.
Anh đã vượt thoát an toàn và lên đài phát thanh địa phương của Trung-hoa, tố cáo hành động vô nhân đạo của cộng sản miền Bắc tại trại Quyết-tiến và một số trại cải tạo khác.  Kỷ luật trại xiết chặt hơn, như để tránh những cuộc trốn trại khác xẩy ra.
Bẵng đi ít ngày yên lặng, đột nhiên tiếng súng lại dồn dập vọng về.  Như sát tận bên, như đã vượt qua rặng núi phía bắc.  Không hiểu quân đội Trung-hoa có xử dụng loại hỏa tiễn 122 ly, thứ võ khí mà cộng sản miền Bắc thường dùng tại chiến trường miền Nam do Trung-hoa viện trợ.  Hy vọng họ có dàn phóng thứ thiệt, có thời gian điều chỉnh mục tiêu tác xạ, không giống như bộ đội Bắc Việt vì phương tiện di chuyển thiếu thốn, không xử dụng đúng theo nhu cầu kỹ thuật, nên trái đạn đã bay tự do vào khu dân cư đông đúc.  Gây ra nhiều cảnh chết chóc tang thương cho nhân dân miền Nam.
Bây giờ là tháng 8.  Ánh nắng ban ngày vẫn chói chang, nhưng về đêm trời đã lạnh.  Kim đã ớn mùa lạnh năm trước, nhưng chẳng biết làm sao chống lại cái rét của mùa đông năm nay. 
Công việc thâu hoạch vẫn tiến hành, như chẳng có gì biến chuyển trong sinh hoạt hàng ngày của trại.  Tù nhân vẫn cực nhọc, đổi mồ hôi lấy bát ngô xay.  Chỉ tiêu lao động đặt ra cao hơn trước, như muốn vét cạn sức người.
Số anh em Biệt-kích ở trại Tuyên-quang đã chuyển về Quyết-tiến, như muốn gom họ vào một chỗ.  Hơn 40 người ở căn phòng nhỏ gần đội rau xanh.
Vào một buổi trưa, đội trưởng cho anh em cải tạo miền Nam trong đội hay, các anh được nghỉ buổi chiều để nghe cán bộ sinh hoạt.  Kim hỏi nhỏ đội trưởng, hắn cho hay "…các bác sẽ di chuyển về miền xuôi…"  Anh ngạc nhiên về câu nói này, các anh mới chân ướt chân ráo tới đây, nhất là cán bộ trại Nam-Hà đến Quyết-tiến đã nói, đây là chỗ dừng chân cuối cùng, là nơi an nghỉ của các anh sau này. 
Chưa có một dấu hiệu gì mở đầu cho sự thay đổi, mặc dầu đó là điều anh em luôn mong đợi.  Kim hỏi hắn thêm "Anh có biết chúng tôi di chuyển tới trại nào không?"  Có lẽ hắn chẳng biết gì nhiều, vì người Cộng-sản vốn bí mật.  Hắn nói "Cháu không rõ tỉnh nào, chỉ nghe cán bộ nói là Lam-sơn".  Không ai biết Lam-sơn ở đâu, chắc không phải vùng này.  Nơi đây đã là vùng sát biên giới, chính đám hình sự ở đây lâu cũng không biết tới tên này.  Kim nhớ đội trưởng nói các anh sẽ về miền xuôi, lại càng khó hiểu.  Nhưng dù sao cũng là một tin vui.  Ði đâu cũng là nhà tù, cũng hứa hẹn vắt kiệt mồ hôi, cũng là nơi an nghỉ sau cùng.
Anh em tập trung lên phòng hội, cả số anh em miền Nam trong khu O cũng có mặt.  Vẫn căn phòng anh vào khi tới đây, vẫn cán bộ giáo dục là thiếu úy Tố mà anh đã không thấy hắn gần một năm nay. 
Bốn mươi tám người chia nhau chỗ ngồi.  Cán bộ Tố đứng sau chiếc bàn trên bục gỗ cao.  Vẫn lời giáo đầu thường lệ, dao to búa lớn ca tụng chủ nghĩa xã-hội và tình thắm thiết giữa các nước anh em.  Vẫn lời nói dằn mặt những người trước mặt, nghe đã nhiều lần.
Kim chăm chú theo rõi, mong hắn bật mí một chút về tình hình vùng biên giới, về tình trạng quân đội Trung-hoa tràn xuống Lào-cai như tin đồn. Hay ít nhất, như mọi lần có lời dằn mặt anh em về hành vi trốn trại.
Nhưng không, hắn chỉ nói một câu thông thường, mà vào giờ phút này đối với Kim và 47 anh em có mặt nơi đây, lại cho câu nói của hắn có gía trị:  ". . . Ðể thuận lợi cho việc cải tạo, trại quyết định đưa các các anh về miền xuôi, nơi đó khí hậu ôn hòa có lợi cho sức khỏe của các anh hơn…"
Vẫn câu nói sặc mùi cộng-sản mà anh đã nghe từ buổi đầu vào trại.  "…các anh có nợ máu với nhân dân, được nhà nước khoan hồng…" không giết được thì tha làm phúc.  Cũng vẫn câu nói mở đầu nhân đạo "Ðể thuận lợi".
Hơn 8 tháng về trước, để thuận lợi cho việc cải tạo, trại Nam-Hà theo lệnh của Bộ, đã đưa các anh tới vùng rừng thiêng nước độc, khỉ ho cò gáy này, và bây giờ vì tốt cho sức khỏe lại đưa về miền xuôi.  Không hiểu trong thời gian sắp tới đây, sẽ còn những thuận lợi nào cho việc cải tạo xẩy ra nữa không.  Số hình sự trong phòng Kim được chuyển qua phòng bên, nhường lại phòng này cho anh em cải tạo miền Nam.
Mọi người chờ đợi từ sáng sớm. Bốn mươi tám người từng cặp tay sát tay bên chiếc còng số 8 lên chiếc xe chở khách.  Còn anh em biệt-kích lên một xe chở hàng, bạt sau hạ xuống kín như bưng.  Kim nhìn thấy sự khác biệt, các anh biệt-kích được "ưu đãi" hơn, hay nhà nước nghĩ các anh “sợ ánh sáng”, nên nhét vào xe bít bùng.
Theo lệnh 10 giờ sáng xe chuyển bánh.

Hơn 8 tháng trước, Kim và các bạn tới đây vào lúc 9 giờ đêm ngày 24 tháng 12.  Khi đó trời đã tối hẳn, bóng trăng không đủ soi sáng mặt đường.  Anh không thấy gì ngoài hình bóng mờ mờ của vườn bắp cải. 
Anh đã bước chân vào bóng tối âm u.  Khi cánh cổng khép lại phía sau lưng, anh có cảm tưởng sẽ không còn cơ hội trở lại vùng ánh sáng của xã hội loài người.  Anh như con cá nằm trong lưới, không còn được vùng vẫy chốn biển khơi, nơi sông dài hồ rộng.  Anh không còn cơ hội thoát khỏi màng lưới núi rừng trùng điệp bao quanh.  Hay nếu có, cũng gục ngã trên các sườn núi thẳng đứng mà phía dưới là vực sâu, như những người đã làm trước đây.
Anh đã tự nhủ, phải gác bỏ những toan tính kể cả ước vọng tương lai, như cán bộ giáo dục đã nói vào buổi đầu.  Anh phải an tâm cải tạo, không để tâm tư bị khuấy động bởi nhừng hình ảnh vàng son trong dĩ vãng, vì đó chỉ là phồn vinh giả tạo.  Anh phải gạt bỏ cả thứ tình cảm quyến luyến gia đình.  Anh phải quên tất cả, sống bình lặng như cỏ cây, để làm quen với nếp sống mới.
Anh phải bắt chước lối sống của những người trong phong trào trăm hoa đua nở, được nhà nước ưu ái cho lên Sơn-La nuôi ong lấy mật, hay vào rừng sâu khai phá đất trồng.  Anh hãy sống như Từ Thức lọt vào cõi tiên, rồi khi bừng tỉnh cơn mộng trở về, cuộc sống đã hoàn toàn thay đổi.
Nhiều lúc bản năng sinh tồn vùng dậy, tình cảm yêu thương gia-đình bừng cháy, anh mong muốn có bước chân thật dài để thoát khỏi nơi tận cùng của kiếp người ở đây, như anh và các bạn đã rắp tâm làm nhiều lần khi còn ở miền Nam.  Nhưng sức anh yếu quá, liệu có thể vượt chạy được vài trăm thước không.  Rồi hệ thống công-an nhân dân phía dưới kia, liệu anh có thể hòa nhập với họ, những người đã quen với lối sống trong xã hội cộng-sản, mà tình cảm trở thành hạn hẹp.  Sự khác biệt về lối sống, tác phong, hình thức của anh sẽ làm anh không giống họ, mặc dù anh đã sinh ra tại miền Bắc và lớn lên ở đây.
Liệu họ có bao che cho anh không, hay vì lon gạo cân mì thưởng công cần thiết trong lúc đói, họ cũng chẳng màng tới chút tình cảm với người xa lạ như anh.  Con đường thoát ra khỏi đây qủa thật dài và gian truân. 
Nhiều lúc anh nhẩm tính, còn bao nhiêu lâu nữa anh sẽ đi ra lối cửa sau để lên khu đồi cao sau trại, nhưng thực ra, trong xã hội Cộng-sản, liệu con người có cơ hội nhẩm tính những gì của chính mình.  Nhất là cuộc đời đi tù như anh, sống nay chết mai.
Thế rồi bỗng chốc mọi sự thay đổi.  Anh không phải đi qua cánh cổng sau để lên đồi Bà Then như mọi người thường nghĩ tới, mà anh đang ra khỏi đây bằng cửa trước.       
Mặt trời đã lên cao, ánh nắng chan hoà mở đầu một ngày quang đãng.  Trời vào Thu, gió thổi nhẹ vờn mát làn da.  Kim hít một hơi dài cho căng lồng ngực, không khí thật thơm mát, như len sâu vào các khe phổi, làm vơi đi phần nào những lo âu luôn đè nặng trong cuộc sống.  Anh thấy tỉnh táo hơn.
Kim đưa mắt nhìn xung quanh, núi rừng trùng điệp, cảnh thiên nhiên thật đẹp, vẻ đẹp mà trong suốt thời gian qua anh không nhìn thấy.
Ðồ dùng cá nhân đã xếp lên mui xe.  Kim với bạn chia nhau vòng sắt rỉ.  Anh ngồi sát cửa sổ, tay trái nâng cao khung kính để gió lùa vào.  Anh có cảm tưởng gió ở đây mát hơn trong kia, mặc dù trong cùng một bầu trời, trên cùng một mảnh đất.
Xe lao xuống dốc thật nhanh, gió rít bên tai.  Từng cụm mây trắng bám trên các ngọn cây phía dưới đang bị đẩy lùi về phía sau, khu trại nhỏ dần.  Kim có cảm tưởng như mình đang thoát chạy khỏi bóng dáng tử thần.  Anh xa dần vùng lửa đạn, xa chốn Cổng Trời, nơi địa ngục trần gian.
Xe chạy quanh co một lúc mới xuống tới vọng gác chân núi.  Nhìn ngược lên, khu trại hiện ra lờ mờ trên một mặt bằng trải rộng như đường chân trời, triền dốc thẳng đứng.  Kim nhận ra sự thực về câu nói của cán bộ giáo dục, thật khó thoát ra khỏi đây nếu không đi bằng cách công khai.
Xe theo lối cũ, đường lộ vắng hoe.  Anh không biết hôm nay thứ mấy, có phải là định kỳ có chuyến xe Hà-giang Quản-Bạ.  Từ đây xuống Hà-giang chỉ có 36 cây số, đường xuống dốc nên chạy nhanh hơn hôm tới đây.
Qua bến xe Hà-giang, vẫn có cảnh đợi chờ, chen lấn một chỗ lên xe.  Nếu không họ sẽ phải lội bộ 40 cây số đường rừng dốc ngược để tới huyện Quản-bạ.
Bộ đội xuất hiện nhiều hơn mấy tháng trước.  Có lẽ họ là lực lượng trừ bị cho mặt trận phía Bắc.  Vẫn trang bị nghèo nàn như hồi đánh chiếm miền Nam.
Từ đây tới Tuyên-Quang đường dài 180 cây số.  Con đường lộ đất nhiều hơn đá, nhiều chỗ trũng sâu như hố bom, không kể ổ gà rải rác trên mặt đường.  Khung cảnh hai bên đường như bị héo khô sau mùa hè nắng cháy. 
Xe tới địa phận Sơn-Tây, con đường như hẹp lại.  Những lạch nước đào dẫn thủy cho các thửa ruộng như ngăn trở phát triển mặt bằng con đường cho phù hợp với nhu cầu giao thông.
Sau ba năm chấm dứt chiến tranh súng đạn giữa Nam và Bắc, người miền Bắc vẫn còn mệt mỏi trong việc tu sửa cả đời sống vật chất lẫn tinh thần.  Trong khi biên giới phía bắc luôn bị đe dọa bởi nước láng giềng anh em đánh phá.
Xe tới ngoại ô Hà-nội đã xế chiều, bầu trời đọng mây một mầu ảm đạm.  Những căn phố gạch trông thật cũ, như đã lâu không tu bổ, sơn quét.  Nhà nhà lên đèn, những ngọn đèn vàng úa không đủ sáng cho căn phòng khách nhỏ.  Thỉnh thoảng mới có một nhà có máy truyền hình, thấp thoáng hình ảnh xướng ngôn viên nhà nước hiện ra giữa đám vẩn hạt lấm tấm trên màn ảnh.
Trời tối hẳn, xe ngừng lại trại Văn-Hòa, một trại Ty ngoại ô thành phố Hà-nội.  Mọi người xuống xe, được hướng dẫn tới dẫy nhà tranh phía trước.  Kim đang nói chuyện với anh Luyện, chợt một cán bộ đứng gần lên tiếng:
-"Anh Luyện có cải tạo tốt không?"
Kim không hiểu ý câu hắn hỏi, muốn hỏi thăm sức khỏe anh Luyện hay muốn biết anh đã thấu triệt chính sách nhà nước chưa.  Hắn phải gặp anh Luyện nhiều lần tại các trại mà anh đã ghé, hoặc đã dự phần vào việc cải tạo anh trong thời gian qua.  Với giọng vui vẻ cố hữu, anh Luyện trả lời:   
-"Có cải tạo nhưng chưa chắc tốt."
Hắn im lặng như vừa nhận một gáo nước lạnh.  Kim và anh Luyện tiếp tục câu chuyện, như chẳng quan tâm tới những gì vừa xẩy ra.  Câu trả lời của anh Luyện thật đúng, vì nếu tốt nhà nước đã cho về theo như chính sách đề ra. 
Mọi người bước vào căn nhà tranh, vách bằng tre đan, mặt nền còn ướt như nhà vừa dựng.  Hai bên có sàn nằm trên phủ một lớp phên tre đập dập không phẳng.  Có nhiều chỗ võng xuống bập bùng vì chân chống lún sâu dưới nền  đất ướt.  Trời đã tối nên bữa ăn chiều không sửa soạn kịp.  Lại một đêm không màn không chiếu.  Muỗi đã chích qua lớp áo bà ba mỏng.  Kim thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn.
*
___________________
Chú thích

Trại Quyết Tiến (Cổng Trời)
      

Trại Quyết Tiến nằm trong địa phận xã Quyết Tiến, một xã thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.

Xã Quyết Tiến: Bắc giáp xã Tùng Vải (thị trấn Tam Sơn).  Đông giáp xã Quản Bạ, xã Đông Hà và xã Thuận Hòa (Vị Xuyên).  Nam giáp xã Thuận Hòa (Vị Xuyên) và Minh Tân.  
Tây giáp xã Minh Tân. 
Diện tích:  60Km2.
Tọa độ:  23o 00’ 16” B     
  104o 58’ 01” Đ       

Huyện Quản Bạ: Nằm về phía Bắc tỉnh Hà Giang.  Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam (TQ).  Phía Nam giáp Vị Xuyên.  Phía Đông giáp huyện Yên Minh.    Diện tích: 550Km2.

Tỉnh Hà Giang: 
Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng.  Phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai.  Phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang.  Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (TQ).    
Tọa độ: 22o 10’ đến 23o 30’ vĩ độ Bắc và 104o 20’ đến 105o 34’ kinh độ Đông.

Diện tích toàn tỉnh: 7.884, 37Km2.  Với các quốc lộ chính: QL 2,  QL 34, QL 4C, QL 279. Với 2  sông: sông Lô và sông Gầm.  Hà Giang là tỉnh miền núi, có ngọn Tây Côn Lĩnh cao 2.418m.  Độ cao trung bình khoảng 800m so với mặt nước biển.

Chiến  tranh biên giới Việt-Trung 1979 
    
Cuộc chiến Việt – Trung năm 1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng rất tàn khốc.  Cuộc chiến xẩy ra từ 17-2 đến 18-3-1979, tại 5 tỉnh: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và khi vực Móng Cái.  Lực lượng hai bên tham chiến gồm:

* Về phía Trung Cộng:

 Khoảng 400.000 binh lính và 400 xe tăng.  Trong đó có khoảng 20,000 binh sĩ tử trận, 30,000 bị thương với 280 xe tăng bị phá hủy.  (Lực lượng của 7 quân đoàn với 21 sư đoàn tác chiến, 9 sư đoàn trừ bị)


* Về phía Việt Nam:
Khoảng 100.000 quân tham chiến.  Trong đó có 8.000 tử trận và 10.000 dân bị chết.
(Thuộc 7 sư đoàn, 15 trung đoàn độc lập, biên phòng và dân quân tự vệ).

Trong chuyến viếng thăm Đông Nam Á vào tháng 12-1978, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: “Việt Nam là côn đồ, phải dậy cho Việt Nam một bài học.”.  Một lý do chứng tỏ Trung quốc đánh Việt Nam vì Việt Nam đã lật đổ Khmer Đỏ, một đồng minh của Trung cộng.

