Tuesday, November 17, 2015

VŨNG LẦY NƯỚC MẮT (PHẦN 2)

Trần Nhật Kim

16.

(Dẫy núi đối diện với trại Thanh Cẩm)
Tiếng ồn ào phía ngoài đường lớn dần. Thu và Vân-anh vội buớc ra sân, tới gần bậc tam cấp bước lên đuờng trước nhà thăm nuôi.  Các đội cải tạo đang lần lượt trở về sau một ngày lao động.  Họ đi hàng đôi theo đội, vai vác dụng cụ lao động.  Thân thể gầy ốm, quần áo không còn lành lặn, rách vá loang lổ.  Họ bước đi trong dáng điệu mệt mỏi sau một ngày làm việc cực nhọc.  Khi đi ngang qua nhà thăm nuôi, mọi người lặng lẽ dơ tay vẫy chào.  Hàng trăm cặp mắt tìm kiếm người thân.

            Thu chợt nghe người đứng sau nàng gọi to: “Tuấn”.  Trong hàng các anh cải tạo có người dơ tay vẫy.  Nàng quay sang nhìn người đàn bà có âm thanh gọi thật trong, ấm ngọt, e ấp như được gói kín.   Cô còn trẻ lắm, trông độ hơn hai mươi, mặc chiếc áo dài bằng hàng mầu đen.  Mái tóc uơán dài che phủ một phần vầng trán rộng.  Thu phải công nhận người con gái đứng trước mặt mình thật đẹp.  Vẻ đẹp kín đáo phảng phất nỗi buồn man mác.  Thấy Thu nhìn mình mỉm cười, cô gật đầu đáp lễ.

            Các đội “cải tạo” lần lượt về trại.  Nàng ngạc nhiên khi thấy một số người ở khu gia đình cán bộ, đối diện với nhà thăm nuôi, ra đứng bên đường.  Từng đoàn xe ba bánh chở đầy khoai mì đi tới, như một thói quen dừng lại phía bên kia đường.   Thu thấy thân nhân cán bộ ra lấy khoai mì, sau đó anh em “cải tạo” lại tiếp tục đẩy xe về trại.

            Trời đã về chiều, những tia nắng muộn chiếu qua kẽ mây phủ mờ mặt đường.  Con đường đất nhỏ chạy dài tun hút về phía rừng cây xa xa.  Khung cảnh núi rừng tịch mịch.  Không nghe thấy tiếng động cơ xe chạy, hay âm thanh gõ móng của đoàn ngựa kéo.  Nơi đây như một thế giới riêng biệt, xa hẳn xã hội loài người.

            Qua mấy bậc tam cấp bước lên đường, Thu lững thững đi theo con đường đất.  Cánh rừng phía trước đã ngăn tầm mắt nhìn xa.  Bầu trời như thấp hẳn xuống.   Phía sau khu gia đình cán bộ là rừng cây.  Phía đối diện là ngọn núi cao, sườn dốc loang lổ những đám cháy đen, chen lẫn những khoảng đất đã khai phá mầu nâu đỏ, trên đỉnh cao chỉ còn thưa thớt những tàng cây.  Nàng có cảm tưởng mình lọt vào giữa một lòng chảo.  Con người vô cùng nhỏ bé đối với thiên nhiên.  Thu nghĩ đến chồng, không biết ngày mai có gì không may xẩy ra không.  Liệu anh có bị cấm gặp mặt vì vi phạm kỷ luật trại khi  gặp nàng trong lúc lao động  vào buổi chiều nay.

            Tiếng động phía sau lưng làm Thu dừng bước.  Quay lại nàng gặp nụ cười của người con gái áo đen mà nàng chưa biết tên.  Thu mở lời:

            -“Chào cô, cô tới đây lâu chưa?”

            -“Em vừa tới trưa nay, trước khi các chị tới một lát.”

            -“Sao cô chưa được gặp mặt?”

            -“Theo thông lệ của trại, thân nhân tới hôm nay ngày mai mới được gặp.”

            -“Ngày mai cô gặp lúc mấy giờ?”

            -“Em gặp lúc 8 giờ sáng.  Còn chị bao giờ gặp anh.  Chị ra thăm thường không?”

            -“Tôi được gặp sau cô, lúc 9 giờ.  Ðây là lần đầu tôi ra thăm nhà tôi, thành thử tôi chưa biết cách thức như thế nào.  Còn cô đã đi thăm nhiều lần chưa?”

            -“Lần thứ hai chị ạ.  Năm ngoái em đã ra thăm, khi hay tin anh ấy chuyển trại  từ  Hoàng-liên-sơn về đây.”

            -“Cô có cháu nào chưa?”

            Sau câu hỏi, Thu thấy cô gái hơi cúi đầu, day mũi dép trên mặt đường, như khó trả lời trước một câu hỏi thông thường.  Cô chợt ngẩng mặt trả lời:

            -“Em chưa có cháu nào.  Niềm vui đến với chúng em quá muộn màng.  Còn chị, chị có mấy cháu?”

            -“Tôi có 5 cháu.  Cháu lớn 14 tuổi, còn cháu nhỏ vừa lên 8.  Xin lỗi, cô cho biết quý danh được không?  Còn tôi tên Thu.”

            -“Em tên Liên.  Em 24 tuổi chị ạ.  Vì hoàn cảnh chúng em chưa lập gia đình, rồi anh ấy đi cải tạo.”

            Thu ngạc nhiên khi nghe Liên nói.  Cô mới 19 tuổi vào ngày miền Nam bị mất.  Hai người im lặng chậm bước.  Nàng quay qua hỏi:

            -“Hiện giờ Liên ở đâu?”

            -“Em vẫn ở Ðà-lạt từ ngày gia đình em di cư vào Nam.”

            -“Gia đình Liên vẫn thường chứ?”

            -“Ba má và hai em của em di Pháp từ năm rồi.  Gia đình em được anh cả bảo lãnh, chỉ còn mình em ở lại.”

            -“Sau khi ba má Liên đi, đời sống của Liên ra sao?”

            -“Trước ngày 30/4 gia đình em không phải lo nghĩ nhiều về vật chất.  Nguồn lợi ruộng vườn giúp gia đình em sống dư giả.  Sau khi miền Nam mất, cuộc sống đảo lộn, tài sản của gia đình em bị nhà nước trưng dụng, chỉ còn lại căn nhà em đang ở.  Ba má em muốn em qua Pháp tiếp tục học, nhưng em xin ở lại.”

            -“Sao Liên không cùng đi với gia đình?”

            -“Vì Tuấn em quyết định ở lại.”

            Một lần nữa Thu lại ngạc nhiên và kính trọng tấm lòng chung thủy của Liên.  Hẳn phải là một mối tình thật đẹp để cho người con gái như Liên hy sinh.  Nàng nhìn Liên mỉm cười:

            -“Tôi kính phục Liên nhiều lắm biết không.  Mối tình của Liên hẳn phải là mối tình tuyệt đẹp?”

            -“Nhiều lần em đã tự hỏi tại sao em phải hành động như thế, nhất là vào thời gian gia đình em sửa soạn ra đi.  Em đã thức nhiều đêm suy nghĩ.  Ði hay ở lại.  Chính em cũng không muốn sống trong tình trạng hối tiếc vì những quyết định vội vàng.”

            -“Ba má Liên có biết Tuấn không?”

            -“Ba má em biết Tuấn từ hồi chúng em mới quen nhau.  Hai cụ rất vừa lòng anh ấy.”

            -“Liên ở lại chắc hai bác buồn nhiều lắm.”

            -“Em biết đã làm ba má em buồn, hơn nữa em là đứa con gái duy nhất trong nhà, được hai cụ cưng chiều từ nhỏ.  Bố mẹ nào chẳng muốn cho con cái mình thành đạt, có đời sống hạnh phúc.  Nhất là các cụ biết sự đợi chờ của em chỉ là vô vọng.  Em cũng tự biết như thế, vì chúng em đang ở hai thế giới cách biệt.  Như đã nói với chị, em ở lại vì Tuấn mà cũng vì em nữa.”

            -“Tôi đồng ý với Liên, ngoài tình yêu còn có lòng thương nữa.  Nó gắn bó tình cảm của hai người.  Dù hoàn cảnh của chúng ta khác nhau, nhưng chúng ta có cùng một suy tư, có chung niềm khắc khoải.  Chúng ta sống cho tình yêu thương, và cũng vì tình yêu thương mà sống.  Cũng như Liên, tôi đã suy nghĩ về lòng chung thủy và sự đợi chờ,  nhất là trong hoàn cảnh đau thương này.  Liệu ngoại cảnh có thúc dục, ảnh hưởng tới lòng kiên trì của chúng ta không.”

            -“Vừa rồi chị nói kính phục em về lòng chung thủy, bây giờ em cũng muốn nhắc lại câu này với chị.  Vì ở chị ngoài lòng chung thủy, tình yêu thương còn có sự hy sinh.  Với trường hợp của em, như người thân đã nói, là em để tuổi xuân đi qua một cách oan uổng, và hiện tại em đang sống trong ảo vọng . . . .”

            -“Liên cho tôi ngắt lời nhé.  Quả thực, chỉ có mình mới hiểu được mình.  Ðời sống có quá nhiều thúc bách, đôi lúc làm chúng ta nản lòng chờ đợi.”

            -“Em cũng nghĩ tới điều này.  Em đã nhủ lòng là phải sống thực tế.  Nhưng chính tâm tư của em cảm nhận, là em đang sống một cuộc sống thực.  Người ngoài thường cho những người trong cuộc tối tăm, thiếu sáng suốt để nhận biết về việc của mình.  Nhưng chúng ta cũng không thể nhận xét, phân tích bằng đường lối mà xã hội thường dùng để phán xét.”

            -“Tôi đồng ý với Liên.  Tôi tưởng chúng ta có thể nói, chỉ vì là người trong cuộc, mới cảm nhận được thứ tình cảm lẫn lộn giữa yêu và thương.  Và cũng chính vì đó mà chúng ta sống và hy sinh.”

            -“Em cũng cảm nghĩ như chị, vì chính em đã trải qua những giây phút mà sự cám dỗ làm lẫn lộn thực với giả.  Và cũng từ đó, em nhận thức được giá trị cuộc đời như thế nào.  Nó có phải là những danh vọng lẫy lừng, một cuộc sống xa hoa vật chất, như kinh nghiệm của nhiều người,  đã không tha thiết những gì đạt được do sự thành công.  Vì tâm tư họ trống trải, mọi thứ trở thành vô nghĩa.  Vì vậy em biết được những gì cần thiết cho mình.”

            -“Liên biết Tuấn đã bao lâu?”

            Thu nhìn thấy trên gương mặt Liên một thoáng giây ngưng lại, nét mặt hơi đăm chiêu như đang lục tìm về dĩ vãng.  Ánh mắt Liên chợt sáng, như hình ảnh ngày xưa hiện ra với những niềm vui.

            -“Nếu nói gặp mặt thì lâu lắm rồi, từ khi em còn học lớp Ðệ Tam.  Em cũng không hiểu tại sao em cảm thấy cô đơn ở tuổi 15, luôn cần sự chiều chuộng săn sóc.  Hay vì phong thổ Ðà-lạt, cảnh sắc hữu tình của thành phố đầy hoa, đã ảnh hưởng tới tâm tư của em những nét trữ tình thơ mộng.  Em gặp Tuấn vào đêm Giáng-sinh.  Ngay từ phút giây đầu, em đã bị lôi cuốn bởi vóc dáng hào hùng, cử chỉ dịu dàng tha thiết của anh.  Rồi bẵng đi cả năm không gặp, em rơi vào trong thương nhớ.  Sự thiếu vắng làm em thao thức, như mất mát cái gì. . . .”

            -“Ðấy có phải là mối tình đầu của Liên không?”

            -“Khi đó em còn nhỏ nên chưa phân tích được,  nhưng có một điểm em thấy lòng mình xao xuyến mong đợi.  Và khi gặp lại, cuộc đời em thay đổi.  Chúng em yêu thương nhau từ đó.  Em lên đại-học.  Chúng em hiểu không thể thiếu nhau trong cuộc đời, và ước hẹn sẽ xây dựng một gia đình hạnh phúc.  Nhưng tai ương xẩy đến quá nhanh, chúng em chưa thực hiện được điều mình mong muốn.”

            -“Ngày 30/4 là ngày đau thương của dân tộc chúng ta.  Biết bao nhiêu thảm cảnh xẩy ra, nhiều gia đình đã đổ vỡ, chia ly.”

            -“Vâng, vào lúc chúng em hình thành nguyện ước thì miền Nam mất, Tuấn đi cải tạo.  Chúng em có với nhau 4 năm yêu thương, và bây giờ đã 5 năm chờ đợi.  Em hiểu tuổi xuân của em đang qua đi.  Có lúc em tự hỏi còn phải chờ đợi bao lâu nữa, và nếu Tuấn không về thì cuộc đời em sẽ ra sao đây.  Có phải mọi việc đã muộn màng rồi không.”

            Thu cảm thấy dâng lên trong lòng niềm chua xót khi nghe chuyện của Liên.  Có phải chuyện của Liên cũng là chuyện của chính nàng.  Những thắc mắc lo âu cuả Liên  làm tim nàng se thắt.

            Thu đã nhiều lần tự hỏi, nếu một ngày kia chồng nàng không trở về, có phải mọi việc trở thành dang dở không.  Sự đau thương đến với một kiếp người thực đơn giản thế sao.  Nàng đã khóc thầm trong nhiều đêm vắng cho số kiếp long đong của người đàn bà vào thời buổi này.  Nàng nuốt trọn những hờn tủi trong những năm qua.  Còn gì đau thương bằng nhìn thấy sự mất mát của mình, nhìn thấy tình yêu thương của mình vuột khỏi tầm tay.

            Thu cố giữ im lặng, để sự chán nản thất vọng như nước thủy triều đang dâng lên trong lòng lắng đọng.  Nàng thông cảm với Liên.  Bất cứ câu nói nào trong giờ phút này, dù là một lời an ủi, cũng có thể khơi dậy nỗi buồn để bật thành tiếng khóc. 

            Liên tiếp lời sau tiếng thở dài:

            -“Ðôi khi vì lòng ích kỷ tự nhiên của con người, em có ý nghĩ, nghĩa vụ gì bắt em phải chờ đợi.  Em có quyền lo cho đời sống của cá nhân em.  Nhưng không hiểu sao em vẫn không thực hiện được ý định đó.  Có phải vì lòng yêu thương mà chúng ta hy sinh.  Chúng ta chấp nhận phần thua thiệt cho riêng mình.”

            -“Tôi có cùng ý nghĩ  như  Liên.  Vì tình yêu thương chúng ta chấp nhận hoàn cảnh hẩm hiu.  Nhưng thực ra, chúng ta mang nợ các anh ấy nhiều quá.  Họ đã trải thân chiến đấu bảo vệ miền Nam Tự-do, để chúng ta có đời sống an toàn hạnh phúc.”

            -“Vâng, mỗi khi nghĩ đến Tuấn và mỗi lần gặp anh ấy, em thấy thương xót nhiều hơn.  Mà phần đau như chính em phải mang, phải chịu.  Các anh ấy là những “anh hùng mạt lộ”, họ đã chiến đấu, đã hy sinh cho mọi người miền Nam quá nhiều.  Họ luôn đối diện với cái chết từ phương Bắc mang tới.  Họ đã được những gì.  Phải chăng họ sẵn lòng chiến đấu vì không muốn miền Nam rơi vào tay cộng-sản.  Nhưng tiếc thay, các anh ấy đã mất tất cả.  Chỉ bám víu vào niềm an ủi cuối cùng là tình yêu thương còn lại của người thân.”

            -“Liên nói đúng, chúng ta hơn các anh ấy ở chỗ, dù đời sống có thay đổi nhưng khung cảnh cũng ít nhiều quen thuộc.  Còn ở đây xa lạ quá, không phải là thế giới quen sống của họ.”

            -“Em thông cảm với nỗi đau thương, niềm tủi nhục trong lòng các anh ấy.  Họ bị buộc phải thua trận trong khi  lòng vẫn còn hăng say chiến đấu.  Họ đã trải thân bảo vệ nền hòa bình, dân chủ của miền Nam, là nơi được coi như  một tiền đồn của “Thế giới Tự-do”.  Mà hiện tại, họ bị đầy ải trong ngục tù tăm tối không có ngày mai.  Vì vậy em cố gắng ra thăm, dù chỉ gần gũi trong phút giây ngắn ngủi.”

            -“Tôi thông cảm vói Liên.  Nỗi đau của chúng ta vẫn là nỗi đau chung.  Có lẽ chuyện chúng mình chỉ mình hiểu được thôi. . . .”