** Số tử vong và thương tật của hai bên tham chiến vẫn chưa được xác nhận là con số đúng nhất. Trên thực tế, con số tử vong và thương tật có thể cao hơn.



*










 13.
An tâm cải tạo
(Trại Thanh-cẩm)

 Vào sâu địa phận Thanh-Hóa, tới ngã ba, xe chở anh em biệt-kích rẽ bên trái đường vào trại Lam-sơn, còn xe Kim chạy thẳng.  Con đường nhỏ hẹp len lỏi giữa đám đồng cỏ.  Mọi người xuống xe qua phà tại huyện Cẩm-thủy. Tới 3 giờ chiều mới tới khu trại, nhìn từ xa như một ốc đảo
dựa vào chân núi cao, sương khói phủ mờ ngọn núi.      
Anh đã tới trại Thanh-Cẩm thuộc huyện cẩm-Thủy, nằm sát bên bờ sông Mã.  Phía bên kia là Bái-thượng, rồi tới ranh giới hai nước Việt-Lào.
Kim và các bạn theo cán bộ hướng dẫn vào trại.  Anh không nhìn thấy mái nhà phía trong vì vòng tường xây quá cao.  Giòng sông Mã nước triều đang lên khiến mặt sông thật rộng, nước phù sa đục ngầu.  Kể từ ngày rời miền Nam, bây giờ anh mới được nhìn lại giòng sông.  Kim cảm thấy dễ chịu vì hình ảnh lạ vừa thay đổi.  Biết bao ngày tháng qua, anh chỉ nhìn thấy rừng xanh núi biếc.  Anh vừa thoát khỏi vùng núi non hiểm trở, tới đây sông nước tươi mát khí hậu ấm dịu, nỗi ưu tư như vơi đi phần nào.
Qua khỏi cánh cổng lim dầy có trạm gác hai bên, một hội trường lớn ở giữa lui vào gần cuối sân trại.  Sân đất thật rộng.  Hai dẫy nhà nằm đối diện hai bên sân, cách nhau bởi những bức tường ngăn khá cao.
Bốn mươi tám người Quyết-tiến lên căn phòng ở cuối dẫy bên trái.  Theo triền dốc căn nhà này cao hơn những căn phía  dưới.  Căn nhà mang số 5.  Tính theo chiều ngược vòng quay kim đồng hồ.  Từ cổng trại về bên phải, khu nhà bếp nằm khuất phía trong rồi tới căn nhà ngói nhỏ dùng làm Trạm xá và ban Văn Hóa.  Căn phòng giam tập thể đầu tiên mang số 1, cuối dẫy bên phải là căn số 4.  Dẫy bên trái, căn số 5 ở trên cao, và căn sát cổng mang số 8.
Từ cửa phòng 5 nhìn xuống sân trại, hội trường như chiếc nhà Rông của người miền núi Cao-nguyên Trung phần, mái nhọn cao vút.  Cách cổng một con đường đất, giòng sông Mã nằm sâu phía dưới thềm dốc bờ sông.  Thủy triều đang lên nước chẩy xiết, mặt nước đỏ mênh mông lấn vào sát chân làng phía bên kia bờ sông.
Nhìn ngược lên phía trên, qua mấy bậc tam cấp là khu kỷ luật.  Một căn nhà rộng mái lợp tôn, tường phủ một mầu đen thẫm, trông thật nặng nề ghê sợ.  Bức tường bao quanh che mất lối cửa ra vào.  Cánh cửa lim dầy đã ngả mầu đen.  Một hành lang hẹp ở giữa chia căn nhà làm hai dẫy.  Không có lấy một ô cửa sổ cho ánh sáng lọt vào. 
Kim nghe Mười kể lại, anh đã vượt thoát khỏi khu kỷ luật này, bị bắt lại trở thành loại người,theo cán bộ nói, bất trị cứng đầu, không chấp hành kỷ luật trại.  Trại bảo anh Mười có tư tưởng chống đối, nên đưa anh và một số bạn lên trại Quyết-Tiến.  Gặp bọn Kim rồi ngược về đây, thành con số 48 người trở về từ trại trừng giới Cổng Trời.
Kế phòng kỷ luật cũ là khu kỷ luật mới vừa hoàn tất, vòng tường xây cao trên giăng nhiều hàng kẽm gai, tựa vào vách núi dựng đứng.
Sau khi mọi người vào phòng, cửa cổng đã khóa kín phía ngoài.  Phòng 5 cũng giống như những căn dưới kia, cùng một hình thức như nhà giam trại Nam-Hà và Quyết-tiến.  Căn nhà ngủ nằm giữa khu đất, phía trước là sân chơi, những ô bàn ghế xây chen cạnh các khóm hoa cúc làm khu nhà đỡ trơ trọi.  Sát cổng ra vào, một căn nhà nhỏ dùng làm nhà ăn chỉ kê vừa một chiếc bàn dài.
Kim ra phía sau nhà ngủ, đứng trên bờ đất cao nhìn qua vòng tường trại, con đường đất nhỏ len lỏi giữa khu vườn trồng sắn, vượt qua một bên ngọn núi đã xẻ bứt ở giữa làm đường đi.  Trời đất mênh mông.  Anh không thể nhìn thấy những gì ở xa hơn, tầm nhìn bị thu hẹp vì ngọn núi chắn phía trước.
Bốn mươi tám người nằm một nửa của căn phòng có bức tường ngăn đôi.  Anh em chia nhau chỗ nằm, phòng quá rộng đối với nhóm người các anh.  Lần đầu tiên trong cuộc đời ở tù, Kim được một chỗ nằm rộng rãi.  Anh không phải "chen vai thích cánh" gò bó như thời gian trước đây. 
Sau hành trình hai ngày một đêm, anh thấy mệt mỏi, thèm một chỗ ngả lưng.  Kim trải chiếu sàn nằm trên sát bên cửa sổ.  Anh vẫn thích nhìn bầu trời về đêm, những lúc trăng sao vằng vặc, để có giây phút hướng về gia đình với những kỷ niệm khó quên, với mong ước trở về.  Kế bên là anh Tiếp rồi đến anh Phước Hải quân.
Bữa cơm chiều có người gánh lên tận phòng.  Theo đúng thủ tục nhập trại, một bữa cơm trắng với canh rau muống đãi ngộ cho ngýời mới tới.  Dù sao cũng là bữa ãn ngon miệng, vì đã lâu không nhìn thấy hạt cơm.
Sáng hôm sau cửa phòng mở hơi trễ, cánh cửa cổng ra sân trại đã khóa phía ngoài.  Các anh được nghỉ một ngày dưỡng sức trước khi đi lao động trở lại.  Kim vẫn thích có những lúc như thế này, anh được nhìn khung cảnh mới, chưa rõ tốt hay xấu, vì nhà tù cộng-sản nào cũng giống nhau.  Nhưng anh được nghỉ ngơi nhàn hạ, để tinh thần bớt căng thẳng vì cảnh cũ quen thuộc.
Hôm nay mở cửa trễ nên không tập thể dục, một việc làm bắt buộc của trại cải tạo.  Nói là vận động cho cơ thể khoẻ mạnh, cường tráng để lao động tốt, nhưng thực ra cường tráng làm sao được khi bữa ăn chiều hôm trước đã mất hút từ tối hôm qua.  Cả một đêm bụng đói lấy gì làm cho khỏe.
Chưa tới giờ cơm trưa cửa cổng lại mở, hai cán bộ vào gọi tên một số Linh-mục.  Lại khăn gói rời phòng, các vị được dẫn lên khu kiên giam kỷ luật.  Người cộng-sản vốn cẩn thận, giết lầm chứ không bỏ sót, vì tôn giáo vốn là khắc tinh.  Căn phòng trở lên trống trải với số người còn lại.  Mấy ngày sau lại có một số anh em lên kỷ luật, những người còn lại đều sẵn sàng chờ gọi tên mình.
Sau ít ngày nghỉ ngơi, cũng như hưởng mùi vị dằn mặt của ban gíam thị trại, nhóm Quyết-tiến được thành lập đội, mang tên đội 16.  Cán bộ quản giáo là người lầm lì ít nói, có tiếng kỷ luật nhất trại. 
Trại đã có một đội xây dựng, nên khi đội 16 được gọi là đội xây dựng, anh em trong đội cười nói mình là đội xây dựng nhẹ, vì chẳng có chút dụng cụ gì để mang vác.  Cả đội hơn ba chục người vỏn vẹn có một đục, một tràng, một cưa tay nhỏ, vài cái cuốc và xẻng.  Anh em trong trại nhìn đội 16 nói "đội gì mà chỉ có mấy ngoe, người nào người nấy tơi tả như lá mùa thu, như đàn gà gặp ngày giông bão." 
Ðội 16 có thêm tên mới, anh em trong trại thường gọi là "đại đội trừng giới," danh xưng nghe khá đặc biệt.  Kim cảm thấy đội mình như bị cô lập.  Không phải anh em trong trại sợ hãi điều gì, vì cũng chung cảnh tù đầy, nhưng họ không muốn bị cặp mắt cán bộ trại phát giác có sự liên hệ, mà hình phạt kỷ luật có thể đến với họ.  Mặt khác, cán bộ trại kiểm soát chặt chẽ sự liên hệ giữa anh em trong trại với nhóm Quyết-tiến, như ngăn ngừa lây bệnh, mà tính chống cộng sản là căn bệnh dễ lây khó trị.
Sau những ngày đầu làm vệ-sinh, phát quang xung quanh trại, đội 16 được giao thực hiện một căn nhà tranh 5 dan trên khu đất bên kia đường trước cổng trại.
Bây giờ đang ở vào những ngày cuối mùa thu miền Bắc, những cơn mưa rào thoáng đến thật nhanh.  Hơi sương bao phủ mặt sông về buổi sáng.  Trời chuyển lạnh, từng cơn gió núi thổi qua tạt những hạt mưa lạnh buốt.
Công tác được phân chia, chỉ có một trở ngại mặc dù là kèo tre nhưng lấy gì đục lỗ con sỏ, vì chiếc đục duy nhất đang dùng để hoàn tất các cây cột nhà.  Anh em trong đội phải dùng các cây sắt tròn nung lủa đỏ đục các lỗ con xỏ.  Công việc khá tức cười, con người lại trở về thời đại phương tiện còn eo hẹp.
Sau vài tuần lễ căn nhà hoàn tất, tác phẩm đầu tay của đội trông chẳng giống ai.  Vẫn mái rạ, tường đắp đất trộn rơm, cửa là tấm phên tre, trông thật nghèo nàn. 
Kim gặp lại một số tù hình sự trại Quyết-tiến về đây, họ cho hay sau khi nhóm anh rời trại Cổng Trời được ít ngày, quân đội Trung Hoa tràn qua biên giới, phá trại Quyết-tiến và các vùng phụ cận.  Một số hình sự trốn thoát, còn một số bị bắt lại và di chuyển về trại này.
Bây giờ mới tháng mười, thời tiết trở lên lạnh hơn trước.  Ðám hình sự ở các phòng 6,7 và 8 chuyển ra trại ngoài, nhường chỗ cho anh em quân nhân cải tạo ở trại Hoàng-liên sơn chuyển tới.
Nửa căn nhà còn trống của phòng 5 dành cho đội 15.   Các anh mới tới cho hay khi ra Bắc họ di chuyển bằng xe lửa, nên khi tới ga Hàng Cỏ tầu ngừng mới hay có người đã bị chết ngộp, vì toa xe chật chội, nhất là tù bị nhốt trong các toa xe chở gia súc kín mít.
Ðội 16 chỉ còn hơn 30 người, được giao công tác làm sạch khu kỷ luật vừa hoàn tất.  Mặt sân rộng còn ngổn ngang gạch đá, cỏ mọc khắp nơi.  Từ chỗ này nhìn ra xung quanh chỉ thấy vòng tường cao ngất, trên giăng nhiều hàng kẽm gai.  Ðèn điện thắp sáng trên các đầu tường.
Dù là khu vừa xây xong, mùi vôi còn nồng nặc mà các phòng giam đã không còn chỗ trống.  Phương tiện vệ sinh tại các phòng này thiếu thốn, vì vậy đời sống tù giam kỷ luật thật tồi tệ.
Ðến giờ giải lao, anh em ngồi tại chỗ nghỉ tay, quây quần nói chuyện, có bạn đề nghị Kim làm một chút văn nghệ cho vui, anh cao hứng hỏi các bạn:
-"Các anh muốn làm gì bây giờ?"
Anh Tiếp góp ý:
-"Anh hãy hát lại mấy bản nhạc đã làm trước kia."
Kim nhớ khi tới Quyết-Tiến, hai người kể lại những gì đã xẩy ra.  Nhiều lúc sự sống như chỉ mành treo chuông, chẳng còn gì thuộc về mình, kể cả tình yêu thương với những toan tính tương lai, và những chán chường hiện tại nhiều lúc như thúc dục anh vùng lên bất kể hiểm nguy.  Kim cười trả lời anh Tiếp:
-"Có lẽ trong hoàn cảnh này và ngay lúc này, sau lưng chúng ta có một số anh em đang bị cùm xích đọa đầy trong phòng tối.  Tôi muốn diễn tả tâm tư của tôi, và có lẽ của cả chúng ta, một ngày nào đó không sớm thì muộn, chúng ta sẽ lần lượt bước vào chốn này, chung hưởng nỗi cay đắng với các bạn trong kia."
Dù không phải là ca sĩ, nhưng hát hay vẫn không bằng hay hát, nhất là lúc con người không nghĩ tới ngày mai xa xôi của mình, vì hiện tại sự sống quá bấp bênh.  Kim cao hứng đứng trên ụ đất cao, tay chống cán cuốc diễn tả bản "Cachot – Xà Lim", bản nhạc anh đặt lời, theo âm hưởng của bản “Paloma”, từ ngày mới vào tù.
Sau những hành động hận thù, những vòng xích xiết chặt tay chân đến trầy da chẩy máu, thân xác mệt mỏi vì nhiều đêm mất ngủ sau những buổi lấy cung bất kể ngày đêm.  Kim đã diễn tả tâm tư của người tù dưới chế độ cộng-sản vốn thê lương ngắn ngủi, dù thức hay ngủ cũng chỉ là những giấc mộng phù du.  Rồi những lúc ngọn lửa căm hờn nung đốt tâm can những muốn đạp đổ bức tường ngăn, bứt tung xiềng xích vượt thoát ra ngoài.  Nhưng chính những giây phút thất vọng hay căm hờn đó anh đã có những ý nhạc, mà sau này nhớ lại, anh tự hiểu có thể đó là lối thoát cho tâm tư uất nghẹn của anh, trong một hoàn cảnh dễ làm con người điên loạn. 
Từ trong phòng tối của trại “Băng Ky”, anh đã hát bản nhạc này để góp vui với các bạn tù vào ngày mồng một Tết.  Anh chẳng biết trong đó có ai, đang bị cùm xích đọa đầy trong các căn phòng tối phía trong.  Khi gặp mặt anh mới biết có bác Nam Kinh, có Nguyễn-Tiến-Ðạt, có Hoà . . . mà sau này dắt díu nhau ra Bắc.
Khi Kim dứt tiếng ca, có tiếng vọng từ trong phòng kỷ luật như một lời hưởng ứng, như chứng nhận lời ca đã diễn tả đúng hoàn cảnh mà các bạn đang chịu đựng.
Anh Tiếp cười vui vỗ tay, như quên hẳn phía sau mình là khu kỷ luật thuộc vùng đất nổi tiếng Lý-bá-Sơ.  Mái tóc điểm muối nhiều hơn tiêu thể hiện quãng thời gian khổ ải đã trải qua.  Khuôn mặt xương xương pha mầu trắng xanh xao, thêm đôi kính cận trông thật hiền hoà thân ái, thoáng hiện nét vui.  Như tâm tư được giãi bầy, được cởi mở mà trong giây phút đã quên đi hiện tại chua cay của kiếp người bèo bọt.  Anh Tiếp pha trò:
-"Mẹ kiếp, hát được quá đi chứ, đúng là ca sĩ thứ thiệt ngoài đời.  Nếu có chiếc "kèn sắc" phụ họa thì hay biết mấy.  Nhưng không hiểu sao với nhạc điệu Tango trang trọng, vui tươi mà lời ca anh đặt lại đau thương như con tim đang rỉ máu.  Và giọng ca của anh lại tan nát thê lương, diễn tả đúng kiếp sống không ngày mai của chúng mình.  Phải!  Chúng mình đang đi tới con đường cùng.  Chua xót thật…"
Kim cũng không hiểu tại sao anh đặt lời nhạc bản từ lời ca đến âm hưởng thật vui tươi, trong sáng nhẹ nhàng bằng lời Việt mang nét uất hận căm hờn.  Có phải nó đã diễn tả đúng thực trạng đời sống của anh trong căn xà lim tăm tối với chân cùm tay xích.  Phải, chính trong giây phút đó lòng anh tan nát trước kiếp người mong manh.      Rời khu kỷ luật, đội làm vệ sinh xung quanh khu hội trường.  Nhân số ít ỏi, người ngợm vẫn phờ phạc tả tơi.  Trong giờ lao động, một cán bộ trẻ đi qua thấy Khuân hắn gọi anh lại.  Anh em không hiểu có chuyện gì làm gai mắt hắn nên dừng tay cuốc đứng nhìn.  Khuân bỏ cuốc đi lại phía hắn.  Hắn nói lớn:
-"Sao anh lại đeo kính khi lao động?"
Khuân trả lời hắn:
-"Tôi cận thị nên phải đeo kính.  Tôi đã đi qua bao nhiêu trại trước khi tới đây, chưa có cán bộ nào thắc mắc  tôi đeo kính khi lao động."
Bị chạm tự ái trước câu trả lời, hắn trợn trừng đôi mắt.  Sự tức giận làm mặt hắn xạm lại.  Hắn những tưởng có uy quyền buộc kẻ khác phải tuân phục mhư đã từng làm ở đây.  Mọi người đứng nhìn chờ xem hành động của hắn.  Có tiếng nói trong đám anh em:  "Nó ngu thật, cận mà không cho đeo kính khác gì mù."
Hắn nghe rõ câu nói, như lửa đổ thêm dầu, quắc mắt hướng về phía đám đông như tìm kiếm người vừa buông lời xỉ nhục.  Hắn quay lại Khuân nói như hét: "Ðưa kính đây."  Khuân tháo kính đưa cho hắn.  Hắn cầm kính ném xuống đất, đè gót giầy lên rồi bỏ đi.
Khuân như kẻ mù, mắt cận nặng nên anh không nhìn rõ hình ảnh phía trước, nhất là sau thời gian dài tù đầy, cùm xích trong phòng tối, cái đói cái khổ đã làm mắt anh ngày càng tối tăm hơn.  Chắc anh chưa biết số phận cặp mắt kính nằm dưới đất, các bạn giúp anh nhặt kính.  Một gọng đã gẫy lìa, chiếc còn lại lung lay như cánh gà bẻ ngược, một bên mắt kính rạn nứt. 
Mọi người đều tức giận, ngọn lửa căm thù tưởng là nguội lạnh sau một năm đầy ải ở trại Cổng Trời, bỗng chợt bùng cháy, nung đốt tâm can.    
Sau vụ của Khuân, không khí buổi sinh hoạt trong phòng đã thay đổi, không yên lặng như trước.  Như tức nước vỡ bờ, sôi động với tư tưởng chống đối, anh em cùng chỉ trích những hành động thiếu nhân đạo của đám cán bộ trại.
Trong một buổi sinh hoạt thường lệ tại phòng, anh Chín Khương đưa ra lời phản đối hành động của cán bộ đối với anh em đội 16. 
Anh Chín bị bắt ngay sau ngày miền Nam bị chiếm đoạt.  Anh đã trải qua nhiều trại cải tạo ở miền Nam rồi ra Bắc.  Tới trại Thanh-cẩm này, anh đã mục kích những hành-động tàn bạo của đám cán bộ.  Anh đưa lời phản đối, hy vọng có sửa sai.  Nhưng ngược lại, anh bị trại ghi nhận có tư tưởng chống lại Ðảng và Nhà nước. 
Anh và một số bạn vào kỷ luật rồi cả đám 8 người trong đó có các anh Nguyễn-vạn-Thọ, Trịnh-Tiếu, Phạm-dương-Ðạt. Trang-minh-Hải, Nguyễn-văn-Mười, Nguyễn-Xuân, Trần-trung-Chi kéo nhau lên Quyết-Tiến, Hà-giang.  Gặp nhóm Kim, những tưởng một phen bỏ xác tại vùng rừng thiêng nước độc, quanh năm sương phủ.  Chẳng ngờ quân đội Trung-hoa đánh phá miền biên giới, anh em lại ngược về đây.  Không hiểu có phải là mệnh số mà oan gia gặp lại, anh Chín trở về nơi chẳng mấy hoan hỷ đón tiếp.  Trong buổi họp, anh quay bảo anh thư ký ghi biên bản:
-"Xin anh ghi rõ và đầy đủ lời phát biểu của tôi."
Mọi người chưa biết anh sẽ nói gì, nhưng nét mặt anh đầy vẻ bất bình, như uất hận đang trào dâng.  Anh ngừng lại vài giây, rồi nói tiếp:
"Từ sau ngày miền Nam bị xâm chiếm và trong suốt thời gian đi tù tại các trại cải tạo từ Nam ra Bắc, tôi xác định một điều, chế độ cộng-sản là chế độ vô nhân đạo, tước bỏ quyền sống của con người.  Tôi không bao giờ chấp nhận và không thể sống chung với chế độ bạo tàn này."
Kim thấy nét mặt của anh em trong đội một phút ngỡ ngàng.  Anh thư ký ngừng bút viết, đưa mắt nhìn anh Chín như thầm hỏi anh có ý định thay đổi lời vừa phát biểu không.  Anh chín như nhìn rõ tâm ý người bạn đang lo lắng cho an nguy của mình.  Nhưng anh vẫn giữ nét mặt trang nghiêm, như đã nghĩ kỹ trước khi nói, như đã chọn lựa cho mình con đường phải đi.  Không thể thay đổi, vì đã nhận thức bằng kinh nghiệm cá nhân, và bằng mắt thấy của cả hàng nhiều triệu người miền Nam cũng như miền Bắc.  Anh Chín quay qua anh thư ký nhắc lại:
-"Xin anh ghi lời tôi phát biểu đầy đủ."
Anh thư ký vẫn chưa ghi vào biên bản lời phát biểu của anh Chín, quay nhìn anh em trong phòng như dò hỏi,  để biết có lời nào can ngăn.  Cả phòng vẫn yên lặng, hàng trăm con mắt nhìn nhau.
Rồi bất chợt phút giây căng thẳng, yên lặng ngắn ngủi vụt biến mất, trả lại không khí vui vẻ hân hoan cho mọi người.  Ðã lâu lắm không nghe thấy một câu nói tương tự, như một luồng gió mát trong mùa hè oi bức.
Anh thư ký nhìn các bạn mỉm cười.  Tập thể "đại đội trừng giới" trở về từ Cổng Trời đã được gạn lọc, sàng xẩy qua bao nhiêu thử thách, 48 người vẫn chỉ là một.  Anh  nhận ra một sự thật là tập thể này không chấp nhận chế độ cộng-sản dù ở bất cứ tình huống nào.  Vẫn trước sau như một.
Những hình ảnh dã man của cán bộ cộng sản đối với tù nhân cải tạo từ Nam-Hà đến Quyết-tiến rồi ở đây Thanh-cẩm, vẫn chỉ là chính sách chung.  Như cảnh một cán bộ đánh gục tù nhân trước mặt mọi người, và còn nhiều nữa.  Ðã chứng tỏ một chính sách giáo dục bằng cực hình, nói lên tính vô nhân đạo, coi mạng sống con người không có một chút gía trị nào.
Buổi họp vẫn sôi động như thác lũ cuốn trôi, chìm đắm trong uất hận, rồi đến Ninh Vệ Vũ dơ tay xin phát biểu.  Tiếng ồn ào đột nhiên biến mất, mọi người im lặng chờ nghe.  Vũ nói:
-"Tôi quyết tâm…"
Vũ ngừng lại, mọi người nhìn về phía anh chờ đợi một câu nói.  Kim nhìn sang Vũ, nét mặt anh trang nghiêm như đang đè nén tâm tư sôi động những uất hận căm hờn.  Giọng anh bỗng đanh lại:
"…thà chết không chấp nhận chế độ cộng-sản.  Một chế độ đã hủy hoại quyền tự do con người.  Ðã đưa dân tộc này tới chỗ nghèo đói và chậm tiến."
Một câu nói ngắn gọn, đơn giản nhưng thật sắt đá.  Mặc dầu là câu nói được nhắc lại nhiều lần từ Nam ra Bắc, nhưng mỗi lần nói lên mọi người có cảm nghĩ là vẫn chưa diễn tả đủ thực chất của chế độ cộng sản.
Kim nhìn Vũ bắt gặp một nụ cười. Anh vẫn như ngày nào, hồi còn ở trại Phan-đăng-lưu, Sài-gon.  Liên miên đổi phòng vì tư tưởng chống cộng.  Dáng người nhỏ nhắn có vẻ nhà giáo hơn là một quân nhân ở một đơn vị có nhiều chiến tích.  Tính tình hiền hoà, ít nói và rất tốt bụng.
Ra vào phòng kỷ luật như cơm bữa, vẫn một lòng cương quyết không khuất phục trước bạo lực.  Anh đã hưởng hết các kiểu còng, từ xích tay đến cùm chân trong phòng tối, đến xích thành xâu cả chục người trong phòng 7 khu A.  Anh vẫn vậy, vẫn kiên trì chịu đựng chẳng ngã lòng, vẫn sáng suốt và giữ lòng trong sạch.
Kim nhìn qua anh Chín, nét mặt hai người thật cương quyết.  Họ hiểu hậu qủa của lời vừa phát biểu, nhưng lòng căm hờn vượt lên quá độ đã coi thường hiểm nguy.  Kim cảm phục họ, những người bạn cùng chung một chiếc thuyền, có chung bầu tâm huyết.
Không khí buổi họp thật sôi động.  Những lời phát biểu được ghi đầy đủ vào biên bản nộp ban giám thị trại.  Không hiểu đám cán bộ trại nghĩ gì về tập thể này.  Những con "cọp xám của trại Nam-Hà" vẫn khó trị, những "đầu gấu" của trại Quyết-Tiến vẫn bướng bỉnh, mà sự yên lặng trong giai đoạn vừa qua lầm tưởng là đã bị khuất phục, nhượng bộ một chế độ khắc nghiệt đi ngược lại ước vọng của dân tộc.
Nhiều lúc anh em trao đổi, với ý nghĩ chế độ chỉ là một danh xưng do con người đặt ra, ít nhiều phải đạt mục đích phục vụ cho quyền sống căn bản của con người.  Giúp con người tận hưởng một đời sống có ý nghĩa trong cuộc đời có một lần.  Nhưng không hiểu sao, cũng là con người mà vì theo chế độ cộng-sản, đã đi ngược lại nguyện vọng của người dân.  Và tệ hại hơn nữa, thay vì đưa dân tộc này đi lên, họ lại giết hại người đồng loại, như những hành động đẫm máu trong thời gian vừa qua.  Họ tự cho mình có chính nghĩa, xử dụng bạo lực hủy diệt những người bất đồng chính kiến.
Mấy ngày sau đó vẫn yên lặng.  Ðội 16 lãnh công tác làm vệ sinh trong khuôn viên trại.  Anh Chín Khương đi "làm việc."  Mọi người hiểu biện pháp kỷ luật của trại đã tới.  Họ đâu có thể chấp nhận một sự chống đối ra mặt, nhất là ở giai đoạn trại đang ổn định, phải dập tắt ngọn lửa chống đối ngày một ảnh hưởng tới phòng khác.  Họ đang cần những "vật tế thần" để đàn áp, dằn mặt những người còn lại.  Một hành động đến hơi chậm nhưng tránh được phần nào hỗn loạn có thể xẩy ra khi không khí chống đối còn sôi động.
Khi đội lao động về, chỗ nằm của anh Chín trống trơn.  Anh đã ra khỏi phòng, cũng không có mặt ở khu kỷ luật hay kiên giam.  Không ai hiểu anh đi đâu.  Sau này anh em hỏi cán bộ mới hay anh Chín Khương được chuyển về Bộ, để giúp tài liệu cho ban viết sử về đời sống những cán bộ cao cấp bị giam ở Côn Sơn khi anh Chín còn tại chức.
Ðó chỉ là một câu nói làm yên lòng người ở lại, để che đậy những hành động vô nhân của nhà nước đối với người cải tạo miền Nam.  Không còn ai nghe nói tới anh Chín.  Anh như vì sao lạc biến mất trên nền trời đầy tinh tú, như hạt cát lắng xuống đáy biển khơi.  Nhưng anh đã để lại cho anh em một tấm gương hy sinh cho một ước vọng cao cả.  Sau này có người bạn cho hay, anh Chín chuyển về trại Nam Hà, anh trở lên ngơ ngác như kẻ mất hồn, không còn nhớ điều gì đã xẩy ra. 
Sau anh Khương mấy ngày lại đến lượt Vũ.  Trước khi đi lao động Kim bảo bạn:
-"Chuyện đến đã đến.  Có gì anh nhắn cho anh em biết tin."
Vũ mỉm cười trả lời:
-"Lại chuyện cũ tái diễn.  Tôi đã sửa soạn tinh thần xa anh em một thời gian.  Dù sao chúng ta cũng vừa trải qua những ngày thật vui và đáng ghi nhớ."
Chẳng riêng gì Vũ, mà cả tập thể này ai nấy đã sửa soạn tinh thần.  Chỉ có 5 phút thu xếp đồ dùng cá nhân.  Giây phút chia tay bạn hữu thật ngắn ngủi, bước ra khỏi cửa không biết mình đi về đâu, xa hay gần.
Cũng không ai nghĩ tới những bữa ăn đỡ đói hay nằm đếm từng hạt bắp luộc.  Cũng chẳng ai phân biệt được ngủ ngon giấc trong chăn đắp màn che, hay cả đêm trăn trở phó mặc thân xác cho đàn muỗi rệp.  Và những sợi xích tay chiếc cùm chân kéo bật người dậy trong cơn mê ngủ.  Ðôi chân tê dại vì cùm xích lâu ngày, rồi sức khỏe yếu dần trong bóng tối.  Con người bám víu lấy sự sống thật mong manh.
Những ngày sau đó "đại đội trừng giới" ít người dần.  Anh em lần lượt rủ nhau lên "nhà nóc bằng."  Hơn mười vi Linh mục, Tuyên-úy đã nhận nơi đó làm quê hương từ ngày mới tới trại.  Sau Vũ rồi đến các anh Tiếp, Tính, Tiến-Ðạt, Dương-Ðạt, Khuân, Vang, Tiên, Mười, Thuyên, Tiếu đi kỷ luật. 
Anh Tiếp tử nạn vào sáng ngày 2 tháng 5 năm 1979 vì những trận đòn thù trong một lần trốn trại.  Cùng trốn với anh có LM. Nguyễn Hữu Lễ, Đại tá Trịnh Tiếu, giáo sư Nguyễn Sĩ Thuyên và anh Lâm Thành Văn.  Anh Tiếp bị đánh chết tại chỗ, thân xác anh được trật tự Bùi Đình Thi kéo lê trên những bậc tam cấp qua cửa phòng 5, đường lên khu kỷ luật.
LM. Nguyễn Hữu Lễ không khá hơn bao nhiêu.  Cũng như anh Tiếp, LM. Lễ bị đám cán bộ trẻ đánh hội đồng ngay bờ sông Mã.  Kéo qua cổng gác và tiếp tục đánh cho đến khi ngất xỉu, rũ xuống như xác không hồn.  LM. Lễ thật may mắn, trật tự Thi tưởng ông đã chết nên ném xác anh Tiếp đè lên người ông.  LM. Lễ được trật tự Thi kéo lên khu kỷ luật, liệng bỏ vào phòng như một hành động phủi tay.  Sau này các nạn nhân sống sót sau lần trốn trại kể lại, trật tự Bùi đình Thi cũng tiếp tay cán bộ, đánh đập hành hạ thân xác các bạn tù.
Sau nhiều ngày trăn trở giữa sự sống và cái chết trên nền đá nhơ nhớp, LM. Lễ tỉnh lại.  Thương tích bầm tím đầy người, tiêu và tiểu pha máu kéo dài cả tháng.  Không có thuốc chữa trị, cầm bằng thần chết cận kề.  Nghe Nguyễn Tiến Đạt, một người bạn trẻ trong nhóm Cổng Trời kể lại, mỗi lần trật tự Thi gánh phần ăn lên khu kỷ luật, hắn không dám vào phòng LM. Lễ vì xú uế xông lên nồng nặc, nên gọi Đạt bị giam kỷ luật ở phòng bên cạnh sang làm vệ sinh phòng LM. Lễ.  Lợi dụng khi trật tự Thi ra ngoài, Đạt nhúng chiếc khăn mang theo vào tô nước muối, và vắt những giọt nước muối vào miệng LM. Lễ trước khi lau chùi người ông và dọn dẹp căn phòng.  Có lẽ nhờ những giọt nước muối ấy, phần nào đã làm dịu những vết thương đang loang máu trong cơ thể LM. Lễ, và cũng nhờ ý chí sống còn mạnh mẽ, ông đã thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. 
Anh Lâm Thành Văn chết sau đó một tuần.  Anh bị đau dạ dầy nên phần ăn cứng càng làm dạ dầy của anh chẩy máu.  Khi chết chân của anh Văn vẫn còn trong vòng cùm.  Đại tá Trịnh Tiếu và giáo sư Nguyễn Sĩ Thuyên cũng chẳng khá hơn.  Thân thể bầm dập vì những trận đòn thừa sống thiếu chết, bị cùm xích lâu ngày trong phòng kỷ luật, sức khỏe yếu dần sau lần trốn trại.
Số người còn lại thật khiêm nhượng, khiến căn phòng trở lên quá rộng.  Sàn nằm trên lác đác vài manh chiếu, sàn nằm dưới cũng thưa thớt.  Căn phòng lạnh lẽo như căn nhà hoang.
Số người quá ít để được gọi là một đội lao động, trại biên chế đội 16.  Trại chuyển một số anh em phòng khác qua mà không phân tán số người còn lại của nhóm Quyết-tiến đi các phòng khác. Trại vẫn muốn canh chừng, gom đám Quyết-tiến vào một chỗ, dùng người khác theo rõi.  Như vậy nhóm Quyết-tiến  không thể "lây bệnh chống đối" tới các phòng một khi bị phân tán. Nhân số đội 16 đã được nâng lên thành 65 người.  Vẫn mang danh đội xây dựng, nhưng chưa có một công trình nào cho hợp với danh xưng, vẫn chỉ làm các công việc phụ…