            Tự nhiên Thu cảm thấy thân với Liên, như đã từng là đôi bạn, dù chỉ mới gặp không lâu.



                                                                         *



  17.

(Cổng Nam Thành Nhà Hồ, Thanh Hóa: xây dựng năm 1397)

            Bầu trời một mầu xám lợt, sương đêm phủ mờ rừng cây.  Tiếng vượn đã ngừng kêu.  Trả lại bóng đêm cho đàn dế đang nỉ non to nhỏ, hòa lẫn tiếng ếch nhái gọi trăng nơi các thửa ruộng sau nhà.  Ngang trời chỉ còn những cánh vạc lẻ bạn.

            Khu gia đình cán bộ đã lên đèn.  Ánh điện vàng yếu không đủ soi sáng căn phòng nhỏ.  Họ đang quây quần quanh mâm cơm gia đình.  Thu nghe rõ tiếng cười của các em nhỏ.  Chúng trạc tuổi con nàng, đang vui đùa bên những người thân yêu.  Nhưng tại góc núi này, chúng hấp thụ những gì để cải tiến cuộc đời, khi mà ánh sáng văn minh không tới đây, dù chỉ là nền văn minh của một quốc gia nghèo kém nhất.  Chúng sẽ được giáo dục như thế nào để phát huy tài năng của tuổi trẻ.  Hay từ sáng đến tối chỉ nhìn thấy hình ảnh tù đầy, thù hận.  Chúng sẽ tiếp tục nối gót người đi trước, trên con đường hạn hẹp bằng phương pháp “trồng người”, để có đủ sản phẩm cung ứng cho nhu cầu gọi là “cách mạng dân tộc.” 

            Ở đâu đây vẳng đưa lời ca: “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng. . .”  Lời ca bùng lên mang theo những uất nghẹn đau thương của một dân tộc, mở đầu một kiếp sống hận thù.

            Thu nhớ đến các con ở nhà, không hiểu giờ này chúng ra sao.  Lòng nàng se thắt như đứng giữa hai ngả đường.  Chúng còn nhỏ dại, làm sao có thể tự lo được.  Chúng luôn cần cả mẹ lẫn cha.

            Vào tới chỗ nằm, Thu thấy Vân-anh đã sửa soạn xong bữa ăn.  Vân-anh nhìn nàng mỉm cười:

            -“Ði đâu về thế bồ.  Ðã thấy khỏe chút nào chưa?”

            -“Mình ra ngoài một chút cho mát, thấy bạn ngủ ngon nên mình để yên.”

            -“Ăn một chút cơm canh nóng cho ngon miệng, chúng mình ăn thức ăn khô đã mấy ngày nay.”

            Thu vui vẻ ngồi ăn cơm với bạn.  Bữa cơm thường nhưng ngon miệng vì cơm canh nóng hổi.  Nhất là khi tới đây, làn nước mát đã giúp nàng khoan khoái, dễ chịu sau mấy ngày cô thúc trên tầu.

            Thấy trời đã tối, Vân-anh hỏi:

            -“Thu có định làm thức ăn tối hôm nay không?”

            -“Mình nghĩ để sáng mai làm thì tốt hơn.  Bây giờ có làm cũng không đủ nồi nấu, hơn nữa trong bếp quá chật.  Sáng mai 9 giờ mới gặp mặt.  Mình dậy sớm một chút nấu cho nóng.  Có hai món với nồi cơm để nắm cũng không lâu.”

            -“Thu tính cũng phải, tối nay mình cũng cần nghỉ ngơi thư thả một chút.”

            Sau bữa cơm Thu rủ bạn ra sân.  Ngoài sân gió mát nàng thấy dễ chịu hơn.  Không gian thật yên lặng.  Ánh trăng bạc phủ xuống vạn vật một mầu trắng lợt.  Phía trước là sân vận động đang chìm dần vào bóng đêm.  Khu cơ quan nằm gọn nơi  cuối sân, chiếc cột cờ bằng thân tre đơn độc vươn lên khỏi những mái ngói lấp xấp nằm sát nhau.  Con đường đất trước nhà thăm nuôi vắng tanh, không có lấy một bóng người qua lại.

            Thu thấy mẹ con thiếu phụ quấn khăn tang ngồi nơi ghế cuối sân.  Người mẹ ôm vai con vỗ về to nhỏ.  Lần này chị ra thăm chồng không còn bận rộn với cơm canh, xào nấu như lần trước.  Nếu không có đứa con đi theo, có lẽ chị không cần sửa soạn bữa ăn, mặc dù ở đây đã hơn một ngày.  Nàng kéo Vân-anh tới ngồi chungï.  Nàng mở lời:

            -“Chị và cháu ra đây lâu chưa?”

            Chị nhìn Thu và Vân-anh trong giây lát rồi trả lời:

            -“Tôi ra đây từ hôm qua khi hay tin nhà tôi mất.”

            Khi nhắc tới người yêu thương vừa qua đời, Thu thấy chị xúc động ôm chặt đứa con vào lòng.  Chị đưa tay thấm khô giòng lệ mà nàng cảm thấy có thể tuôn rơi không ngừng.  Thu an ủi:

            -“Chúng tôi chia buồn với chị.  Sinh ly tử biệt âu cũng là số mệnh.  Anh đã mất lâu chưa?”

            -“Nhà tôi mất đã mất tháng nay.”

            -“Sao chị hay tin trễ vậy?”

            -“Ðầu năm tôi và cháu nhỏ có ra thăm.  Lúc đầu tôi không được phép gặp mặt, vì nhà tôi vi phạm kỷ luật.   Cán bộ bảo tôi có thể để quà lại và ra về, trại sẽ chuyển qùa cho nhà tôi.  Tôi không rõ tình trạng nhà tôi như thế nào, nên năn nỉ xin được gặp mặt.  Tôi nói mãi cán bộ trại mới bằng lòng.  Họ bảo thông cảm trường hợp của tôi, lặn lội từ xa tới đây, nên cho gặp mặt nhà tôi 30 phút.

            Tôi lo lắng cho nhà tôi vô cùng.  Thanh-cẩm là trại cũ, nhà cửa thiếu vệ sinh, nhất là khu kỷ luật.  Tôi nghe tù hình sự kể lại mà thấy sợ.  Không hiểu trong hoàn cảnh đó làm sao các anh ấy sống nổi.  Ngày xưa người ta phản đối chuồng cọp ở Phú-quốc và Côn sơn là vô nhân đạo.  Thực ra chỉ nghe mà thôi.  Còn ở đây khổ gấp bao nhiêu lần nhưng có ai được tới đây mà biết.”

            -“Khi gặp anh chị thấy thế nào.  Anh có nói gì không?”

            -“Tôi đứng đợi nơi bậc tam cấp bước lên đường.  Từ xa tôi thấy nhà tôi đi tới.  Anh cải tạo phụ trách nhà thăm nuôi đẩy xe ba bánh theo sau.  Nhà tôi mặc bộ quần áo xanh  còn in nếp gấp.  Có lẽ anh vừa được phát trước giờ ra gặp thân nhân, như hai chị thấy ai cũng mặc quần áo cũ.

            Nhà tôi thật gầy, anh bước xuống bậc tam cấp mà không được vững.  Hai chân anh run rẩy sau mỗi bước đi.  Tôi lại gần đỡ anh.  Cán bộ chỉ chỗ cho nhà tôi và tôi ngồi ghế đối diện tại chiếc bàn lớn ở hàng hiên kia.  Cán bộ phụ trách nhà thăm nuôi ngồi ở đầu bàn quan sát và theo rõi hành động của chúng tôi.  Hai chị nghĩ làm sao tôi có thể hỏi được điều mình muốn biết.  Tôi ngậm đắng trong lòng khi hỏi nhà tôi:

            -“Anh bệnh đã lâu chưa.Trông anh ốm yếu quá.”

            Chỉ nói được bằng đó câu tôi đã nghẹn lời, không cầm được nước mắt.  Thấy tôi buồn quá, nhà tôi cất giọng nhát gừng thều thào như không còn hơi sức nói:

            -“Em đừng khóc, anh có bệnh tật gì đâu.  Anh khỏe mà. Em đừng quá lo cho anh mà sinh bệnh.  Ở đây thuốc men đầy đủ.  Nếu tiện em gửi cho anh một ít thuốc bổ đa sinh tố và nhất là thuốc đau dạ dầy.  Dạo này bệnh cũ của anh lại tái phát.

            Quả thật khi đó lòng tôi buồn quá.  Tôi tự đặt câu hỏi, tại sao nhà tôi phải nói dối những điều mà thoáng nhìn ai cũng biết.  Bảo không bệnh sao người lại gầy ốm như cây sậy.  Nhà tôi còn bảo gửi thuốc đau dạ dầy vì bệnh cũ tái phát.  Tôi lại càng ngạc nhiên vì trước kia anh có mắc bệnh này đâu mà bảo tái phát.  Bệnh này có thực hay chỉ là bệnh giả.”

            Vân-anh góp lời:

            -“Hay vì đói quá mà phải nói khác đi, như những bức thư các anh “cải tạo” gửi về nhà xin đồ tiếp tế.  Vì thư từ  của tù nhân bị trại kiểm duyệt trước khi gửi.”

            -“Vâng, tôi cũng nghĩ như chị.  Lúc này lòng tôi buồn vô cùng.  Nước mắt không làm vơi được nỗi lo âu trong lòng.  Tôi có cảm giác đôi lúc như muốn xỉu, vì không chịu đựng nổi hình ảnh trước mắt.

            Gương mặt nhà tôi xanh xao, hai gò má gồ cao khiến hai hốc mắt trũng sâu.  Mái tóc có quá nhiều sợi bạc ở tuổi của anh.   Tôi có cảm tưởng nếu không có lần vải che ngoài, người chồng yêu thương ngồi trước mặt tôi chỉ còn là bộ xương biết cử động.  Chỉ một thời gian ngắn không gặp mà anh đã thay đổi hẳn so với lần thăm nuôi trước.”

            Thu hỏi chị:

            -“Anh có nói  thêm gì nữa không?”

            -“Nhà tôi vốn vui tính, gặp người lạ cũng dễ làm quen nhanh, mà hôm đó anh im lìm mệt mỏi.  Từ ánh mắt đến cử chỉ nói lên sự buồn nản, như không còn một chút hy vọng  ở tương lai.  Nhìn anh tôi đủ rõ hình phạt kỷ luật ở đây thật ghê sợ.  Nó làm tiêu hao dần sinh lực, làm mỏi mòn cả tham vọng sống.

            Thỉnh thoảng nhà tôi xoa hai tay, cử động hai vai như bị mỏi lâu ngày.  Co duỗi hai chân như bị tê bại sau nhiều tháng cùm xích.  Nhũng món ăn nhà tôi thích nhất cũng không đụng đũa tới.  Nhiều lần tôi dục anh ăn một chút cho ấm lòng, nhưng anh nói anh không đói mà chỉ muốn nói chuyện với mẹ con tôi.”

            -“Chị thấy anh có gì lạ không?”

            -“Khi đó lòng tôi rối bời, nhưng cũng nhận ra anh muốn nói một điều gì nhưng lại thôi, vì người cán bộ luôn nhìn anh quan sát từng cử chỉ.  Ba mươi phút trôi qua thật nhanh.  Cán bộ nhắc chừng chúng tôi đã hết giờ gặp mặt.   Tôi đến gần nắm tay nhà tôi, chỉ thấy hai cánh tay gầy trơ xương, không còn là đôi tay đầy sinh lực mà tôi đã từng nép mình nương tựa.  Nhà tôi dang tay ôm tôi như thói quen trước đây, nhưng nửa chừng ngừng lại, như anh chợt nhớ tới hình phạt kỷ luật mỗi khi vi phạm.  Tôi dìu anh ra tận bậc tam cấp bước lên đường.  Tay anh run rẩy, nước mắt quanh tròng.  Tôi hiểu nỗi lòng của anh, cũng như anh nhìn thấy sự đau khổ của tôi.  Tôi bật khóc lớn, vì không còn gì ngăn cản tôi được nữa.  Tôi ôm chặt lấy anh, con tôi cũng ôm lấy bố.  Bàn tay anh nới lỏng dần.  Tôi nói với theo: -‘Anh ráng giữ sức khỏe nhé.  Việc nhà anh đừng lo.  Em sẽ ra thăm anh luôn.’

            Nhà tôi quay lại mỉm cười.  Tôi chỉ thấy ở anh một nụ cười héo hắt, thể hiện niềm hạnh phúc đang tan vỡ.  Anh dơ tay vẫy mẹ con tôi.  Có ngờ đâu lần gặp mặt đó là lần gặp cuối cùng.”

            Thu tiếp lời:

            -“Tôi không rõ nhiều về sinh hoạt trong trại, nhưng nghe mấy anh hình sự  cho hay hình phạt kỷ luật ở đây ghê sợ lắm.  Nhất là vì thù hận, họ coi mạng sống con người không có một chút giá trị nào.”

            -“Vâng, vào lần thăm nhà tôi vừa rồi, tôi biết anh đang bị kỷ luật.  Tôi có hỏi mấy anh hình sự mới biết, tùy theo mức độ vi phạm kỷ luật mà tù nhân được hưởng chế độ cùm xích.  Cùm chân rất khổ, vì vòng sắt ôm cổ chân được xâu vào một thanh sắt nên tù nhân khó xoay trở.”

            Thu thật xúc động khi nghe kể về đời sống của người bị kỷ luật.  Nàng góp lời:

            -“Trong hoàn cảnh kỷ luật như thế, nếu thực phẩm không đủ chất bổ dưỡng thực khó mà giữ không bệnh tật đau ốm.”

            -“Ngay như người cải tạo bình thường cũng đã khó mà giữ được sức khỏe không suy giảm huống hồ bị kỷ luật.  Vì không phải đi lao-động nên phần ăn cũng giảm.  Nhà nước quan niệm không đổ mồ hôi nên không cần ăn nhiều như người lao động.  Vào ngày ăn bắp hạt luộc với muối, để giết thời gian và cũng để kéo dài bữa ăn, anh em trong phòng kỷ luật có thú vui nằm đếm từng hạt bắp mỗi khi ăn.  Một bữa ăn đong chưa đầy miệng chén đá, ít hơn người đi lao động hai muỗng ăn cơm.  Số nguời trong khu kỷ luật đa phần từ trại Quyết-tiến chuyển về, có người đã ở gần hai năm, từ ngày tới trại này.”

            Thu giật mình khi nghe thấy hai chữ Quyết-tiến.  Hành động của họ như thế nào mà phải chịu kỷ luật lâu đến thế.  Nếu không gặp chồng chiều nay chắc nàng sẽ lo sợ vô cùng.  Nàng tiếp lời:

            -“Trại có thông báo cho chị hay tin anh mất không?”

            -“Họ đâu có cho hay.  Tôi được bạn đi thăm nuôi về cho biết là nghe tin nhà tôi mất.  Hôm qua khi tới đây, tôi có hỏi cán bộ trại về tình trạng nhà tôi, họ nói nhà tôi bị đau mà chết.  Họ khuyên tôi về vì mọi việc đã xong xuôi.  Tôi đòi thăm mộ nhà tôi, mãi đến chiều hôm qua họ mới cho đi.”

            -“Anh nằm ở nghĩa trang gần đây?”

            -“Quả thật khi nhìn thấy nấm mồ của nhà tôi, tôi không tưởng tượng được chế độ này quan niệm về con người như thế nào.  Trước khi tới đây, tôi những tưởng dù gì đối với người đã chết, thì hận thù đến mấy cũng xóa bỏ.  Vì một chút tình đồng bào cũng được mồ yên mả đẹp.  Nhưng điều tôi mong đợi đã xụp đổ.  Nhà tôi được chôn trong khu rừng cỏ tranh.  Ngôi mộ chỉ là đống đất cao hơn mặt vườn, trên cắm miếng gỗ ghi tên nét chữ viết vội vàng.”

            -“Ðó là điều thật thương tâm khi họ coi thường thân xác người đã chết.  Nhưng tàn nhẫn hơn nữa, họ đang đầy ải, bạc đãi những người đang sống.  Chị có biết thêm gì về cái chết của anh không?”

            -“Tôi nghĩ ở trại này ai cũng biết, che dấu mãi làm sao được.  Ðành là họ có quyền, muốn giết ai thì giết, nhưng còn mấy chữ  “nhân đạo, khoan hồng” thì có nghĩa gì đây.  Chiều hôm qua khi cán bộ trở về, tôi có hỏi người hình sự đi cùng, hắn cho hay vì bị đối xử tàn nhẫn nên nhà tôi và bốn người nữa đã vượt ngục.”