  *












___________

Chú Thích:

Trại Thanh Cẩm

Trại Thanh Cẩm nằm trong xã Cẩm Thành bên bờ sông Mã, thuộc huyện Cẩm Thuỷ tỉnh Thanh Hoá. 

 Xã Cẩm Thành:  Năm 1964 xã Cẩm Thành và xã Cẩm Liên được tách ra từ xã Cẩm Thạch.  Sau khi được thành lập, xã Cẩm Thành gồm có 14 xóm: Chanh, Én, Muối, Vạc, Ngọc, Nấm, Phâng, Bọt, Bèo, Trẹn, Khạt, Chiềng Tràm, Cò Cánh và Hồng Thái.

Diện tích xã Cẩm Thành:  30, 64 km2. 

Phía Bắc giáp các xã: Điền Trung và Lương Trung, (huyện Bá Thước).  Phía Đông giáp xã Cẩm Lương (huyện Cẩm Thuỷ).  Phía Nam giáp các xã:  Cẩm Thạch và Cẩm Liên (huyện Cẩm Thuỷ).  Phía Tây giáp: xã Điền Hạ và Điền Trung (huyệ Bá Thước).
Xã Cẩm Thành nằm về phía Tây Bắc Huyện Cẩm Thuỷ, phần lớn nằm về hữu ngạn sông Mã. Xã Cẩm Thành có tỉnh lộ 217 chạy qua.

Huyện Cẩm Thuỷ:  là một thị trấn của tỉnh Thanh Hoá, gồm 19 xã:  Cẩm Bình, Cẩm Châu, Cẩm Giang, Cẩm Liên, Cẩm Long, Cẩm Lương, Cẩm Ngọc, Cẩm Phong, Cẩm Phú, Cẩm Quý, Cẩm Sơn, Cẩm Tâm, Cẩm Tân, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Tú, Cẩm Vân, Cẩm Yên và Phúc Dó.
Cẩm Thuỷ có diện tích 425.03 km2.  Dân tộc gồm: Mường, Kinh và Dao.
Về giao thông, huyện Cẩm Thủy có đường Liên vận 217 nối vùng Thượng Lào với Biển Đông.
Huyện Cẩm Thuỷ nằm về phía Tây Bắc tỉnh Thanh Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 80Km.  80o/o diện tích huyện Cẩm Thủy là đồi núi.


        Sơ đồ trại Thanh Cẩm
(Xin đón nhận sự góp ý để
 hoàn chỉnh sơ đồ trại Thanh Cẩm)













*

14.


Ðâm sau lưng
Khi chỉ còn hai người nơi đầu hồi nhà ngủ, anh Nguyễn Khắc Linh, buồng trưởng mới nói nhỏ:
-"Hôm nay tôi đi họp các đội Trưởng, có người báo cáo anh xử dụng ngoại ngữ, giảng Anh ngữ cho anh Hướng.  Tôi cho anh hay để đề phòng."
Kim không ngờ mình bị đám ăng-ten theo rõi báo cáo lên ban giám thị trại.  Nội quy của trại có điều "cấm xử dụng hay cất dấu tài liệu liên quan tới tiếng nước ngoài".  Ðó là một vi phạm nặng nề vì cán bộ trại nghĩ là "có ý đồ liên hệ hay làm gián điệp cho ngoại bang".  Vì phạm sẽ chịu hình phạt kỷ luật, nhất là trường hợp của anh, đã bị các trại nhận xét là "xấu, kém" về phương diện cải tạo.  Kim bảo anh Linh:
-"Cám ơn anh cho hay.  Ðể tiện cho anh, trong phiên họp hàng tuần kỳ này, anh cứ nêu ra là có người báo cáo với ban giám thị trại là tôi hướng dẫn anh ngữ cho anh Hướng, tôi sẽ có cách giải tỏa."
Quả thật người báo cáo đã ghi nhận đúng sự việc.  Cách đây mấy tháng Hướng nhận được thư gia đình cho hay, mấy đứa con lớn của anh đã theo dì dượng xuất ngoại bằng đường biển tới Mỹ. Hiện chúng đã đi học bình thường. 
Hướng có ý định dợt lại anh văn, vì bỏ lâu ngày nên quên rất nhiều.  Hướng nhắn gia đình gửi cho anh tập sách học bằng cách tháo rời tập sách dùng làm giấy gói quà.  Hướng đã nhận được vào ngày gia đình đến thăm nuôi.  Kim được xem hình và đọc thư của đám trẻ gửi về.  Anh mừng cho bạn vì có hạt giống nẩy mầm vươn lên nơi vùng đất hứa. 
Từ đó Hướng rất chăm học, như mang sẵn một ước vọng sẽ có một ngày đoàn tụ, mặc dù anh tự hiểu ngày đó thật xa vời.  Những bài học đã được xé rời, cất dấu nơi vườn hoa sau nhà ngủ để tránh những lần khám xét bất thường hay khi đội đi lao động.  Anh đã xé trang sách thành từng mảnh nhỏ gài trong chiếc nón để nhẩm đọc khi lao động hay vào lúc giải lao.  Kim đã giúp anh ôn tập.
Trong phiên họp, anh đội Trưởng nêu ra lời báo cáo, Kim trả lời:
-" Tôi không hướng dẫn Anh ngữ cho anh Hướng như lời báo cáo lên ban giám thị trại, nhưng tôi nhận có giải nghĩa phần cách dùng trên nhãn của lọ thuốc trị bệnh đau dạ dầy, mà trại cho phép anh Hướng nhận khi gia đình đến thăm nuôi…"
Kẻ báo cáo mong có một chút công với trại đã chưng hửng vì lời giải thích của Kim.  Nhưng anh biết mình phải đề phòng hơn nữa, dễ gì bọn chúng chịu buông tha con mồi tưởng chừng đã bắt trọn.
Kim cũng chẳng lạ gì sự việc này, vì trước sau gì cũng có ngày xẩy ra.  Khi biên chế đội, anh hiểu tình đoàn kết sẽ không còn như trước.  Có người khi nghe tên chuyển lên đội 16 đã buồn nản thốt lên:  "Bao nhiêu năm tôi cố-gắng cải tạo cho tốt, không ngờ bây giờ lại chuyển tôi lên đội 16…"
Hắn quá thất vọng.  Trong suốt tháng năm cải tạo, hắn luôn luôn cố gắng mang công sức để cải tạo cho tốt.  Ðể chứng tỏ hắn đã thuần phục "cách mạng", hầu sớm được trở về với gia đình.  Ðám cán bộ trại cũng thấu đáo ước vọng của hắn, biết hắn có thể làm mọi thứ để đạt mục đích.  Một lời hứa mà đám cán bộ đã dùng như một miếng mồi câu nhử những kẻ nhẹ dạ.
Cái mốc xum họp với gia đình ngày càng mờ mịt, lời hứa của cộng-sản vẫn chỉ là lời hứa xuông, là một thứ "vẹm" mà người miền Bắc đã từng nói.  Kim thấy tội nghiệp cho họ, đâu có thể một sớm một chiều được tin dùng như một phần tử trung kiên trong tập đoàn cộng sản.
Dù sao cũng chỉ là con sâu làm rầu nồi canh.  Có một cái gì đã phân cách thành phần ăng-ten với anh em khác trong phòng.  Nhiều lúc anh em trong phòng cũng gặp cảnh đau xót, bực mình vì đám người này, như trường hợp của "Phước bộ binh" với người nằm bên cạnh.
Ngày chủ nhật nghỉ lao động, anh em trong phòng đang vui câu chuyện, chợt Phước nói:  "Tôi phải cho hắn một bài học về tội làm hại anh em.  Không thể đã từng ăn cơm Quốc-gia mà bây giờ đi thờ ma cộng-sản." Phước ngồi tựa tường nơi chiếu nằm của anh.  Người nằm cạnh Phước trở vào phòng, hắn vừa tắm xong nên người ướt nhèm.  Hắn bước lên trên chiếu Phước nằm để lấy quần áo thay, nước từ trên người hắn nhỏ xuống ướt đầm phần chiếu dưới bàn chân.  Phước tức giận bảo hắn: 
-"Sao anh làm ướt chỗ nằm của tôi." 
Hắn không có lấy một lời xin lỗi, lại cao giọng
  -"Ướt một chút có sao đâu…" 
Không kìm giữ được sự tức giận, chẳng để hắn nói thêm, Phước vùng dậy đạp hắn ngã xuống lối đi.  Phước lao theo với những cú đấm, miệng thét: "…đánh cho mày chừa thói làm ăng-ten…"  Hắn vuột chạy khỏi phòng xuống trật tự báo cáo. Sự việc xẩy ra quá nhanh, anh em ngồi gần không kịp can ngăn. Còn Phước bình tĩnh thu xếp đồ dùng cá nhân.  Anh đi kỷ luật nửa giờ sau đó.


  *


15.
Sinh-hoạt trong tù
Số anh em Quyết-tiến còn lại quá ít, còn mới mẻ đối với anh em mới chuyển tới.  Anh em trong nhóm sinh hoạt với nhau, Kim, Hướng và Tiên trở thành bộ ba.  Có lần bác-sĩ Trương-khuê-Quan bảo Kim:
-"Có anh em không muốn liên hệ với bộ ba thuộc "nhóm Cổng Trời" các anh, vì họ sợ ảnh hưởng không tốt tới việc cải tạo của họ.  Nhưng cá nhân tôi muốn gần, vì các anh có lối sống thoải mái, không câu nệ, không bị ám ảnh bởi hình ảnh vàng son ngày trước."
Kim trả lời:
-"Bác không ngại chúng tôi ảnh hưởng xấu tới bác hay sao?"
-"Tôi nghĩ khác mọi người, dù ở hoàn cảnh nào mình cũng phải sống cho vui, đời được mấy lúc.  Biết đâu khi gần các anh, tôi lây cái hên được về sớm không chừng."
Bác bảo bọn Kim có cái hên, vì trải qua bao nhiêu gian truân đầy ải, nhiều lúc như đứng trên bờ vực thẳm, cận kề lưỡi hái tử thần mà vẫn sống nhăn, vẫn tỉnh bơ.  Bác cười nhắc lại câu anh thường nói:  "trời xập cũng thế thôi."
 Bác là người miền Nam vui tính, luôn tươi cười.  Và khi biết bác là bác-sĩ lại biên chế vào đội xây dựng, làm công việc lao động chân tay Kim càng qúy bác hơn.  Chế độ này là thế, vẫn đố kỵ vì nặng tính giai cấp, đã hủy diệt biết bao nhân tài của đất nước.
Trong khi trạm xá không có lấy một y-sĩ.  Sinh mạng 800 con người nằm trong tay hai tù cải tạo miền Nam.  Trại còn cấm các bác-sĩ cải tạo không được chẩn bệnh cho anh em, và các vị đó luôn bị đám ăng ten theo rõi báo cáo.  Tuy vậy, gặp khi anh em bệnh nặng, bác coi thường kỷ luật và bảo cách trị liệu.
Nhiều lúc ngoại cảnh nói lên ý nghĩa thực tại.  Có phải nhóm Quyết-tiến các anh mang một thứ bệnh truyền nhiễm chống đối cộng sản, mà đám cán bộ trại phải ngăn ngừa vì lo sợ lan truyền cho những người ở đây.  Anh thông cảm với các bạn đó, vì cuộc đời của họ quá phẳng lặng, ít bão táp phong ba như các anh đã trải qua.   Chính thâm tâm họ cũng chẳng ghét bỏ các anh, vì cũng là người Quốc-gia, với cùng một ý nghĩ chẳng ưa gì chế-độ cộng-sản.  
Ngoài mấy người làm tay sai cho cán bộ theo rõi sinh hoạt anh em trong trại, để mong có một chút an thân, được hưởng một chút dễ dãi hơn mọi người.  Còn có người đã nhiều lần viết "giấy báo công", tường trình cho quản giáo trại là hắn đã giúp đỡ che dấu cán bộ cao cấp nằm vùng trong khi hắn có uy quyền trong tay. 
Hắn cảm thấy sức khỏe ngày một yếu đi, đã gần đất xa trời, nên mong mỏi sớm được trở về.  Quả thực hắn không chịu nổi sự khổ cực của thời gian lao động khổ sai.  Người cộng-sản trả ơn cho hắn là những năm tháng đau khổ nơi rừng xanh núi đỏ.  Không hiểu trong lòng hắn có một chút hối hận là đã phản bội nhân dân miền Nam.
Bên cạnh những phần tử yếu hèn, lại nổi bật tập thể đông đảo có tư tưởng dứt khoát với chế độ cộng-sản.  Kim gặp ông Trình-quốc-Khánh mới biên chế lên đội 16, một người có tiếng trong đạo Hoà-Hảo.  Ông ít nói nhưng thật hoà nhã, không khiếp sợ trước bạo lực công-sản.  Mối hận với chế độ này khó phai mờ trong lòng ông. 
Ngay từ ngày đầu xâm chiếm miền Nam nhà nước đã đàn áp tôn giáo, ông đã chứng kiến cảnh "Cách mạng" phá phách nơi tôn nghiêm của giáo phái.  Bắt giam những người suốt đời hy sinh với đạo, cứu giúp đồng bào nghèo khổ.  Ông cay đắng khi nhìn thấy nơi tôn nghiêm trở thành khu sản-xuất tăng-gia.  Ông bảo Kim: "sau này chúng ta phải ngồi lại với nhau để làm những việc có ích cho xã hội.  Chúng ta đã có kinh nghiệm về sự chia rẽ bè phái, cả những việc làm đúng và sai.  Chúng ta phải sửa chữa và làm lại những gì đã sai lầm."   
    Sức khoẻ Kim ngày kém hơn, như sức lực của cơ thể ngày một cạn.  Anh nhớ khi về đây được vài tuần, hàm răng lung lay rêm nhức càng khó chịu hơn.  Một chiếc răng hàm đau nhức làm anh suốt đêm mất ngủ, anh đã nhịn đau lung lay chiếc răng.  Anh xuống trạm xá, gặp anh Danh:
-"Tôi nhờ anh nhổ hộ chiếc răng, mấy ngày nay ăn ngủ không yên."
Danh xem chiếc răng đau:
-"Răng đã lung lay nhưng chân còn chắc. Ở đây lại không có dụng cụ nhổ răng, và cũng không ai biết nhổ răng."
-"Bằng cách nào anh cũng bẻ hộ, tôi đã lung lay nó mấy ngày nay.  Có lẽ chiếc răng đã tách rời khỏi nướu, chỉ còn phần lợi dính vào mà thôi."
-"Anh chịu đau nổi không.  Vừa không có dụng cụ lại cũng không có thuốc tê chắc sẽ đau lắm."
-"Anh cứ bẻ đại cho tôi, chiếc răng hàm dưới chắc không có gì trở ngại đâu."
Kim ngồi tựa đầu vào chiếc cột lim trong trạm xá. Tay trái Danh giữ đầu, anh đè ngón cái tay phải vào chiếc răng đau, đẩy vào thật mạnh, chiếc răng bật ra khỏi hàm.  Cơn đau bất chợt làm ê ẩm cả đầu, lan nhanh vào tim.  Kim cảm thấy choáng váng, nhắm mắt trong giây lát. 
Anh cầm miếng bông vê tròn nhét vào lỗ hổng chân răng.  Máu ứa ra ướt đầm miếng bông vừa nhét, anh phải thay thêm lần thứ hai.  Nhìn chiếc răng còn nguyên vẹn, chân răng nhọn hoắt, chưa tới giai đoạn cần phải nhổ.  Nhưng giữ làm sao được trong hoàn cảnh không đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể.  Anh có cảm giác cả hàm răng đang lung lay, sờ chiếc nào chiếc nấy như cần nhổ bỏ.  Kim thường đếm lỗ hổng trên hàm răng, cái này là cái thứ sáu sau 3 năm cải tạo.  Giọng nói của anh hơi thay đổi, có vẻ thều thào, vì hàm răng có nhiều chỗ trống.