            -“Thật tội nghiệp, các anh ấy vì quá uất ức nên vượt ngục.  Nhưng với chính sách ăn để cầm hơi, để kéo dài sự sống ngày một tàn lụn, trong khi chân bị cùm xích, thử hỏi lấy sức đâu vượt qua khỏi mấy vòng tường cao.”

            -“Vâng, chị nói đúng.  Mặc dầu các anh chọn một đêm không trăng, vượt qua được các trở ngại trong khu kỷ luật là đã vất vả lắm rồi, nên khi ra đến vòng tường trại thì trời gần sáng.  Nhà tôi và một người nữa yếu quá không thoát ra khỏi vòng tường cao. Mấy người ra khỏi vòng tường trại không thể đi tiếp, đành nằm trong bụi rậm bên bờ sông đợi trời tối.  Chẳng may một dân làng ở bên kia bờ sông nhìn thấy nên báo cán bộ trại hay.” 

            Vân-anh gật đầu góp ý:

            -“Ðây là một ưu điểm của chế độ.  Như các chị thấy, khi đưa các anh ấy ra miền Bắc là có ý tách rời liên hệ với gia đình.  Các anh trở thành một thứ con tin nằm trong tay nhà nước, nên mọi gia đình người “cải tạo” không dám vọng động.  Các trại “cải tạo” tại miền Bắc thường đặt tại các vùng núi rừng hiểm trở, xa nơi dân cư đông đúc.  Tù nhân phải phát hoang làm rẫy để tự nuôi sống.  Các anh hoàn toàn xa lạ với địa phương mình ở.  Hơn nữa với chính sách thưởng công, vài ký gạo hay dăm cân thóc đã khuyến khích người dân khi đời sống quá thiếu thốn.”

            Chị Vân tiếp lời:

            -“Sở dĩ đám hình sự  được biết vì có báo động cả trại ngoài khi có tù trốn trại.  Khi các anh ra khỏi chỗ trốn, đám cán bộ nhào tới, kẻ đấm người đá cho đến khi gục ngã vì không còn sức chịu đựng trước những đòn đánh hận thù.  Anh Tiếp bị đánh chết tại chỗ, những người còn lại trong đó có LM. Nguyễn-hữu-Lễ, Ðại tá Trịnh-Tiếu, anh Nguyễn-sĩ-Thuyên thì thừa sống thiếu chết.  Họ được mang trở lại khu kỷ luật, không có lấy một mảnh vải che thân.  Còn nhà tôi, sau trận đòn bầm dập thân thể, đã bị bỏ đói và qua đời sau một tuần lễ, trong khi chân  vẫn còn cùm xích.”

            Vân-anh góp lời:

            -“Vậy bao giờ chị và cháu trở về miền Nam?”

            -“Cán bộ trại dục tôi rời đây sớm, lấy cớ nhà thăm nuôi chật hẹp, không đủ chỗ cho gia đình đến thăm.  Nhưng tôi hiểu họ không muốn cho mẹ con tôi ở đây.  Vì tiếng khóc và giải khăn xô tôi mang sẽ khích động thân nhân anh em “cải tạo”.  Như một chứng cớ đối nghịch, làm sáng tỏ chính-sách “khoan hồng, nhân đạo”, đã từng nêu cao như một nghĩa cử tốt đẹp đối với người đồng loại.”

            Thu chua xót thở dài nói:

            -“Quả thực, những hình ảnh xẩy ra hàng ngày càng làm chúng ta không quên được câu nói: ‘không nghe những gì cộng-sản nói, hãy nhìn những gì cộng-sản làm’.  Tôi thông cảm niềm đau của chị, vì chúng ta đang mất dần tình yêu thương.”

            -“Vâng, tôi vẫn muốn nán lại vài ngày, được nhìn nấm đất vùi nông thân xác nhà tôi.  Mặc dù tôi hiểu mọi thứ đã trở thành vô ích.  Nhà tôi đã yên phận, còn đời sống mẹ con tôi sẽ ra sao đây, khi hy vọng chờ đợi của chúng tôi không còn.  Liệu hình ảnh đau thương này, có phai mờ trong tâm trí trong trắng của các con tôi không. . .” _ Chị im lặng trong giây lát rồi tiếp_ “Từ nẫy đến giờ nghe chuyện của tôi làm hai chị buồn lây.”

            Vân-anh nói:

            -“Không hẳn như vậy.  Cảnh ngộ của chúng ta có khác, nhưng nỗi buồn của chúng mình vẫn chỉ là một.”

            -“Hai chị có thường ra thăm các anh ấy không?”

            Thu trả lời chị:

            -“Lần này chúng tôi ra Bắc là lần đầu.  Cách đây năm năm tôi có gặp nhà tôi một lần ở trại Gia-rai Long-khánh.”    

            -“Các anh ở đây đã bao lâu mà bây giờ các chị mới ra thăm?”

            -“Tôi vừa được người bạn cho biết tin nhà tôi chuyển về đây, nên tôi vội ra thăm.”

            -“Chị đã gặp anh chưa?”

            -“Tôi có gặp nhà tôi lúc buổi chiều khi anh lao động bên đường.  Tôi thấy cán bộ gọi nhà tôi lại, không hiểu có chuyện gì không may xẩy ra cho nhà tôi không?”

            -“Bình thường đó là một vi phạm kỷ luật của trại, mà sự phán xử lại tùy hứng của nguời cán bộ trực tiếp.  Họ từng nói là nguời đại diện pháp luật nhà nước, nên trọn quyền quyết định.  Dù sao, hy vọng anh không gặp trở ngại nào.  Tôi nghĩ họ thông cảm vì vợ chồng lâu ngày không gặp mà khắt khe.

            Ðã khuya rồi hai chị nên đi nghỉ.  Mấy ngày tầu xe mất ngủ đã mệt lắm rồi.  Hai chị nhớ ghép màn cho kỹ, ở đây rất nhiều muỗi rệp.” 

            Mọi người đã vào giường, còn lại một mình Thu đi lại trong sân.  Trăng sáng nên bầu trời trông thật cao.  Từng cụm mây bay ngang che mờ ánh trăng.  Nàng thu mình nơi ghế ngồi.  Hơi lạnh đẫm sương thấm sâu vào da qua lần áo mỏng.  Ánh trăng thật dịu, nhuộm xám những ngọn cây phía xa xa.

            Nàng biết là mình sẽ trằn trọc đêm nay, tâm tư nàng vẫn bị ám ảnh bởi những câu chuyện vừa nghe.  Quả thật lòng nàng đang lo sợ những không may xẩy đến.  Con người vốn bất lực trước cái chết, nhưng ở đây người ta bất lực cả với sự sống, lẫn lộn khổ đau với lo âu.  Sự sống con người nằm trong tay kẻ khác, nó thật mong manh giữa lòng thù hận.

            Nàng thương chồng nhiều quá.  Thu tự hỏi giờ này anh làm gì. Có yên giấc sau giờ lao động mệt nhọc, hay vẫn trằn trọc xúc động về buổi gặp mặt ngày mai.  Tâm tư nàng bấn loạn.

            Trời về khuya càng lạnh.  Sương đêm đã thấm ướt bờ vai, Thu trở vào phòng.  Ngọn đèn điện chiếu sáng căn nhà về đêm.  Vân-anh ngủ thật ngon.  Bên ngoài màn muỗi vỗ cánh như đàn ong vỡ tổ.





                                                                        *


  18.


 (Tháng 4-1975)
            Tiếng gà gáy sang canh làm Thu thức giấc.  Nàng cảm thấy dễ chịu hơn, mặc dù giấc ngủ không trọn vì pha trộn những ác mộng.

            Trời còn sớm, nhưng Thu vẫn muốn trở dậy để sửa soạn bữa ăn sáng nay.  Ðã lâu nàng không có dịp ngồi ăn chung với chồng.  Nàng nhẩm tính những món ăn sẽ làm. Theo những người đi thăm nuôi cho hay, ngoài sở thích còn phải đạt yêu cầu.  Với cái đói hành hạ hàng ngày, người tù cải tạo cần lượng hơn phẩm.  Câu nói cửa miệng: no nhất thời đói muôn thuở, đã trở thành châm ngôn diễn tả đời sống tù nhân trong trại “cải tạo”. 

            Thu đã đọc những đoạn thư của anh em “cải tạo” gửi về.   Lá thư như một thực đơn, gồm những thứ rẻ tiền mà ít gia đình nào dùng trước đây.  Có lẽ người tù “cải tạo” thấu hiểu hoàn cảnh ở nhà, đồng tiền phân bạc ở giai đoạn gạo châu củi quế, cực nhọc lắm mới kiếm ra.  Hơn nữa trong đời sống hiện tại, chỉ cầu no chứ không cầu ngon.  Họ cần những thứ để chống đói.

            Thu nấu xong nồi cà-ri, nàng bỏ thêm vào hai chục trứng vịt luộc.  Một nồi canh miến gà.  Một nồi cơm lớn, đủ cho mười người ăn no, nắm thành năm nắm.  Luộc lại mấy chiếc bánh chưng nàng mua ở bến xe Thanh-hóa.  Thu nghĩ chắc bánh cũng không có gì đặc sắc, nhưng có thêm thức ăn vẫn hơn.

            Trời đã sáng, nhưng sương đêm vẫn phủ mờ cảnh vật một mầu trắng đục.  Thu có cảm tưởng như mình lọt vào thung lũng đọng sương.  Không gian hoàn toàn yên lặng, ngoại trừ tiếng gà gáy sáng quanh đây.

            Vừa ra khỏi bếp, Thu gặp anh “cải tạo” phụ trách nhà thăm nuôi.

            -“Chào chị, hôm qua anh cho tôi hay có chị ra thăm, chị cần gì cho tôi biết.  Mấy ngày tầu mệt mỏi, đêm hôm qua chị  có lạ chỗ không?”

            -“Cám ơn anh, mấy ngày trên tầu quả có mệt vì chỗ ngồi chật chội, nhất là phải thức để coi chừng mấy túi quà.  Khi đến đây chúng tôi chỉ thèm một giấc ngủ ngon, nhưng đêm qua lại khó ngủ.  Vừa chợp mắt gà đã gáy sáng.”

            -“Tâm lý chung đó chị, chúng tôi ở trong trại cũng thế.  Khi biết có thân nhân tới thăm, dù già hay trẻ, đêm đó không ai có thể ngủ được.  Ði lại trong phòng không biết bao nhiêu lượt.  Sợ đi lại nhiều làm phiền các bạn cần giấc ngủ để ngày mai có sức lao động.  Nhưng vừa nằm xuống lại muốn trở dậy, hút thuốc liên miên.”

            -“Gia đình anh ra thăm thường chứ?”

            -“Nhà tôi và cháu lớn có ra thăm tháng vừa rồi.   Nói chị đừng cười, ngoài điểm được gặp mặt gia đình để biết chuyện nhà, chúng tôi còn cần một chút quà, dù chỉ là gói quà nhỏ gửi qua đường bưu điện.  Chúng tôi chẳng khác nào đứa trẻ mong mẹ về chợ.  Thân thể chúng tôi chóng suy nhược vì theo “chính sách ăn để không chết ngay”, nên mong có chút quà để kéo dài sự sống.  Thêm vào đó, về phương diện tâm lý, chúng tôi có niềm vui là không bị bỏ quên.”

            -“Mấy năm vừa qua chúng tôi cũng rất thiếu hụt thực phẩm, không rõ ở trong trại các anh có bị ảnh hưởng không?”

            -“Vâng, năm 1977 là năm đói nhất.  Khi chúng tôi mới ra đây nhiều vùng còn hoang vu.  Chúng tôi phải phá rừng làm rẫy, trồng cấy hoa mầu để tự nuôi sống.  Nhiều khi đói qúa, chúng tôi gặp thứ gì ăn thứ đó, chỉ cốt nhét cho chặt dạ dầy.  Chị ra thăm anh mừng lắm”

            -“Tôi mới nhận được tin nhà tôi ở đây nên vội ra thăm, vì đã lâu không gặp.  Tôi không rõ nhà tôi cần  gì nên chỉ mang những thứ thường dùng.”

            -“Chúng tôi hiểu gia đình ra thăm rất khó khăn, của một đồng công một nén.  Mọi thứ đối với chúng tôi đều qúy.”

            -“Anh có gặp nhà tôi thường không?”

            -“Chúng tôi ở khác phòng, nên chỉ gặp nhau sau giờ lao động.  Chúng tôi luôn mong ngày Tết, vừa có dịp nghỉ ngơi và qua lại các phòng thăm bạn.”

            -“Khi tới đây tôi nghe nói cán bộ trại để ý tới số anh em từ trại Quyết-tiến chuyển về, nên tôi rất lo cho nhà tôi.”

            -“Vâng, các anh khổ hơn chúng tôi nhiều.  Các anh không có cả tự-do tối thiểu của một người tù cải tạo.  Khi tới đây, 48 người các anh được ở riêng một phòng.  Thông thường chúng tôi hỏi thăm các anh em ở trại khác tới, nhưng lần này trại cấm liên hệ.  Anh em trong trại thường gọi các anh là “đại đội trừng giới”.  Ðội các anh  có nhiều người đi kỷ luật nhất.

            -“Nghe anh nói tôi mới biết sự khổ cực mà anh em Quyết-tiến phải chịu đựng.” 

            -“Các anh nói thời gian đầu khi tới trại này là hạnh phúc nhất vì được nằm chỗ rộng, muốn ngủ hay thức tùy ý, không phải đi lao động, ngày hai bữa cơm bưng nước rót, tối ngủ có lính canh. . . Sau đó tôi mới hiểu, các anh đã trải qua nhiều gian nan nguy hiểm, có sợ cũng thế thôi.  Trong cái chết tìm ra con đường sống, trong cùng cực  tìm thấy niềm vui.”

            -“Hôm qua tôi gặp nhà tôi  khi anh đào hố cá nhân bên đường.  Chúng tôi chưa kịp nói câu nào đã nghe tiếng quát gọi tên nhà tôi.  Không hiểu có gì xẩy ra không?”

            -“Người gọi anh là cán bộ quản giáo, hắn kỷ luật nhất trại.  Chị yên tâm, vì anh đã được phép gặp gia đình.”

            -“Anh thấy sức khỏe nhà tôi ra sao.  Không hiểu anh có bệnh gì không?”

            -“Sức khỏe của anh hiện giờ đã khá rất nhiều.  Khi mới tới trại, chúng tôi nghĩ các anh là những bộ xương biết đi.  Nhìn các anh chúng tôi biết các anh vừa trải qua một nơi kinh hoàng nhất.  Tù nhân luôn bị ám ảnh mình sẽ không còn cơ hội trở về với gia đình.  Và cuộc sống sẽ trở lên vô nghĩa khi không còn hy vọng ở tương lai.”

            -“Chiều hôm qua tôi thấy các đội lao động về, người nào người nấy gầy ốm tong teo.” 

            -“Ðời sống chúng tôi bao giờ cũng vậy, cái đói luôn theo đuổi mặc dù đất trồng khai phá nhiều hơn những năm trước, hoa mầu thu hoạch gấp bội.”

            -“Không phải chỉ riêng các anh ở đây, đời sống người dân cũng nằm trong chính sách xiết cuống họng, tóm dạ dầy.”

            -“Trong tình trạng hiện tại, thời gian sẽ làm chúng tôi kiệt sức.”

            -“Thực ra khi thấy các anh, chúng tôi cũng đoán hiểu được phần nào về sinh hoạt đời sống ở trại “cải tạo”.  Nhưng với phần ăn thiếu dinh dưỡng, cái đói gậm nhấm  cơ thể trong lúc lao động lại quá cực nhọc, mà các anh giữ được mạng sống kể cũng là một điều kỳ lạ.”

            -“Vâng, không sớm thì muộn cuộc đời chúng tôi sẽ tàn lụn.  Cái chết chỉ còn chờ thời gian.  Họ không bắn bỏ chúng tôi từ giây phút đầu, thì chúng tôi cũng chết một ngày không xa.  Cái đói hành hạ chúng tôi từng giây phút,  là một cực hình  ghê sợ hơn bất cứ hình phạt nào khác.”  

            -“Chúng tôi biết như thế nhưng không làm sao được.  Trong hoàn cảnh xã hội đổi thay mà sức chúng tôi chỉ có hạn.   Ðối với những gia đình giầu, có của ăn của để, thì việc tiếp tế cho thân nhân cũng không mấy khó khăn.  Nhưng thử hỏi còn đuợc bao nhiêu người, vì với chính sách “biến miền Nam tiến nhanh bằng miền Bắc Xã-hội Chủ-nghĩa”, đã đồng hóa họ với lớp người vô sản.