&

Tiết trời trở lạnh hơn.  Năm dương lịch tiến gần đến những ngày chót.  Nắng dịu đi nhiều, gió lạnh vào buổi chiều đã làm se làn da.  Sự sống của người cải tạo vẫn vất vưởng, vật vờ giữa chính sách "chỉ-tiêu tiêu-chuẩn," với cái đói cái khổ liên miên.
Trại vừa trải qua một thời gian đói thê thảm của năm 1977.  Một năm gió bão lụt lội phá hoại mùa màng của mấy tỉnh miền Bắc, nhất là tỉnh Thanh-Hóa, dân chúng trong tỉnh không đủ gạo ăn.  Hợp tác xã nông nghiệp có tháng chỉ đủ thóc phát cho các xã viên mỗi người 5 ký, như vậy xay ra chỉ còn hơn 2 ký gạo.  Gạo cung cấp không đủ, nên thực phẩm tiếp trợ vẫn dựa vào ngô, khoai, sắn và bo bo. 
Mặc dù với danh nghĩa Bộ Nội vụ quản lý các trại giam, nhưng thực ra chỉ quản lý về nhân sự, còn về đời sống tù nhân phải tự lo lấy.  Số gạo cung cấp cho các bữa cơm nhằm ngày Lễ, Tết trong thực tế chưa đạt 5% số lượng chất bột tù nhân được hưởng.  Những bữa cơm trong năm gom lại được hơn một tuần. 
     Vì thực phẩm nuôi tù do chính tù nhân làm ra, nên nguồn cung cấp cũng hạn hẹp.  Khoai mì là thứ dễ trồng, ít phải săn sóc từ khi trồng tới lúc thâu hoạch, và một lợi điểm là không kén chọn đất trồng.  Trại cải tạo vốn được lập tại nơi rừng núi, khai phá những khu rừng lim hay soan, nên chất độc đã gia tăng trong củ sắn.  Khoai mì là một loại thực phẩm khuyến khích, vì có thể giữ lâu trong kho khi thái lát phơi khô.
Vì là thực phẩm chính, nên hàng năm món ăn này được kéo dài tới 4, 5 tháng liền.  Ngày hai bữa chỉ thấy khoai mì luộc chấm muối. Chất độc trong củ khoai mì đã tác hại trên khuôn mặt, làm sưng hạch dưới gốc tai, vì vậy hai tai nhô ra, chưa kể đến làn da xám xịt như mắc bệnh lâu ngày.  Mặt mũi do đó khó coi, như chiếc bình sành có quai xách hai bên.  Ăn nhiều đến nỗi nhìn thấy là ớn, nhưng sau khi ăn vẫn thèm vì bụng còn đói, do số lượng phân phối quá ít.
Sau đợt khoai mì được đổi món ngô hạt luộc.  Ðến giai đoạn này căn bệnh được chuyển đến một cơ phận khác trong người.  Nhìn những hạt ngô vàng óng lấy ra khỏi cùi, phơi thật khô vì có thể để lâu trong kho, nên hạt ngô trở thành dắn chắc, mà người miền Bắc đã đặt cho tên "ngô đá răng ngựa."  Vẫn muối hạt, một gia vị trung thành theo sát tù nhân suốt năm, đã trở thành một thức ăn chính.  Ngô hạt được nấu trong chảo lớn, dù có chín vẫn chắc nịch.  Gặp lúc thời tiết xấu, mưa gió lâu ngày, thiếu củi hay củi còn tươi, vì nấu không được chín, hạt ngô cắn ra trong ruột vẫn còn mầu trắng đục. Một bữa ăn đong đầy chén ăn cơm.  Bắp quá dắn khiến hàm răng mau lung lay sau 3 tháng nhai ngô.
Sau mùa ngô đá hàm răng được nghỉ ngơi, dạ dầy cũng đỡ rêm nhức vì tới mùa khoai lang. Ăn có ngon vì thêm vị ngọt, nhai thật êm nhưng mau đói vì chất bột chóng tiêu, chưa kể phần hà làm cho khoai mất vị.
Nhưng chẳng được bao lâu, sau khoai lang đến món cao lương.  Khi mới tới miền Bắc, nhà bếp cho hay trại cho ăn "món cao lương", anh em nghĩ hôm nay phải là đặc biệt.  Nhưng khi phần ăn tới, mới hay đó là hạt bo bo mà miền Nam thường dùng nuôi ngựa, chỉ là thứ thực phẩm trồng trên vùng cao.  Mọi người thấy sợ món ăn cao quý này, vì phần vỏ cứng khó tiêu đã cào rách dạ dầy đến chẩy máu.
Nói chung, khoai mì vẫn là thứ thực phẩm thực dụng, không những đối với tù mà còn đối cả với gia đình cán bộ.  Vào mùa thu hoạch, các xe ba bánh chở sắn đi ngang khu gia đình, mọi người đã đợi sẵn ở bên đường.  Các xe ngừng lại để gia đình cán bộ lấy tùy ý trong khi anh em đẩy xe được ít phút nghỉ ngơi sau đoạn đường dài.  Anh em đều hiểu mặc dù không ăn độn như tù, nhưng số gạo vẫn không đủ cho các bữa ăn trong ngày.  Ngoài ra, họ còn cần thức ăn cho buổi sáng, cho đàn lợn trong kế hoạch tăng lợi tức gia-đình.  Ðể cuối năm có chút dư dả mua sắm vài thứ cần thiết mà tiền lương không giúp họ có thể thực hiện.
Mặc dù diện tích đất trồng mỗi ngày mỗi tăng, thực phẩm thâu hoạch mỗi ngày mỗi nhiều, nhưng khẩu phần hàng ngày của tù vẫn trói tròn 11 ký chất bột mỗi tháng.  Không hiểu trại đã cắt xén bao nhiêu để lấy thực phẩm nuôi trâu nuôi lợn cải thiện vào ngày cuối năm, mà những bữa ăn vốn khiêm nhượng, không đủ chất dinh dưỡng của tù đã teo đi nhỏ lại.
Chính sách tù đầy của cộng-sản thật ưu việt.  Có người cho rằng tù nhân đã nuôi sống chế độ, vì thực phẩm nuôi tù nhà nước không phải lo.  Hơn thế nữa, sản phẩm tù làm ra dư thừa nhưng khẩu phần cấp phát lại hạn chế, ăn không đủ no, nên sức khỏe tù nhân ngày một suy giảm.
Ðói đến nỗi không thể buông tha thứ gì có thể ăn được.  Từ con rết núi lớn bằng chiếc đũa đen mun hay ửng hồng, đến con rắn bất kể độc hay lành, to hay nhỏ cũng là phần chất béo bồi dưỡng cho tấm thân tù vốn thèm khát lâu ngày.  Rồi đến con ếch con nhái lớn độ ngón chân cái cũng được tiếp nhận.  Dù không giống món ếch chiên bơ, nhưng sau khi nướng cũng có vị thơm thịt cháy.  Anh em chia nhau mỗi người cái cẳng, chẳng no được bao nhiêu nhưng cũng có vị béo nơi đầu lưỡi, làm láng bóng đôi môi.
Nhiều khi anh em nhận xét, với chiêu bài "nhân đạo khoan hồng, chỉ tiêu tiêu chuẩn," tập đoàn lãnh đạo đã che dấu hành động tàn bạo là không giết ngay những người cải tạo miền Nam, mà để chết dần mòn trong cảnh đói khổ tại các trại tập trung cải tạo.  Nhưng như một phép nhiệm mầu, sau bao nhiêu năm bị đầy ải, người tù miền Nam vẫn giữ được nét hào hùng, không khiếp sợ trước bạo lực cộng-sản, vẫn tin tưởng ở tương lai tươi sáng.  Phần lớn vì đã thấy rõ thực chất của chế độ, trong khi lòng mang nặng cằm hờn vi thù nhà nợ nước.  Hai chữ "chính nghĩa" đã từng được người cộng-sản nêu cao như một mục đích cao cả, chỉ là thứ hỏa mù, đã phản bội tinh thần dân tộc của nhân dân hai miền Nam Bắc.  Món ăn tinh thần quan trọng này đã giúp người "cải-tạo" miền Nam giữ được mạng sống trong suốt thời gian tù đầy.     
Mặc dầu bây giờ đã vào những tháng cuối năm 78, nhưng ảnh hưởng của cơn đói năm 77 vẫn còn.  Hoa mầu thâu hoạch có gia tăng nhưng thân xác tù vẫn còm cõi.  Cái đói kéo dài làm sức khỏe tù nhân giảm sút, năng xuất lao động xuống theo, không đạt chỉ tiêu như trước kia.  Ðể ổn định, trại cho phép tù nhận quà của gia đình, mỗi tháng một gói cân nặng 3 ký chuyển theo đường bưu điện. 
Tù nhân “hồ hởi” đón nhận chính sách "khoan hồng" của nhà nước, để gia-đình tù tiếp tay nuôi người cải tạo.  Ðúng là một mũi tên hạ hai con chim.  Gia đình người cải tạo phải chắt bóp, đầu tắt mặt tối trong một xã hội mà nền kinh tế trì trệ, không lối thoát, còn phải nuôi thân nhân trong tù.  Ấy là chưa kể tới nạn tham nhũng cửa quyền gây khó khăn thêm cho đời sống nhân dân miền Nam.  Nguồn kinh tế của gia-đình một lần nữa phải chia hai, xẻ ba. 
Nhà nước cũng biết nhân dân càng khó khăn về đời sống càng giảm thiểu được mầm mống chống đối, đòi hỏi tự do nhân quyền, bất mãn chính sách nhà nước.
Còn đối với người tù cải tạo, gói quà dù nhỏ nhưng thật qúy báu, vì nhờ đó nhận được những giòng thư của gia-đình, một niềm an ủi lớn lao trong cuộc sống tù đầy.  Thêm vào đó có một chút chất béo, chất ngọt khả dĩ duy trì được sức khỏe không suy sụp, hầu kéo dài mạng sống.
Về phía trại cũng có nhiều lợi điểm.  Nhờ những gói quà bồi dưỡng, sức khỏe tù nhân khá hơn sẽ nâng cao được thành quả lao động.  Số hoa mầu thâu hoạch vì vậy cũng gia tăng, tăng theo kế hoạch nhà nước.
Phiếu gửi quà đã trở thành một ân huệ, có quyền lực buộc tù nhân phải tuân thủ.  Thành phần “cải tạo tốt” được thêm phiếu gửi quà, điều này đã thúc đẩy những người nhẹ dạ vì nhu cầu cá nhân, đã có hành động phản bội lại tập thể.   
Hôm Kim có tên đi lãnh gói qùa 3 ký của gia đình gửi, có mặt của Ðại-úy Bông, Phó trại Thanh-cẩm, gặp Kim hắn hỏi:
-"Anh Kim đi lãnh quà phải không.  Anh có nhận được quà thường xuyên không?"
Kim nghĩ, anh mới về trại này được vài tháng, nhờ gửi thư các bạn có gia đình đến thăm nuôi chuyển dùm, nên gia đình mới biết anh ở đây.  Anh không có phiếu gửi về, nên không hiểu vợ anh lấy đâu ra phiếu gửi quà cho anh, hay nàng đã mua phiếu chợ đen tại Bưu-điện Sài-gon như lời đồn.  Anh trả lời:
-"Mấy năm đi cải tạo, đây là lần đầu tiên tôi nhận được quà của gia đình."
Đại úy Bông đột nhiên đổi giọng với vẻ mặt tức giận:
-"Gia đình gửi quà cho anh nhiều vào, anh ăn cho khỏe mà chống lại nhà nước."
Anh nhìn hắn im lặng mỉm cười.  Qua khung cửa sổ, bên ngoài tấm vách ngăn, hai anh Tô-tứ-Hướng và Nguyễn-khắc-Linh đội trưởng đang đợi đến lượt vào lãnh quà hẳn nghe rõ câu phó trại nói, Kim nghe hai bạn trao đổi:  "Chuyến này Kim thê thảm rồi, bị Phó trại ghim thì khó mà sống yên thân."  Anh nhìn ra thấy Hướng dơ cao ngón tay cái.
Thiếu-úy Lăng, trưởng ban an-ninh trại mở rộng tấm giấy dầu bọc phía ngoài.  Gói quà của anh thật khiêm nhượng, chỉ có vài món thường dùng.  Chẳng hiểu có phải vì sự chứng kiến của Phó trại với lời vừa nói, hắn đổ bao đường thẻ ra trên tấm giấy dầu, lấy dao chặt mỗi miếng thành nhiều miếng nhỏ.  Rồi đến gói bột đậu nành đổ ra một bên, lấy đầu mũi dao gạt qua gạt lại.  Ðến ống kem đánh răng, hắn mở phần nhôm phía cuối, lấy chiếc đũa tre ngoáy bên trong.  Bánh thuốc lào cũng bị xẻ đôi xé ba.  Chỉ có mấy viên thuốc B1 nhỏ bằng hạt đậu là hắn buông tha không đập vỡ.
Hắn nghi ngờ trong gói quà của anh có cất dấu những thứ trại cấm như tài liệu thông tin hay tiền bạc vo tròn trong thức ăn.  Gói quà của anh trở thành một mớ xà bần, đường bột lẫn lộn nát bấy.  Ðể mặc cho hắn khám, anh vẫn quan tâm tới lá thư gia đình.  Ðã lâu anh không có tin nhà, hy vọng hắn chỉ đọc qua mà không giữ lại cứu xét.  Anh nóng lòng đọc thư để biết phần nào đời sống vợ con anh và gia đình.  Thời gian gần bốn năm trôi qua qủa thật dài, liệu có gì thay đổi.
Gói quà đến với anh thật đúng lúc.  Anh đang ở trong giai đoạn hạn hán đợi mưa, như cây khô chờ từng giọt nước.  Phần thịt trên người anh đã để lại trên trại Quyết tiến, khi về đây thân thể anh chỉ còn da bọc xương.  Thời tiết ấm áp của vùng Bái-thượng, gió mát của giòng sông Mã vẫn chưa làm anh khỏe hơn.  Có chăng chỉ một phần thay đổi là anh được tắm giòng nước mát, có ánh nắng chan hòa, giải tỏa bớt phần nào ưu tư nặng chĩu trong lòng.
Anh đã thoát khỏi vùng núi rừng sương phủ, tránh được phần nào những ám ảnh tăm tối, luôn luôn có ý nghĩ mình đang đi trên đường đến gần đồi Bà Then.
Về đây, lao động đã làm anh đen sạm.  Phần nước trên cơ thể anh như đã thoát ra ngoài, người quắt lại như chiếc khăn khô vắt hết nước. 
Dù sao dưới tập thể vẫn dễ chịu hơn trên kỷ-luật.  Vì cùm xích trong bóng tối lâu ngày, cơ bắp không hoạt-động, sức khỏe tiêu hao nhanh hơn.  Hôm anh em trên kỷ-luật đi tắm, bằng đó người chỉ là những bộ xương biết đi.  Nổi bật nhất vẫn là anh Phạm-dương-Ðạt, nguyên Thiếu tá binh chủng Thủy quân Lục chiến, với chiều cao gần 1.80m, trong khi thân hình gầy ốm trông thật thê thảm.  Anh đã thực sự thay đổi, phải vịn tường chậm chạp, run rẩy lần từng bậc tam cấp.
Kim nhớ khi ở trại Quyết-tiến, ngoài những bữa ngô xay đong đầy một chén, còn có món bánh bột luộc.  Chẳng hiểu là bột đã tồn kho bao lâu, có mầu nâu, nghe nói do Liên-sô hay Hungary viện trợ.  Mỗi người một phần ăn bằng 4 ngón tay ghép lại, chỉ cắn vừa mấy miếng.  Bữa ăn chỉ có bát canh rau muống và miếng bánh bột luộc.  Bát canh húp liền tại chỗ, còn phần bánh mang vào phòng cắt nhỏ bằng đốt ngón tay.  Nằm nhâm nhi từng miếng bánh, cố ý kéo dài bữa ăn, hy vọng chất bột còn dính trong dạ dầy, để cơn đói không đánh thức giấc ngủ vào lúc nửa đêm.
Thân thể dềnh dàng như Phạm-dương-Ðạt mà phần ăn đồng đều với một người cân nặng chỉ bằng nửa anh.  Kim thường nói đùa bảo anh Ðạt: " Chúng mình là xe 8 máy, mà xăng đổ bằng xe máy dầu".  Bây giờ không còn bánh để cắt nhỏ, nhưng các anh trên kỷ luật lại có thú nằm đếm từng hạt bắp luộc, trung bình độ 650 hạt, ít hơn người lao động hai muỗng canh cho mỗi bữa ăn. 
Những ngày cuối năm 78 lần lượt qua đi thật nhanh.  Nhà bếp nhộn nhịp hẳn lên, không hiểu thực đơn cho ngày đầu năm có những gì.  Nghe nói Tết năm nay tù sẽ được ăn khá hơn năm vừa rồi.  Thịt lợn vẫn còn nằm trong tin đồn, còn trâu đã có sẵn.  Ðó là kế hoạch dành dụm, chắt bóp hàng năm lấy ra từ khẩu phần ăn hàng ngày của tù nhân, để nuôi trâu lợn cải thiện vào ngày Lễ, Tết.
Nhưng con trâu buộc dưới gốc bàng trước cửa nhà bếp trông thật thê thảm.  Thân xác nó không khác gì con người cải tạo, lao động tích cực đã gậm nhấm phần thịt trên thân thể.  Nó đứng đó, chiếc đuôi phe phẩy đuổi ruồi, chiếc đầu lắc lư biểu tượng cho sự sống.  Nhưng nhìn nó, Kim có cảm tưởng là bộ xương biết di động. 
Ðến giờ lao động về, gần hai ngàn con mắt dán vào con trâu, lượng định phần thịt còn lại.  Một anh bạn kéo Kim lại gần con trâu pha trò: "Trâu Quyết-tiến có khác, giống như người Quyết-tiến, không thấy cặp mông đâu."
Quả thật, phần thịt trên cặp mông không còn, hốc mông sâu hoắm.  Không hiểu nó còn được bao nhiêu ký thịt để đủ chia cho 800 con người, chưa kể phần ngon dành cho cán bộ nhà bếp.
Kim những tưởng con trâu cải thiện phải mập mạp, trông tạm mát con mắt, vì lấy cơm tù vỗ béo cả năm.  Có thể trại có kế hoạch, con trâu béo tốt khỏe mạnh còn dùng được vào việc cầy ruộng kéo xe, nên thay thế bằng con trâu phế thải, nhiều năm lao động này cho anh em tù hưởng xuân.  Dù sao "có vẫn còn hơn không," như đã từng có nhiều cái không trước đây.
Theo chương trình, nhà bếp cho con trâu làm chủ trong 3 ngày, từ chiều 30 đến ngày mồng 2.  Chiều 30 được kể là huy hoàng, mỗi người được chia hai miếng thịt kho lớn bằng hai đốt ngón tay cộng thêm hơn thìa ăn cơm nước kho nấu bằng nước muối có pha chút nước mầu cho đẹp. Vì số lượng khiêm nhượng, nên nước kho phải lấy muỗng chia cho công bằng, dù không có nhiều nhưng cũng đủ mặn để nuốt trôi hai miệng chén cơm.  Anh em cảm thấy ấm lòng vì có chút mỡ trong dạ dầy.
Ngày đầu năm vẫn là ngày quan trọng, mà phần thịt đã dùng hết vào chiều cuối năm, nên phần lòng và bộ xương dành cho ngày mồng 1 Tết. Thêm một chút rau cải được món lòng xào.  Bộ xương được ninh trong vạc từ ngày hôm trước.  Ninh kỹ đến nỗi, khi vớt xương ra khỏi vạc đã trắng bóng, không còn chút mỡ chút tủy bám vào.  Cho thêm một chút rau bất kể rau gì thành món canh, dù nó mang tên "đại dương."  Mỗi người được gần chén đá.  Bữa cơm trông thật mát con mắt, những hai món với hai miệng chén cơm.  Bộ răng không thấy rêm nhức, hai hàm không thấy mỏi như nhai bắp hay bo bo.
Và cũng để đáp ứng với phong tục tập quán, nghèo khó cả năm nhưng phải no 3 ngày Tết.  Sang ngày mồng 2 con trâu chỉ còn lại bộ da.  Vì thân xác nó gầy còm, nên lớp mỡ lót dưới mặt da cũng khô, không dầy béo như con trâu mập mạp.  Thay vì bỏ vào nồi nấu nhừ thành một chất keo, pha chung với nước vôi quét tường nhà cho bền hơn, trại vẫn muốn tiết kiệm, vì nó còn một chút chất nhờn, vẫn hữu ích cho thân thể tù nhân.
Bộ da được đốt cháy mặt da phía ngoài, trải rộng trên sàn nước, cạo rửa sạch phần da giấy cháy đen, thái thành miếng nhỏ hơn hai đốt ngón tay, đem kho với nước muối có pha một chút nước mầu.  Ðun vừa đủ nhừ để không tan thành keo.  Con trâu gầy, bộ da nhỏ nên mỗi người vừa đủ hai miếng bằng hai đốt ngón tay với chút nước kho.  Nó có vị lạ, mùi gây như chất mỡ thừa, không có hương vị đậm đà như thịt.  Ðó là món ăn sau cùng, nó hiếm hoi vì không nơi nào bầy bán.
Mặc dù phần chia chẳng được bao nhiêu, sau khi ăn vẫn còn đói, nhưng nhai miếng thịt chén cơm vẫn thấy dễ chịu, quen thuộc hơn bo bo hay bắp luộc.  Có thêm một chút dinh dưỡng, cần thiết cho những thân xác khô cằn chỉ đợi ngày tàn lụn. 
Cũng không hẳn là mong mỏi được nghỉ lao động vài ngày để vết thương có dịp liền da, cơ bắp được đều hoà xả dãn mà vinh-quang lao-động đang nhồi bóp hủy diệt.  Anh em mong đợi ngày Tết vì món ăn tinh thần.
Kỷ luật nội quy trại cấm các phòng không được quan hệ qua lại.  Hai dẫy nhà đối diện cách nhau một sân rộng 4,5 chục thước.  Từ cổng gác cán bộ có thể nhìn hết khoảng sân, rất dễ phát hiện những người qua lại liên hệ các phòng.
Nếu một người bạn có gia đình đến thăm nuôi, gửi cho một chút quà, từ viên thuốc B1 đến vài muỗng đường vàng, phải theo bạn về phòng sau buổi lao động, rồi ba chân bốn cẳng hòa nhập với số anh em còn lác đác ngoài sân để về phòng mình.  Nếu bị cán bộ bắt gặp, có thể bị cảnh cáo hay lên nhà nóc bằng nằm nghỉ ít ngày.  Hoặc muốn an toàn hơn, phải nhờ anh em đi lấy cơm mang về dùm.
Chỉ trừ những ngày lễ đầu năm dương lịch hay ngày Tết Nguyên đán, trại cho phép các phòng qua lại vui chơi.  Sáng ngày mồng một, Kim qua phòng 4 với các bạn.  Không còn gì vui hơn là nói chuyện cũ, về chiến tích hào hùng nơi đèo heo hút gió, những món ăn ngon nơi ngõ hẻm Sài-gon . . . Những kỷ niệm thật xa nhưng vẫn làm ấm lòng khi nhắc lại, vẫn là nhu cầu cần thiết để quên thời gian đau thương hiện tại.  Rồi những gian truân khổ ải trong đời sống tù đầy đã làm mọi người xích lại gần, hiểu nhau hơn, thông cảm hơn. 
Ngày chủ nhật sân trại vắng tanh vì trại cấm các phòng qua lại.  Kim nhìn về phía cổng gác, tìm lúc cán bộ trực gác đi khuất, băng qua khoảng sân rộng cuối hội trường để sang phòng 4.  Một số bạn “mê” giọng ca của Nguyễn Hữu Phúc, Đại úy Không Quân, các bạn thường gọi anh là “Phúc giặc lái”, đã quây quần ở sàn trên.  Mọi người yên tâm vì có một số anh em ngồi nơi cổng ra vào buồng, canh chừng cán bộ tới kiểm soát.
Bên ly trà bốc khói, Kim và các bạn lắng nghe Phúc hát, giọng hát trầm ấm, êm dịu diễn tả nỗi lòng thương nhớ cố nhân.  Mà hiện tại chỉ còn là “Hoài Cảm”, âm hưởng nghe như đứt đoạn “…chờ hoài nhau trong mơ, nhưng có bao giờ thấy nhau lần nữa…”  Tất cả chỉ còn lại ngậm ngùi để “…nhớ nhau muôn đời mà thôi…”
Khi Phúc hát đến khúc ca “Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt” của nhạc sĩ Nam Lộc. giọng ca của Phúc trở lên day dứt, uất nghẹn như tiếng nấc tự đáy lòng làm nhạt nhòa nước mắt.  Tất cả đã chìm vào dĩ vãng với những tiếc nuối “…Sài Gòn ơi!  Ta đã mất người trong cuộc đời…, Sài Gòn ơi!  Thế là hết thời gian tuyệt vời…”
Sài Gòn đã trở thành bất diệt, không thể thiếu trong tâm tư người miền Nam, đã lưu lại trong lòng người tới đây những hình ảnh dịu dàng nhưng trung thực.  Cũng nhờ tính “Người Sài Gòn” ấy, đã chan hòa một thứ tình cảm quyến luyến, bao dung của người mẹ hiền, dang rộng vòng tay ấp ủ những đứa con lạc lõng.  Và chính “Người Sài Gòn” ấy cũng thể hiện sự mời gọi của một người tình tha thiết thủy chung.  Sài Gòn là nơi chốn đượm tình yêu thương.  Vì vậy, xa Sài Gòn vẫn nhớ, vẫn mong muốn trở về.