            Còn thành phần trước đây hàng tháng nhìn vào đồng lương của chồng, chúng tôi chỉ biết săn sóc chồng con.  Thành thử công việc bươi chải kiếm sống đã là những khó khăn cho chúng tôi ở buổi giao thời.”

            -“Trong tù lòng dạ chúng tôi cũng đau xót, nhưng không làm sao được, chúng tôi bất lực trước hoàn cảnh bi đát của gia đình.”

            -“Hoàn cảnh của chồng con là mối thương tâm của chúng tôi.  Chúng tôi muốn chu toàn cho chồng nhu cầu tối thiểu mà không được.  Chúng tôi đã cố gắng  chắt bóp, dành dụm và chỉ được như thế thôi.  Mong các anh thông cảm.” 

            Anh “cải tạo” nhìn ra đường rồi tiếp:

            -“Sắp tới giờ cán bộ tới.  Cần gì chị cho tôi hay.”

            -“Rất cám ơn anh.”



 

                                                                           *

  19.


(Nguồn Google:  Thăm nuôi)
            Những tia nắng đầu ngày xóa dần màn sương phủ mờ ngọn cây, chỉ còn lại những hạt nước long lanh đọng trên thềm cỏ dại.

            Thu ra khỏi bếp lửa, hơi nóng làm ửng hồng nét mặt của nàng.  Gió ban mai mát rượi như mang hơi lạnh của sương đêm.  Nàng xúc động và xót thương, khi nghe câu chuyện kể những gì xẩy đến cho chồng vào lúc bặt tin anh.  Nàng quay lại khi nghe tiếng Vân-Anh, Thu hỏi bạn:

            -“Vân-Anh sửa soạn vào bếp chưa?”

            -“Không có gì nhiều, mà còn lâu mới tới giờ gặp mặt, mình thủng thẳng làm cũng kịp.”

            Thu để bạn lo công việc, còn nàng ra phía sau nhà, tới chum nước kê dưới gốc mận cạnh ao đào, múc nước vào thau.  Nàng cong hai bàn tay vốc nước lên mặt.  Nước thật mát như thấm sâu vào da, làm vơi đi sự mệt mỏi vì nhiều đêm thiếu ngủ.  Thu rửa mặt thật kỹ, như muốn xóa hết nét ưu tư trên khuôn mặt đăm chiêu của nàng.  Thu lấy chiếc gương soi nhỏ, cầm lược chải lại mái tóc.  Phải, nàng muốn làm đẹp trước mặt chồng.  Nàng nhè nhẹ chải mái tóc uốn cong ôm sát phía sau, để lộ chiếc gáy thon nhỏ, phủ mờ những sợi tóc măng mềm mại.

            Nàng nhớ khi mới lấy chồng, anh vẫn thích kiểu tóc tém, hai bên uốn hơi dợn sóng bồng bềnh.  Anh góp ý mình nên để đường ngôi bên, rẽ tóc phía trước.  Khuôn mặt sẽ đẹp hơn, càng lộ vẻ duyên dáng thông minh, nó hợp với nét mặt hơi tây phương của nàng.

            Khi đó nàng nói đùa với chồng, mái tóc cắt ngắn như đàn ông, nhìn từ phía sau khi hai người đi với nhau, giống như hai đứa con trai.  Thu đã ngắm mình trong gương nhiều lần, và nhận ra chồng nàng có lý.  Nàng trông trẻ hơn với mái tóc này, một vẻ đẹp hiền dịu điểm nhẹ một chút kiêu sa.  Từ đó nàng luôn giữ kiểu tóc tém.  Lúc này tóc có hơi dài và thiếu vẻ bóng bẩy vì thời gian cực nhọc vừa qua.  Nhưng nàng muốn chồng thấy, nàng vẫn là con người ngày trước, còn giữ được những nét mà chồng nàng yêu thương. 

            Anh vẫn khen mình có mái tóc đẹp.  Sợi tóc mềm như tơ.  Những sợi tóc mai phủ xuống đôi má mịn hồng càng làm khuôn mặt nàng duyên dáng.  Anh làm mình cảm động khi bảo ‘tóc em như ướp hương thơm mùi lúa Tám, một mùi thơm mát nhẹ nhàng.’   Sau này Thu mới hiểu, khi nghe câu hát của người miền Nam ‘. . . vợ chồng quen hơi’, nói lên tính thắm thiết của tình nghĩa vợ chồng.

            Nghĩ đến hoàn cảnh những người đàn bà như nàng.  Ðang có một đời sống sung sướng, không phải lo âu việc gì, bỗng chốc thời thế thay đổi, như vừa trải qua một cơn ác mộng.  Ðẩy nàng vào một cuộc sống quá cực nhọc, nhiều chông gai.  Nàng luôn cầu xin ơn trên giúp nàng vượt qua những khó khăn, để vươn lên như ngày hôm nay.  Nàng hãnh diện với chồng vì giữ được lòng chung thủy.

            Thu trở vào sân, trên con đường phía trước nhà thăm nuôi, từng đội lao động đi qua hướng về phía núi rừng ở tận cuối con đường.  Lại bắt đầu một ngày gian khổ cho người “tù cải tạo”.

            Thu kiểm lại những thứ mang cho chồng.  Nàng để gọn vào hai bao lớn, còn mấy món ăn vừa làm để riêng trong túi xách tay.   Nàng nhìn qua thấy Liên đang đứng nơi giường nằm. Thu mỉm cười dơ tay đáp lại câu chào của Liên.  Cũng như nàng, Liên kiểm lại những thứ mang theo.

            Cán bộ phụ trách nhà thăm nuôi cho hay 10 phút nữa Liên sẽ gặp thân nhân.  Liên cám ơn hắn, và trở vào xách nững túi quà ra ngoài hiên, sát cửa ra vào.  Vẫn y phục mầu đen như ngày hôm qua, khiến Liên có vẻ đẹp thật dịu dàng kín đáo, nổi bật làn da trắng mịn màng.

            Liên ra đón bạn nơi bậc tam cấp bước lên đường, vẻ hân hoan lộ trên nét mặt rạng rỡ vui tươi.  Hai người vào bàn, ngồi đối diện trước sự chứng kiến của cán bộ thăm nuôi ngồi nơi đầu bàn phía trong.

            Từ chỗ giường Thu ngồi nhìn ra, chỉ thấy những nụ cười pha trộn những giòng nước mắt.  Ðột nhiên Liên đứng dậy, quay về phía cán bộ trình bầy.  Hai người đã quen nhau từ lâu, chưa chính thức là vợ chồng, nhưng đã yêu thương tình sâu nghĩa nặng.  Liên xin được tỏ bầy với người mình yêu thương, trước sự chứng kiến của cán bộ.

            Người cán bộ trẻ ngạc nhiên.  Ðây là lần đầu tiên trong đời, hắn gặp một người con gái trẻ đẹp hết lòng yêu thương, chờ đợi một người tù chưa biềt ngày về.  Tuy vậy hắn vẫn chấp nhận lời yêu cầu của Liên. 

            Liên rời chỗ mình ngồi, vòng quanh chiếc bàn tới  bên Tuấn.  Liên nắm chặt tay Tuấn như cố tìm một chút hơi ấm đã thiếu vắng từ lâu.  Liên đeo nhẫn cho bạn, cô nói: “Em yêu thương anh vô cùng, trong suốt cuộc đời này em chỉ yêu anh, một mình anh thôi. . .”  Giọng nói của Liên nức nở, pha trộn nhiều nước mắt đau thương hơn là âm thanh hân hoan của một ngày vui.

            Chỉ một câu nói giản dị, ngắn gọn như đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần của những người đi trước.  Nhưng ở đây , trong hoàn cảnh này, đã diễn tả tình yêu thương mãnh liệt.  Có lẽ Liên đã suy nghĩ trong bốn năm yêu thương và hơn năm năm chờ đợi.  Một quyết định đã ràng buộc cuộc đời Liên vào sự đợi chờ vô vọng.

            Thu ra cửa nhìn theo.  Liên đang tiễn bạn ra tận cuối sân.  Qua bậc tam cấp bước lên đường Tuấn còn quay lại vẫy chào.  Liên bước nhanh lên mấy bậc tam cấp, lặng nhìn người yêu xa dần.  Dáng Liên thon nhỏ, chiếc khăn tay nơi miệng như muốn giữ cho tiếng khóc không thoát ra ngoài, mà âm thanh chỉ còn là tiếng nấc nghẹn đau thương.