Pha trộn những bản nhạc đầy vẻ căm hờn của các bạn trong tù sáng tác, hay những bản nhạc ghi dấu một Sài-gon yêu thương đã mất, gợi nhớ dĩ vãng êm đềm và nhắc nhở không quên thù cũ.   
Vào lúc này trại đã thành lập đội văn nghệ, tập trung anh em cải tạo có khả năng âm nhạc và diễn xuất.  Những buổi trình diễn văn nghệ của tù cải tạo miền Nam, đã lôi cuốn cán bộ trại Thanh Cẩm và gia đình của họ.  Hình ảnh của Nguyễn Hữu Phúc, hóa trang thành một phụ nữ Hré, trên sân khấu với khúc ca “Bóng cây Khơ Nia”, một bài thơ  của tác giả Nguyễn Ngọc Anh sáng tác vào năm 1958, do nhạc sĩ Phan Thanh Nam phổ nhạc, đã lôi cuốn người xem, với lời ca:

“Trời sáng em lên rừng
Thấy bóng cây Khơ Nia
Bóng ngả che ngực em
Về nhớ anh không ngủ
……….”
Anh em cải tại cũng thích thú những buổi trình diễn văn nghệ, vì là dịp nói chuyện, gặp gỡ các bạn khác phòng mà kỷ luật trại nghiêm cấm vào những ngày thường.  Tiếp đến 6 câu vọng cổ do anh Mười Muôn ca, khiến gia đình cán bộ không ngớt trầm trồ khen tặng, đã gợi lên dấu hiệu chuyển đổi trong tâm tư của người miền Bắc.  Với cùng một bản nhạc do anh em tù cải tạo trình diễn, âm hưởng không còn sắt máu như ca sĩ miền Bắc, mà dịu dàng hơn, mang nhiều nét xúc cảm hơn. 



*

























16.


Cách mạng thành công

Qua ngày lễ đầu năm dương lịch đã thấy Tết Nguyên Ðán cận kề.  Theo phong tục, dù ở hoàn cảnh nào, Tết vẫn là những ngày quan trọng.  Ðối với mọi gia đình, nếu không thay thế vật dụng trong nhà bằng thứ mới, căn nhà ở  cũng phải sơn quét sửa sang cho sạch sẽ.
Ðội 16 chưa có công tác nhất định, nên được phân  thành từng nhóm tùy theo nhu cầu trại.
Kim, Hướng và anh Tsé được phân công quét vôi khu gia đình cán bộ.  Một dẫy nhà lợp tranh tường gạch gồm 6 căn ở trên một nền đất cao, mỗi Căn có hai phòng.  Trần nhà bằng cót đã cũ, có chỗ thõng xuống rời khỏi khung tre.  Trong nhà chỉ có một ngọn đèn điện không đủ sáng vào ngày mưa gió.  Qua những lỗ hổng trên trần, ánh sáng xuyên qua những lỗ nhỏ trên mái rọi xuống những vệt sáng dài.  Mỗi gia đình ở một căn, bất kể con đông hay ít.
Vào giờ giải lao, Kim gặp một nữ cán bộ là sĩ quan công-an.  Không hiểu anh Tsé nói gì mà cô rất vui, có lẽ vì là người đồng hương vùng Lai châu.  Thấy cô ngồi nhặt một rổ hoa đu đủ đực, Kim hỏi:
-"Cô nấu món gì với hoa này?"
Anh Tsé nhanh nhẹn trả lời:
-"Ðây là món ăn đặc biệt của người Thái, thường xào với thịt lợn, vị rất ngọt và bùi."
Nghe anh nói Kim cũng biết vậy vì chưa ăn bao giờ.  Trước kia anh đã ăn món trái đu đủ xào thịt khi về làng Thạch-Lỗi thuộc tỉnh Hải-dương, lát đu đủ đã ửng vàng có vị ngọt dịu sau khi xào.  Anh chưa ăn hoa, nên không biết vị nó ra sao.
Cô góp lời:
-"Xào với thịt lợn thì ngon hơn, nhưng bây giờ thịt đắt quá, nên chỉ xào với mỡ."
Kim hỏi cô:
-"Chúng tôi ở trại đã lâu nên không rõ giá chợ bây giờ ra sao."
Cô nhìn Kim bỗng nói:
-"Vào lúc chiến tranh giá thịt chỉ có 7.50$, mà bây giờ 1 ký thịt lợn lên tới 40$."
-"Tôi nghe nói sinh hoạt xã hội đã dễ chịu hơn trước, nhiều thứ xuống giá.  Nước nhà đã thống nhất nên việc vận chuyển thuận lợi hơn trước."
-"Thực ra giá chợ đã tăng rất nhiều, mọi thứ đã lên giá so với trước ngày thống nhất."
Chẳng phải một mình cô, mà cả nhân dân miền Bắc đều nghĩ như thế, họ ngỡ ngàng vì thấy nhiều thứ không giống như trước.  Họ chỉ biết tin tức qua cơ quan truyền thông của nhà nước, và vẫn đinh ninh dân tộc Việt-Nam anh hùng, là giầu mạnh, là đỉnh cao trí tuệ của thế giới loài người.  Cô đã từng uống nhiều viên thuốc thần diệu, ngọt lịm.  Nhưng không hiểu sao bây giờ, cũng cùng một thứ thuốc mà cô cảm thấy đắng.  Hay nó chỉ là viên thuốc bọc đường, mà chất ngọt đã tan nhanh, chỉ để lại vị cay đắng bên trong.
Cô đã hồ hởi phấn khởi đón nhận cái vinh quang của ngày đất nước thống nhất.  Cô thố lộ gia đình cô cha truyền con nối mấy đời làm cách mạng, một lòng chống thực dân phong-kiến.  Và đến đời cô, đã mấy chục năm đóng góp công sức cho Ðảng và nhà nước, chỉ mong có một đời sống yên vui, no đủ.  Nhưng sự thật trái ngược, sau khi cách mạng thành công, khó có được một ngày vui.  Cô ra khỏi vùng đất Lai-châu, quê hương thân yêu của cô, để được tới góc núi miền Bái-thượng.
Kim thông cảm với nỗi thất vọng của cô.  Mường tượng cô đang cố nuốt viên thuốc đã tan đường, mà vị đắng làm nghẹn nơi cuống họng.
Thực ra nhà nước cũng biết đời sống dân chúng khó khăn.  Nhưng làm sao được, đâu có thể nói thật, nói thẳng với dân.  Nhà nước cũng có cái khó khăn, đang phải trả số nợ ngập đầu mà các nước đàn anh đã viện trợ để có phương tiện đánh chiếm miền Nam.  Cả miền Bắc xúm vào cuộc chiến, nguồn nhân lực hùng hậu cả về phẩm lẫn lượng, thay vì dùng phát triển kinh-tế lại đem hủy diệt trên các chiến trường.
Rồi bộ đội giải ngũ tập thể, không đủ công ăn việc làm, ấy là chưa kể đến thương bệnh binh, nhà nước phải in cho nhiều tiền, dù chỉ là tấm giấy lộn.  Vì vậy cũng ký thịt, cách nhau không bao lâu, giá tăng lên gấp mấy lần.
Kim, Hướng và bác Trần-duy-Ðôn trở lại khu gia đình cán bộ, quét vôi làm nền cho nhà cô Thủy.  Anh chưa gặp vợ chồng người nữ cán bộ này bao giờ.
Như mọi lần Hướng và bác Ðôn phụ Kim quét vôi căn nhà ngoài trước.  Từ lúc đến bắt đầu làm anh vẫn nghe tiếng trẻ nhỏ khóc trong buồng, Kim hỏi cô:
-"Sao cháu nhỏ khóc nhiều thế?"
-"Cháu bị nóng mấy bữa nay mà còn đi cầu nữa."
Ðứa con gái mới một tuổi đang oằn oại trên tay mẹ.  Anh có 5 đứa con nhỏ, tự tay anh săn sóc coi chừng chúng khi đau ốm, nên anh có chút kinh nghiệm.  Nắm tay chân đứa nhỏ, hơi nóng lan nhanh sang tay anh.  Nó đang lên cơn sốt cao.
-"Cô đưa cháu xuống trạm xá chưa?"
-"Tôi có đưa cháu tới, các anh chỉ có thuốc cảm thường mà không có thuốc đau bụng."
-"Cô xem có phải cháu mọc răng không?"
-"Chắc không phải mọc răng, vì cháu hay rướn người lên và đi cầu mầu đen."      
Anh nuôi con nên biết, khi chúng mọc răng, tập nẫy tập bò thường đi cầu hoa cà hoa cải.  Anh bảo cô Thủy:
-"Bây giờ sắp đến giờ nghỉ trưa, để tôi về trại hỏi anh em xem thuốc men thế nào, chiều đi làm tôi cho cô hay.  Bây giờ cháu đang sốt cao, cô lấy chanh tươi cắt vài lát xoa vào người cháu để hạ cơn sốt."
Anh thấy tội nghiệp đứa nhỏ, cơn nóng làm nó mềm nhũn.  Anh yên tâm khi các con anh đau ốm vì có bác-sĩ trông nom, thuốc men đầy đủ, còn ở đây con người phải bó tay trước căn bệnh.
Kim về trại hỏi Dược-sì Diệm sau khi tả bệnh trạng đứa nhỏ, bác cho hay đứa nhỏ có triệu chứng nhiễm trùng đường ruột. - đây thiếu thuốc, nhưng có một cách có thể chữa được.
Vào giờ lao động buổi chiều, anh bảo cô lấy gạo rang vàng, đem đun nước cho đứa nhỏ uống.  Khi còn ở ngoài Bắc, gia đình anh thường uống nước gạo rang thay trà vào muà hè.  Nước gạo rang có bỏ thêm lát gừng tươi cho thơm.  Cha anh thường nói nước gạo rang rất mát, nếu uống không quen dễ bị sôi bụng, do đó cần bỏ thêm miếng gừng cho đều hoà và tăng vị thơm ngon.
Ðứa nhỏ bớt khóc, dễ chịu dần.  Qua ngày hôm sau các anh trở lại làm tiếp nền nhà, cô Thủy cho hay đêm qua con cô bớt quấy, cơn nóng cũng đã giảm nhiều.  Anh lưu ý cô phải giữ vệ sinh khi cho đứa nhỏ ăn hay bú sữa.  Thực ra khó mà giữ cho đúng, vì các trẻ nhỏ được giao cho nhà giữ trẻ khi cha mẹ chúng đi làm.  Nhà giữ trẻ lại tăm tối, mất vệ sinh.
Chỉ còn ít ngày nữa là Tết, đội trưởng cử Kim, Hướng và Cảnh trở lại khu gia đình sửa nhà cho cô Tư, một sĩ quan công-an.  Các căn nhà có tình trạng giống nhau, cần phải sửa toàn bộ.  Khi đến nơi cô Tư nói:
-"Các anh sửa hộ tôi nền nhà, nhiều lỗ hổng quá, các cháu vấp ngã luôn."
Kim nhìn nền nhà, không còn chỗ nào nguyên vẹn, bằng phẳng, lỗ chỗ như tổ ong.  Không hiểu của cải dành dụm được bao nhiêu, nhưng khung cảnh trước mắt trông thật nghèo nàn.  Căn ngoài dùng làm phòng khách chỉ kê một chiếc bàn và 4 ghế đẩu gỗ trơn, một giường khung gỗ kê sát vách ngăn với buồng trong.  Anh không thấy bàn thờ tổ tiên.  Căn phòng trong dùng làm phòng ngủ cũng không khá hơn.  Anh hỏi cô Tư:
-"Cô muốn làm lại nền phòng ngoài hay cả phòng trong?"
-"Cận ngày Tết rồi, các anh sửa giúp cho phòng ngoài, còn căn trong ra ngoài ngày tôi tính sau.  Xi-măng và cát để phía trước, tôi vào cơ quan một chút, các anh cần gì cho biết." 
-"Cô có ý định quét vôi trong nhà không?"
-"Tôi cũng muốn quét vôi trong nhà, nhưng cận ngày quá sợ làm không kịp." 
-Từ giờ đến Tết còn hơn một tuần.  Cô xin vôi chúng tôi sẽ quét nhà cho sạch.  Làm chỉ mất hai ngày, cô còn dư thì giờ sửa soạn Tết."
Kim nói với hai bạn:
-"Nếu vá những lỗ hổng trên mặt nền vừa khó làm lại cực thân, mà chỗ vá chỉ vài ngày là bong ra."
Hướng góp lời:
-"Anh tính sao?"
-"Tôi nghĩ để dễ làm và đỡ mệt công, chúng ta đập sơ mặt nền, rồi cán lên một lớp mỏng vài phân, như vậy sẽ nhanh hơn."
Hướng cười phụ họa:
-"Anh là thợ chính, anh Cảnh là thợ phụ còn tôi chỉ là thợ vịn.  Cách nào cũng tùy ý các anh."
Sau khi quét hai nước vôi phần tường trong nhà, cán 3 phân hồ lên mặt nền cũ, rắc xi-măng bột đánh láng mặt nền.  Anh nhặn cô Tư:
-"Cô giữ cho hai ngày.  Tôi đã ngăn cửa ra vào giữa hai phòng, sợ các cháu nhẩy vào, nền còn ướt dễ in nốt chân."
-"Chúng tôi sẽ đi cửa sau vài ngày."
Cô mời mỗi người một ly trà xanh nóng hổi.  Kim nhớ khi còn ở ngoài Bắc, người dân ngoại ô thành phố Hà-nội thường bán nước trà xanh nóng trong nồi ngoài phủ bao bố.   Nước trà nóng bốc khói ánh lên một mầu xanh pha sắc vàng.  Uống trà bằng bát sành trông thật nghèo nàn, nhưng sau này anh mới hiểu là chiếc bát dầy sẽ giữ cho trà nóng lâu, nhất là mùa đông tháng rét.  Khi vào miền Nam gia đình anh đã quen uống trà xanh, vị trà ngọt dịu có pha một chút chát của nhựa lá.  Uống lâu thành nghiền.  Bẵng đi mấy năm không uống, vị trà thơm ngọt vô cùng.
Cô Tư hỏi Hướng, Cảnh rồi quay qua Kim:
-"Gia đình các anh đã tới thăm nuôi chưa?"
Kim trả lời:
-"Tôi có nhận quà gia đình gửi qua bưu điện.  Các con tôi còn nhỏ nên nhà tôi khó đi xa.  Trong ba chúng tôi, chỉ có anh Hướng gia-đình vừa tới thăm."
-"Tôi thấy gia đình các anh ra thăm mang hàng trăm ký quà, ăn cả năm chưa hết.  Khi khám quà tôi thấy đầy đủ mọi thứ."
Hướng góp lời:
-"Chúng tôi thiếu dinh dưỡng đã lâu, không thể ăn dè được.  Hơn nữa anh em chia nhau mỗi người một chút cho vui, vì vậy gói quà cả trăm ký chỉ được một hai tháng là cùng."
Kim đồng ý với Hướng, cuộc đời tù cải-tạo "no nhất thời đói muôn thuở".  Nay ở mai đi, di chuyển bất thường,  biết cách nào mà mang, mà giữ để ăn dè.
-"Nhìn thân nhân các anh tới thăm nuôi, tôi biết gia đình các anh rất khá giả, mặc dù các anh đã đi cải tạo mấy năm nay…" cô nhìn quanh căn nhà tiếp lời:  "Nhà cửa của các anh trong Nam hẳn là khang trang đẹp đẽ,  chẳng bù cho chúng tôi, nhà cửa nghèo nàn chật chội."   
     Kim nhìn người nữ cán bộ trước mặt đang diễn tả thực trạng đời sống của mình, nét mặt chứng tỏ lời nói.  Vì ở địa vị cô, là người đang có quyền, không cần phải nói một lời "xuống nước" trước mặt những người cải tạo.  Nên khi nói ra, phải là lời thành thật, một nhận xét sau thời gian chung đụng với tù cải tạo miền Nam.
Kim trả lời cô:
-"Chúng ta ở hai hoàn cảnh đời sống khác nhau, nhưng có điều cần thiết là phải sống vui.  Ngày Tết đã gần tới, cô hãy sửa soạn để vui xuân."
-"Cám ơn các anh đã sửa nhà giùm tôi. Sau khi quét vôi và cán nền mới, căn phòng sáng sủa hẳn lên."
Ðây là người cán bộ thứ hai anh gặp.  Mặc dầu chưa bước chân vào miền nam, nhưng tự họ đã so sánh hai cảnh sống, và tìm ra sự thật về lời tuyên truyền của nhà nước mà họ từng học tập trước đây. 

&

Sau mấy ngày mưa nặng hạt, khu gia đình cán bộ không căn nào là không dột.  Nước mưa xuyên qua lỗ dột trên mái tranh khiến nền nhà ướt nhẹp.  Ðội 16 cử một số anh em tới thay lớp tranh cũ…
Trời về chiều, bất chợt gió thổi mỗi lúc một thêm mạnh.  Bầu trời đục mây như thấp hẳn xuống.  Từng cụm mây đã chuyển thành mầu xám đậm đang ùn ùn kéo tới từ phương đông, hứa hẹn một trận mưa nặng hạt không xa.
Ðứng trên đòn vông, Kim nhìn suốt hai mái tranh, mỗi bên chỉ còn gần một thước nữa là tới nóc.  Bình thường làm thong thả chỉ mất hơn một giờ là hoàn tất.
Bầu trời đã thẫm mầu hơn.  Ánh sáng yếu ớt của buổi chiều như không xuyên qua nổi màn mây đục.  Gió mang hơi lạnh tới sát một bên.  Kim ngồi nghiêng người như muốn nấp sau chiếc nón lá để tránh làn gió lạnh chợt ào tới.  Anh vội dơ tay giữ nón nhưng không kịp nữa, gió đã thổi chiếc nón vuột khỏi đầu, rơi xuống sân, trượt dài trên nền đất ướt.
Mưa bắt đầu nặng hạt, xối tới tấp xuống mái tranh, lạnh rát làn da hở ngoài lớp vải mỏng.  Người anh ướt đẫm, hơi lạnh đã thấm sâu vào da.  Gió thổi mạnh hơn, uốn cong những cành cây nhỏ, lá rũ nghiêng ngả như mái tóc dài sũng nước.  Cảnh vật trong mưa thật ảm đạm.
Mọi người đã rời khỏi mái tranh để tránh cơn mưa lạnh.  Kim đứng dưới mái tranh, lần vải ướt như dính chặt vào da.  Nhìn vào trong nhà, gió đang lùa những hạt mưa xuyên qua phần hở trên nóc, khiến căn phòng ướt nhẹp.  Ðám trẻ con đang chạy mưa, chúng ôm chăn chiếu áo quần nấp vào góc nhà dưới mái che.  Tấm cót trần lâu ngày hư cũ, rách nát loang lổ không ngăn được những hạt mưa đang xối mạnh.
Kim và các bạn thấy đám trẻ chạy mưa mà tội nghiệp.  Anh quay qua anh Trương Văn Tuyên (Đại úy, Ðà-lạt):
-"Nhìn đám trẻ chạy mưa lòng tôi thật ái ngại.  Chúng như con cái mình đâu biết gì là hận thù.  Ðêm nay nhà không có nóc, trong nhà như ngoài sân trống, tránh sao khỏi ốm đau.  Anh tính sao, có làm nốt phần nóc không?"
-"Cái đó tùy anh.  Nhìn đám trẻ ướt nhẹp mà thương.  Anh thử hỏi các bạn xem sao."
Kim quay qua hỏi các bạn đứng gần:
-"Các anh nghĩ sao, có định làm tiếp không?"
Hướng góp ý:
-"Anh định làm bao lâu thì xong.  Cơn mưa này dai và nặng hạt, sợ mưa hết đêm nay chưa dứt.  Ngồi lâu trên mái các anh có sợ lạnh không?"
-"Tôi đã nghĩ tới điều đó.  Chúng ta không cần nhiều người lên mái, bẩy người là đủ và khi ai thấy lạnh thì xuống dưới ngay.  Mỗi tấm tranh cần buộc hai lạt, ngày mai trời tạnh chúng ta sẽ làm lại.  Bây giờ làm độ 30 phút thì xong."
-"Chúng tôi đồng ý, vậy anh cắt đặt công việc đi."
Kim nói với các bạn:
-"Anh em nào lên mái hãy vào bếp hút thuốc, uống nước và sưởi cho ấm.  Còn các bạn khác ném tranh lên mái cho đủ lợp."
Tranh được đưa lên mái xếp dọc theo đòn vông.  Kim coi lại bó lạt.  Anh chọn những bó dẻo mềm, hai đầu đã cắt nhọn dễ xâu qua tấm tranh mà khi buộc lại không gẫy.
Mọi người lên mái làm nốt phần nóc dở.  Mưa vẫn nặng hạt, gió rít từng hồi thổi qua mép lá.  Bầu trời tối hẳn lại…  

        &

Công tác lớn phải xử dụng cả đội vẫn chưa có, nên đội cử một số anh em chở gỗ cho cán bộ Tuy, nguyên là trung-úy phụ trách ban giáo dục.
Nghe hắn về hưu Kim ngạc nhiên, vì hắn còn trẻ quá.  Nhà nước vẫn có thể xử dụng hắn như chiếc máy hát, nhái lại những bài đã thuộc lòng.  Kim nhớ khi anh mới tới đây trại sinh-hoạt liên miên.  Hàng tuần kéo nhau lên căn hội trường ở giữa sân trại nghe hắn giảng.
Chỉ có một bài thuyết trình nghe mãi từ Nam ra Bắc đâm ra nhàm chán.  Người miền Nam vốn dễ tính, văn học lại không cầu kỳ, thành thử anh đã ngớ ngẩn trước những danh từ lạ tai.  Những ngày mới vào tù, khi gọi đi "lấy cung" thì họ bảo là đi "làm việc."  Rồi danh từ đơn giản bị chê là nặng tính Hán học nên đổi thành "giản đơn" cho ra vẻ đại chúng.  Vì ý-tưởng giản đơn nên những bài thuyết trình về "ba giòng thác cách mạng" đã khiến anh không thấu triệt nổi "đường lối xã-hội chủ nghiã."
Thành thử, Kim và số đông các bạn luôn cố-gắng đi sau và ngồi phía dưới, với lý do chính đáng là ở trên không đủ chỗ ngồi.  Dù căn hội trường không có tường bao quanh và mái tranh thật cao, anh vẫn cảm thấy thoáng khí hơn khi ngồi nơi bậc tam cấp cuối hội trường.  Vì hội trường vừa rộng vừa dài, nên khi cán bộ Tuy giảng bài các anh đã không mấy quan tâm, cùng nhau chuyện gẫu.  Do đó, trong suốt bao nhiêu năm "học tập cải tạo," anh không có lấy một chữ vào đầu.
Thế rồi không lâu, các buổi sinh hoạt toàn trại lơi dần.  Trước cách tuần sau cách tháng và ít lâu nay không thấy hắn xuất hiện ở hội trường.  Cũng chẳng thấy cán bộ nào tới thay thế hầu giữ nhịp giảng dậy nội quy chính sách ở mức độ bình thường, một nhu cầu cấp thiết của các trại cải tạo.
Hay trại cho là anh em cải tạo đã thông suốt chính sách nhà nước nên không cần phải học tập.  Cũng có thể vì căn hội trường quá tiêu điều, mái tranh tơi tả như cặp cánh gà chọi sau một trận đòn thê thảm, không có thể dùng làm nơi thực thi chính sách, phổ biến pháp quyền, để mọi người có thể lầm tưởng đó là biểu tượng uy quyền nhà nước.
Mặc dù ngoài mặt hắn có vẻ hiền lành, nhưng anh em khó có cảm tình với hắn.  Vì hắn chót đại diện pháp quyền cho một nhà nước thu hẹp.  Suy tụng chính sách ưu việt, về học-thuyết bách chiến bách thắng…là những thứ mà anh em cải tạo miền Nam căm thù tận xương tủy, nên ghét lây đến hắn.
Nghe tin hắn về hưu non, anh em cũng tội nghiệp cho hắn.  Ðúng ra ở tuổi này, sau nhiều năm hắn sống chết với nghề, đã chín mùi, kinh nghiệm đầy mình, đòn ắt phải độc.  Nhưng không hiểu sao hắn bị thất sủng, có phải vì nhà nước đã vắt hắn kiệt sức như trái chanh khô nước.  Hay trong lòng hắn đã nẩy sinh một chút hoài nghi, nhiều điều thắc mắc sau khi chung đụng với anh em cải tạo miền Nam.
Cũng giống như lần một cán bộ trẻ bảo Kim: "các anh ra đây để chúng tôi cải tạo, nhưng thực ra, các anh đã cải tạo chúng tôi…"  Người cán bộ trại Thanh-cẩm này đã nghĩ gì.  Hay hắn đã có dịp so sánh, nhìn rõ mặt trái những thứ, mà hắn được giảng dậy, vẫn cho là khuôn vàng thước ngọc là kim chỉ nam cho xã hội loài người, tất cả chỉ là ảo tưởng.
Nhà nước đã buộc "mọi người cả nước phải có chung một ý nghĩ, phải làm cùng một hành động, phải nhìn cùng một hướng mà nhà nước đã chọn lựa."  Có như vậy mới thực thi đúng đường lối xã hội chủ nghĩa.
Hắn đã dại dột không nhìn cùng một phía như đã chỉ định.  Hắn không còn chỗ bám víu, như kẻ hụt chân bên bờ vực thẳm, không còn chỗ cho tinh thần nương tựa.  Vì vậy ý nghĩ và hành động có hơi lưng chừng, mà nhà nước cho là lạc hướng.
Nhưng dù sao hắn cũng hy sinh cả tuổi trẻ cho Ðảng, cũng đóng góp công sức để xây dựng xã-hội chủ-nghĩa thành công như ngày hôm nay.  Hắn được hưởng một chút ân huệ,  trại cho một ít gỗ rừng để hắn sửa lại căn nhà cũ đã xiêu vẹo.
Sau khi gỗ được xếp vào sau nhà, hắn mời anh em uống bát nước trà xanh.  Hắn hỏi thăm gia đình anh em cải tạo, rồi bất chợt vì ngẫu hứng, vì lạc hướng hay đang mang niềm uất ức trong lòng, hắn nói:
-"Bây giờ tôi đã về hưu, trước đây nhận trách nhiệm giảng huấn, tôi phải nói theo chính sách…"
Kim ngạc nhiên trước câu hắn nói.  Có thực hắn cần giãi bầy tâm sự với anh em cải tạo vào lúc này không.  Anh thấy thương và cũng mừng cho hắn.  Dù ở tuổi này đã muộn, nhưng ít nhất tâm hồn hắn còn được một chút yên ổn trong những tháng ngày còn lại.
Và một lần khác, một cán bộ trẻ coi đội thường hay hỏi về sinh hoạt đời sống Sài-gon ngày trước.  Có lần hắn nói:
-"Có phải đời sống trong Nam trước đây bị bọn tư bản bóc lột, thị-trường cạnh tranh, gía cả lên xuống bất thường.  Còn ngoài Bắc nhà nước quản lý nên gía rất vững."
Anh đã bảo hắn:
-"Gía cả thị trường trong Nam có lên xuống, nhưng vì cạnh tranh, sản phẩm bán ra phải tốt và rẻ hơn.  Như vậy người dân có quyền chọn lựa những thứ mình thích, và có lợi vì được hưởng phần gía rẻ và sản phẩm tốt hơn."
Trong một lần khác hắn bảo anh:
-"Ngoài Bắc nhất trí từ trên xuống dưới.  Quyết định của Ðảng và nhà nước đưa ra toàn dân một lòng thi hành."  Hắn hỏi anh trong Nam tổ chức chính quyền ra sao.  Anh cho hắn hay sinh hoạt chính trị miền Nam chia làm ba quyền, với mục đích bảo vệ quyền tự do của người dân.
Sau một phút im lặng, hắn bỗng nói: "như vậy tổ chức chính quyền miền Nam tốt hơn."  Kim và các bạn ngạc nhiên về nhận xét của hắn.  Một sự nhận xét không thể thành hình trong giây phút, mà phải trải qua nhiều suy tư trong cuộc sống.  Hắn đã thấy rõ những bất công trong xã hội, và trong lòng lớp trẻ như hắn cũng muốn một sự đổi mới trong đời sống xã hội ngày càng đi xuống.


*

17.
Hồi tưởng
Không khí Tết có vẻ tưng bừng hơn ngày lễ khác, tù nhân được nghỉ nhiều ngày hơn.  Về đây, anh không còn nghe thấy tiếng súng như khi còn ở trại Quyết-tiến, Hà-giang, nhưng không khí chiến tranh từ phương Bắc cũng ít nhiều ám ảnh người dân miền Bắc.  Ðược cái dân tộc Việt như đã tập quen với cuộc chiến dài ngày, người ta mau quên những sôi động, chết chóc ở xa quá tầm tay, vì phải đối diện với giặc đói trước mắt.
Ðối với tù cải tạo miền Nam, nhìn cuộc đời bên ngoài với đôi mắt dửng dưng hơn.  Cuộc chiến của họ không đơn thuần, không chỉ gói trọn trong cái đói liên miên soi mòn cơ thể.  Không hẳn là cái cực nhọc của năm tháng lao động khổ sai, kể cả tai nạn lao động, bệnh tật hiểm nghèo luôn đe doạ mạng sống.  Mà cuộc chiến ghê sợ nhất đối với họ lại ở chính nội tâm.  Họ phải quên dĩ vãng, không ước vọng tới tương lai, phải xóa bỏ hủy diệt tất cả, con người phải trở thành một thứ vô tri.     như  vậy  mới  đáp  ứng  được  với chính sách "an tâm cải tạo" của nhà nước Xã-hội Chủ-nghĩa. 
Nhưng khổ một nỗi, vì bản năng sinh tồn, vẫn nặng lòng với tình cảm yêu thương.  Mặc dù mục tiêu giúp con người hăm hở trong cuộc sống đang tàn lụn, vẫn mong bám lấy một chút ảo ảnh để sống.  Vì vậy nội tâm luôn xung đột giữa hy-vọng và chán chường.  Đời sống tinh thần của người tù cải tạo khi vui lúc buồn bất chợt, phấn khởi lo âu lẫn lộn.  Tâm tư luôn bị giao động với ý nghĩ không có ngày về.  Đang im lặng chịu đựng, bỗng chốc lòng căm hờn trỗi dậy. 
Đêm 30 Tết là đêm khó ngủ.  Mọi người tưởng nhớ tới khung cảnh gia đình xum họp đầm ấm.  Sau bữa cơm chiều, khi cửa phòng đã khóa phía ngoài, từng nhóm xúm quanh ngọn đèn dầu nhỏ nhắc lại chuyện cũ, những thăng trầm trong thời gian tù đầy, những tăm tối khổ ải đã qua.  Bác Trần Duy Đôn chợt lên tiếng:
-“Bác Kim, bác Quyền ơi!  Hát cho anh em nghe đỡ buồn.  Nhớ nhà quá…” 
Không riêng gì bác, vào giờ phút thiêng liêng này, ai cũng liên tưởng tới gia đình. 
Rồi chẳng cần men rượu, trên chiếu nằm sàn trên, Huỳnh Thế Hùng ngồi quay lưng ra phía cửa sổ mở rộng, cất tiếng ca bản nhạc “Việt Nam – Việt Nam”.  Mọi người trong nhóm ca theo.  Có lẽ đó là bản nhạc đầu tiên được ca vang trong thời gian tù đầy.  Tiếng hát trầm hùng bùng lên, gợi nhớ tất cả một dĩ vãng đau thương với mảnh đất quê hương miền Nam, mà những đứa con đã tận tụy một đời hy sinh bảo vệ, đang trầm luân khổ ải trong kiếp sống nửa vời.
Vòng người được nới rộng, như muốn đóng góp cho khí thế hào hùng, như men rượu lâng lâng thấm bầu nhiệt huyết.  Mọi người thay nhau đơn ca những bản nhạc tình cảm miền Nam, nhuộm thắm tình yêu quê hương đất nước.  Rồi bất chợt lời ca uất hận, căm hờn trong các bản nhạc sáng tác trong tù, diễn tả những thân xác tả tơi trong phòng tối, quằn quại trên mặt nền nhơ nhớp vì trận đòn thù.
Người cán bộ võ trang trẻ vẫn im lặng, thỉnh thoảng dừng lại lắng nghe, không có một phản ứng nào về hành động của anh em trong phòng.  Có phải hắn đang theo rõi lời ca tình cảm, ngọt ngào, chứa đầy tình yêu thương dân tộc, khác hẳn những bản nhạc đang được truyền tụng mà hắn thuộc lòng từ khi còn nhỏ.  Hắn đang lắng nghe lời nhạc êm dịu tha thiết tình người của miền Nam, mà cả xã hội miền bắc bị nhà nước cấm đoán, cho đó là một thứ "nhạc vàng", một loại văn hóa đồi trụy.
Anh em trong phòng thấy hắn từ lâu, vẫn làm như không biết có hắn đứng ngoài, một biểu tượng của kỷ luật.  Mọi người vẫn say sưa ca hát, như cố tận hưởng những phút giây qúy báu hiếm thấy xẩy ra trong cuộc đời cải tạo.
Bây giờ đã quá nửa đêm, giờ giao thừa đã qua.  Không có lấy một tiếng pháo mừng xuân, mở đầu một năm mới với nhiều ước vọng, với những khao khát sẽ có trong cuộc đời.  Hay mọi người đang say ngủ, vì nhà nhà không có bàn thờ tổ tiên.  Chỉ có hình Bác treo lơ lửng nơi vách ngăn, đè trên lá cờ ngôi sao vàng nền máu đỏ. 
Biết họ còn nhớ tới tập-quán phong-tục của cha ông để lại, hay đã phải quên vì chính sách "tam cùng", và mải miết ghi nhớ lời Bác: "Bác kính yêu, Bác vĩ đại, đã đem cơm no áo ấm cho toàn dân…" như một thứ kinh nhật tụng.  Một kiểu nói theo chân Trung Quốc, ca tụng Mao Trạch Đông trước mỗi bữa ăn.   
Tiếng đàn ghita của anh Nguyễn-ngọc-Liên hòa vang, xoa dịu những tâm hồn đang ngút lửa, với thương hận tủi hờn.  Nhạc điệu bản Paloma thật quyết rũ.  Anh Lâm-minh-Lê chợt đứng giữa lối đi, đưa hai tay vòng về phía trước, nhẹ bước theo tiếng nhạc.  Anh quay mình lả lướt nhún nhẩy nhịp nhàng như đang đưa dắt người tình trong mộng.  Phía đầu phòng một bạn bước ra, với cùng một tư thế say mê, như chìm đắm trong tiếng nhạc đang âm vang trong phòng.     
 Mọi người như bị khích động, lôi cuốn hòa nhịp với niềm vui, quên hẳn những hiểm nguy đang dình dập ngoài cửa trong lúc này, sẽ tới vào ngày mai hay những ngày kế tiếp…


*
18.

Nghĩ đến ngày mai
Ðứng trên giàn dáo, Kim nhìn suốt con đường vòng cánh cung trên lưng đồi cao.  Từ chỗ núi xẻ thoải dốc như ôm lấy phía sau khu trại, rồi mất hút ở cuối con đường rẽ về nhà thăm nuôi.  Quãng đường dù ngắn ngủi nhưng đã để lại nhiều kỷ niệm tiếc thương cho kẻ ở người về.
Anh có cảm tưởng hình ảnh chị Văn còn in rõ trên con đường vắng.  Người quả phụ khóc chồng vừa từ giã cõi đời vì đòn đánh hận thù.  Như anh thấy trước mắt dáng đi lảo đảo vội vã của chị bị cuốn lôi theo chiều gió.  Tấm khăn trắng xô lệch buông thõng nơi vai.  Tiếng khóc đứt đoạn tang thương, có lúc cất cao như lời ai oán, có khi tắc nghẹn như thầm nuốt tủi hờn.  Dù chuyện xẩy ra cách đây ít lâu, nhưng với tâm tư người cải-tạo có cảm tưởng như vừa xẩy ra hôm qua, còn đang nóng hổi.
Kim đã chứng kiến nhiều cảnh thăm nuôi.  Khi đến thì khóc vì thương nhớ lâu ngày, mà lúc trở về sao vẫn còn rơi lệ.  Hay đó không phải là lần chia tay hẹn ngày tái ngộ, mà có thể là buổi gặp sau cùng của lần vĩnh viễn ra đi.
Phía cuối con đường dốc ôm sát bờ sông Mã, khu trại hiện ra như một ốc đảo, im lìm nổi bật trên nền xanh thẫm của rừng cây trên núi cao phía sau làng Ngọc.  Con đường vắng lặng không có bóng người qua lại, chỉ thấy rải rác hố cá nhân nằm hai bên đường mà đội anh đào cách đây không lâu, như một dấu hiệu nhắc nhở những hiểm nguy đe dọa.  Nhưng liệu các anh có kịp chạy ra đây không, khi cửa trong cổng ngoài khóa kín.  Hay khu trại sẽ biến thành biển lửa vào một lần không tập của nước anh em phương Bắc, như đã tàn phá Quyết-tiến đánh chiếm Lào-cai.
Phía dưới kia, giòng sông Mã đang dâng cao.  Mặt nước mênh mông lấn dần khu đất bao quanh ngôi làng nhỏ bên kia bờ sông như chiều hôm qua, và sáng sớm mai lại xuôi ra biển trả lại giòng sông nhỏ hẹp.
Bây giờ đã sang năm 80, năm năm đằng đẵng trôi qua.  Án lệnh "3 năm tập trung cải tạo" vẫn không được thi hành đúng hạn.  Người miền Bắc qủa có nhiều kinh nghiệm về chế độ khi đưa ra nhận xét: "án lệnh 3 năm tập trung cải tạo như một sợi giây thung kéo dài vô tận."
Anh vừa thoát khỏi vùng đất chết Cổng Trời, không phải ra lối cửa sau để lên đồi Bà Then như thường bị ám ảnh.  Trở về đây tinh thần có phần thay đổi, anh được nhìn giòng sông nước mát, tắm ánh nắng chan hòa, ít nhiều cũng thư thái hơn cảnh núi rừng trùng điệp hoang vu vùng biên giới.  Nhưng với đường lối, chính sách cải-tạo lao động này, liệu anh có thoát khỏi vùng ruộng mía bên kia khu núi xẻ.  Hay cũng sẽ nằm xuống cạnh anh Tiếp, anh Văn và những người đã tới đó trước anh.  Anh quả không biết ngày mai của đời mình sẽ đi về đâu, mặc dù trong lòng luôn mong mỏi một sự thay đổi, để có cơ hội trở về.
Khi sống ở miền Nam, anh vẫn ao ước có ngày trở về Hà-nội, nơi ghi dấu nhiều kỷ niệm thuở thiếu thời, như đã lắng đọng trong tâm tư tha thiết tình quê của anh.  Nhưng  không hiểu sao, trong giờ phút này, anh lại cảm thấy ngại ngùng lạc lõng trên mảnh đất quê hương miền Bắc.  Có phải vì ý-thức chế độ khiến anh trở thành xa lạ dù nơi đó là Hà-giang hay Thanh-hóa, Hải-phòng hay Hà-nội.  Anh đã sinh ra và lớn lên ở đây, nhưng vẫn không thấy phấn khởi vui tươi vào lần trở về quê cũ.
Anh nghĩ tới đám con cháu anh, và lớp trẻ lớn lên trong các gia-đình cải-tạo miền Nam, cũng như đám trẻ thuộc các gia đình nghèo khó không có đảng tịch trên đất nước này, liệu chúng có cơ hội vươn lên như một sự sống bình thường.  Như anh đã chứng kiến tương lai đen tối của chúng khi ở miền Nam, và những nơi anh đi qua tại miền Bắc.  Hay với đường lối giáo dục đặt nặng về đảng tịch và phe cánh, chỉ vun xới cho đám con ông cháu cha có chỗ đứng vững trong xã hội, theo gót cha ông tạo dựng một tập đoàn quyền lợi chỉ huy. 
Với đường lối này,làm sao có thể xây dựng, phát triển quốc-gia hưng thịnh khi tư-tưởng nặng về giáo điều, gò bó chật hẹp, vẫn mang nặng ý tưởng "con vua lại làm vua" của thời phong kiến lạc hậu.  "Giai cấp lãnh đạo" đã dựng lại không khí cung đình ngày xưa, tận hưởng đời sống xa hoa để bù lại thời gian nằm gai nếm mật, trở thành giai cấp tư bản mới giầu có.
Nền kinh-tế Quốc gia vốn trì trệ nghèo nàn, lại độc quyền trong tay những kẻ muốn biến của công thành của riêng, mạnh tay vơ vét, đã đẩy đời sống dân chúng xuống mức nghèo nàn thê thảm.  Nhà nước mải miết chắp vá các thành phố để có bộ mặt mới, nên bỏ mặc nông thôn.  Một quốc gia phát triển dựa vào nông nghiệp, mà dưới chính sách kinh tế chỉ huy “nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý, đảng lãnh đạo" nông dân đã không có lấy một thước đất cắm dùi.  Người dân đã nhìn ra một thực tế thê thảm, nhà nước chỉ là một thứ tay sai của đảng, nhân dân chỉ có tiếng mà không có miếng, đã là một thứ nô lệ không công cho đảng.
Anh đã nghe kể nhiều chuyện về đời sống nhân dân miền Bắc, phải chịu đựng hy sinh trong những năm dài chiến tranh.  Họ được đãi ngộ những gì sau khi quốc gia thống nhất, hay vẫn đối diện với một thực tế chua cay là sự nghèo đói và chậm tiến, trong khi lớp người cầm quyền trở lên độc tài chuyên chính hưởng thụ.  Một "trận chiến mới" nóng hổi đã nẩy sinh giữa đám dân nghèo khó với lớp tư-bản mới cầm quyền.     
Anh đã chứng kiến giây phút đau thương khi miền Nam sụp đổ, khiến hàng triệu gia đình tan nát, con mất cha vợ xa chồng.  Sự thất bại do khả năng nghèo nàn của giới lãnh đạo, mà một phần vì nạn tham nhũng.  Nhưng ngày đó người dân còn có tiếng nói phản đối, báo chí có quyền phơi bầy đả kích những lầm lẫn của người cầm quyền.  Còn bây giờ, tại "quốc gia anh hùng" này, dưới "chế độ ưu-việt" này, bằng chính sách công-an trị, tiếng nói của người dân đã bị bóp chết ngay từ lúc khởi đầu.  Ðám người cầm quyền trở thành độc tài, cấu kết bao che để chiếm đoạt tài sản nhân dân.  Một lần nữa bắt người dân phải hy sinh cả mồ hôi và nước mắt.
Sau mấy thập niên áp đặt chế độ Cộng-sản tại miền Bắc và bây giờ tại miền Nam, chế độ này đã mang lại cho người dân những hưởng thụ nào, hay kết quả vẫn chỉ là sự nghèo đói.  Sau khi miền Nam bị xâm chiếm, bức "màn sắt" được vén mở, người dân hai miền thấy rõ thực chất của chế độ, đã nhận ra một điều là "chế độ Cộng-sản khởi đầu sự thất bại ngay khi vừa chiến thắng."   
Nhiều khi anh tự hỏi, liệu dân tộc chúng ta có tránh được một "cuộc chiến huynh đệ tương tàn" trong tương lai,  hay phải làm lại lịch sử một lần nữa như đã xẩy ra nhiều thập niên về trước, là chống lại lớp người cầm quyền chỉ biết "vinh thân phì gia", khoác vào cổ người dân một hình thức nô lệ mới.  Với chính sách đào sâu hố chia rẽ, gây hận thù giữa những người cùng huyết thống để đạt mục đích gì, hay chỉ nhắm bảo vệ quyền lợi phe nhóm.
Không, chúng ta không thể một lần nữa rơi vào cảnh "nồi da xáo thịt."  Chúng ta thấy rõ mặt trái cái "thiên đường" của một "chủ nghĩa không tưởng", đã làm dân tộc chúng ta điêu đứng, đã làm hàng nhiều triệu người cả Bắc lẫn Nam phải hy sinh một cách oan uổng.   
     Ðã tới lúc cần có một cuộc đổi mới.  Toàn dân một lòng loại bỏ hệ thống không hợp ý người, một chế độ "Tư bản đỏ" luôn dành ưu thế cho tập đoàn lãnh đạo hưởng lợi, trong khi đám dân nghèo trọn đời hy sinh cả người lẫn của vẫn hoàn toàn nghèo khổ.  Ðã tới lúc người dân quyết tâm giành lại quyền làm chủ, để có một đời sống Tự-do Hạnh-phúc thật sự.
 
Trần-Nhật-Kim   
Washington D.C
Mùa Ðông 1986  






--------------------

Lời Bạt
Anh Kim,
Tôi đã đọc xong bản thảo tác phẩm của anh, hôm nay xin được góp ý về công trình văn học và lịch sử mà anh đã để rất nhiều tâm tình và thời giờ tạo dựng lên, công trình này sau khi được xuất bản sẽ là một đóng góp rất nhiều cho tủ sách tài liệu của đất nước trong một giai đoạn cực kỳ đen tối của dân tộc.
Nhận xét chung, từ trang đầu tới trang cuối, tác phẩm của anh được gói ghém trong những tình cảm cao đẹp và phong phú.  Cao đẹp không những đối với gia đình, bạn bè mà còn đối với cả những kẻ giam giữ và hành hạ anh trong thời gian gần một thập niên.  Phong phú vì mọi khía cạnh của tình cảm đã được anh khai phá và ghi lại với lối hành văn súc tích.  Ðiểm đặc biệt này đã lôi cuốn người đọc và làm cho người đọc "sống trọn vẹn" những cảnh ngục tù anh đã trải qua, với trăm điều khổ nhục mà mạng sống lúc nào cũng treo trên sợi tóc.  Ðây là ưu điểm lớn nhất của tác phẩm.
Sách của anh không giống những cuốn viết về cuộc đời "cải tạo" mà tôi có dịp đọc.  Anh không chửi rủa và hằn học, nhưng trong cái ngọt ngào bình thản anh đã khéo léo làm nổi bật lên sự tương phản giữa đạo đức và gian manh, giữa cái thiện và cái ác, giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa tình người và ác qủy.  Từ một mớ hẩu lốn những cái xấu và cái tốt, anh đã ung dung kiên nhẫn sàng lọc để lựa ra những cái thuần chất truyền thống của con người Việt-Nam, và bảo tồn gìn giữ như những viên ngọc qúy trong kho tàng văn hóa của giống nòi.  Trong một xã-hội Việt-Nam Cộng-sản đảo điên, cũng như trong khung cảnh buông thả của xã-hội Hoa-Kỳ.

Công việc làm của anh như vừa mô tả, là một đóng góp tuy âm thầm nhưng không phải là khiêm nhượng.
"Cuộc chiến chưa tàn", nhận xét của anh là nhận xét chung của tất cả những người Việt tị nạn bỏ nước ra đi vì họa Cộng-sản.  Trong sách anh, không có câu hay đoạn văn nào dáng dấp như những khẩu hiệu hô hào tổng nổi dậy để lật đổ bạo quyền, mà chỉ toàn là những sự góp ý rất ôn tồn và dân chủ.  Những người nóng tính hay qúa khích trong đấu tranh chống Cộng, có thể đề nghị anh sửa đổi nhan đề cuốn sách thành "đời cải tạo", nhưng riêng tôi thấy rằng, không cần phải gầm thét mới nói lên được tính cách "chưa tàn" của "cuộc chiến."  Trái lại, những sự góp ý có chiều sâu mới là những thứ cần thiết cho cuộc chiến đang tiếp tục và trên đà thắng lợi.  Anh đã tránh sự ồn ào để giữ cho cuốn sách được thuần nhất trong văn phong và trong cách diễn tả.  Tôi rất hân hạnh được anh trao cho nhiệm vụ đọc bản thảo và phê bình.  Là người có cùng một hoàn cảnh với anh, tôi hoàn toàn tán thành những gì anh viết trong cuốn sách, ít nhất cũng về mặt chủ quan.    
      
Nguyễn-cao-Quyền
Washington DC, mùa Thu 1997

No comments:

Post a Comment