            Thu xúc động khi nhìn cảnh tượng trước mắt.  Có phải đó là một trong hàng trăm ngàn trường hợp đang xẩy ra trên mảnh đất khốn khổ này không.  Và cái chết đang  gậm nhấm những thân xác tàn tạ của người “tù cải tạo”, sống lây lất trên khắp các nẻo đường rừng núi âm u như ở đây không.  Liệu đến bao giờ mới chấm dứt được cảnh chia ly đau khổ này, hay sẽ còn tiếp diễn mãi mãi.

            Cán bộ nhắc Thu sắp đến giờ nàng gặp mặt chồng.  Nàng nhớ lời  hắn nhắc nhở khi nàng tới đây: “Anh ấy cần an tâm để cải tạo, chị không nên nói những gì không cần thiết”.  Nàng thừa biết đó là lời răn chừng.  Những câu nói của nàng sẽ ảnh huởng tới thời gian gặp mặt.  Nàng nghĩ chắc chồng nàng cũng được nhắc nhở trước khi ra đây.

            Thu xắp xếp các thứ gọn gàng để không mất thì giờ tìm kiếm.  Nàng buộc kỹ hai bao quà.  Một túi xách đựng thức ăn và mấy nắm cơm gạo trắng, hơi ấm còn phảng phất hương thơm của lúa mới.  Túi xách tay khá nặng không kể hai bao lớn.  Hy vọng anh có xe ba bánh chở quà vào trại.  Nếu phải gánh như Tuấn liệu anh có gánh nổi không.

            Thu xem lại mấy lá thư các con viết cho bố, tấm hình đứa con trai lớn chụp ở bờ biển Thái-lan.  Nếu cán bộ có kiểm soát thì cũng khó phân biệt, vì cảnh biển nào thu nhỏ trông cũng giống nhau.  Nhưng anh sẽ hiểu khi đọc chữ “Chantaburi TL” ghi mờ bằng bút chì ở mặt sau tấm hình. 

            Thu sửa lại mái tóc, thấm khô những giọt mồ hôi còn vương trên trán, thoáng hiện những nét bồn chồn như buổi gặp mặt lần đầu bao nhiêu năm về trước.  Ðứng bên cửa ra vào, nàng nhìn trọn con đường đất nhỏ dần mất hút vào lối rẽ.  Khu gia đình cán bộ nhộn nhịp.  Một số anh ‘cải tạo’ đang lợp lại mái tranh của mấy căn cuối dẫy.  Các em nhỏ đang nhẩy nhót nơi sân trước ở đầu kia dẫy nhà.  Phía trên đó là nhà giữ trẻ, im lìm sau hàng dậu thấp.

            Hình dáng chồng nàng vừa hiện ra nơi lối rẽ.  Thân hình anh cao, gầy đang bước nhanh.  Có lẽ anh cũng bồn chồn vì nóng lòng gặp mặt.  Chính nàng cũng muốn con đuờng này ngắn lại, năm năm rồi còn gì.  Thời gian đằng đẵng trôi qua, đã để lại trong lòng nàng hằn sâu niềm thương nhớ.  Lòng nàng nao nao với những  niềm vui.

            Thu ra sát bậc tam cấp bên đường đứng đợi.  Mặt trời đã lên cao, ánh nắng đan mây biến mất, khung cảnh trước mắt nàng chói lòa.  Con đường đất rực nắng, không có lấy một bóng cây, trừ những mảnh dậu lấp xấp bên đường.   

            Anh hôm nay tươi tắn hơn, có lẽ vì bộ quần áo trại được giặt sạch sẽ.  Nhờ vậy mà che lấp bớt tấm thân tiều tụy như nàng gặp ngày hôm qua. Tóc anh cắt ngắn nên khuôn mặt thật hốc hác.  Anh gầy đi rất nhiều.  Nàng nhớ câu chuyện kể, các bạn đã ví anh như con trâu già góp vui trong ba ngày Tết.

            Anh bước nhanh xuống bậc tam cấp.  Nàng nghe thấy tiếng “Em” anh gọi, nhưng hình bóng anh bị xóa nhòa sau màn lệ mỏng.  Nàng không cầm được nước mắt.  Những xót thương ở đâu kéo về đầy ắp lòng nàng.  Thu vừa nghe lại âm thanh ngắn gọn nhưng thật ấm dịu. 

            Thu nắm chặt tay chồng, một tay vòng sau lưng anh.  Cánh tay anh thật gầy, nếu không nhờ tay áo che đi, chắc  chẳng khác nào que củi.  Bàn tay anh chai cứng khô nhám.  Nghe bạn anh kể đó là hậu quả của thời gian lao động trên trại Quyết-tiến, các anh phải dùng tay nhổ đám cỏ tranh cao ngang đầu gối.  Bàn tay anh đã chẩy máu sau nhiều ngày lao động, còn lưu lại những vết nứt nẻ, chai cứng.

            Những đốt xương sống gồ lên cao.  Nàng có thể đếm được những dẻ xương sườn.  Bụng anh thắt lại như một túi da bèo nhèo.  Thu và chồng ngồi vào ghế đối diện, sát đầu bàn phía sân.  Nàng muốn ngồi càng xa càng tốt đầu bàn phía bên kia, nơi cán bộ thăm nuôi ngồi quan sát.  Anh lên tiếng hỏi:

            -“Mấy ngày trên tầu chắc em mệt lắm phải không?  Ðêm hôm qua em có ngon giấc không?”

            -“Mấy đêm trên tầu em có chợp mắt đôi chút.  Chúng em phải thay nhau canh chừng đồ mang theo.  Tới đây tối hôm qua lại khó ngủ.  Trằn trọc cả đêm mong trời mau sáng.”

            -“Em gầy nhiều lắm đấy.  Em còn đi bán hàng như thư viết cho anh không?”

            -“Em đã nghỉ bán  gần hai năm.  Bây giờ em đi dậy học tư .  Anh có khỏe không,  trông anh gầy ốm rất nhiều.”

            -“Anh khỏe, không có bệnh tật gì cả, em yên tâm.  Bố mẹ và me thế nào, các cụ có khỏe không em.  Còn hai em vẫn đi làm như thường chứ.  Lâu lắm anh chưa gặp các con, chúng có ngoan không em?”

            Thu nhìn chồng thầm nghĩ, tính anh vẫn vậy, luôn luôn chịu đựng.  Không bao giờ anh muốn người khác phải lo lắng vì mình.

            -“Bố mẹ và me mỗi tuổi một già yếu.  Các cụ mong anh sớm trở về.  Me luôn tụng kinh niệm Phật, cầu xin cho anh được an lành.  Còn mẹ, mỗi lần nhắc tới anh mẹ lại khóc.  Niềm xót thương ray rứt khiến mẹ không cầm được giòng lệ.”

            -“Anh thương mẹ rất nhiều.  Cả cuộc đời mẹ khổ cực vì chồng con  mà không bao giờ  than van.  Anh hối tiếc là khi cha mẹ về già anh không có mặt ở nhà.”

            Thu đưa cho chồng bao thư của các con, tấm hình mấy mẹ con chụp ở chùa Vĩnh-nghiêm vào dịp Tết vừa qua. Hình và thư của đứa con lớn gửi về cho bố.

            -“Khi em đi các con có viết thư thăm anh.  Chúng nhắc tới bố luôn và mong bố sớm trở về với chúng.  Kèm theo đây là hình của Ti.  Ít tháng trước con có theo bạn đi Nha-trang, nó thích vùng biển nên vẫn còn ở đó.”

            Anh đưa xấp thư và hình cho cán bộ kiểm soát.  Hắn xem qua rồi trả lại cho phép anh giữ.  Anh nhìn tấm hình đen trắng mấy mẹ con chụp chung, rồi đến tấm hình mầu đứa con lớn chụp nơi bờ đá đang nhìn ra biển khơi.  Anh lật xem mặt sau tấm hình và lướt nhanh thư  nó viết cho anh.

            -“Các con chóng lớn quá.  Mấy năm không gặp mà chúng khác hẳn lúc anh  ra đi.  Nhìn các con, anh biết em  cực nhọc như thế nào.  Vừa lo lắng cho đời sống, lại còn dậy dỗ chúng lên người.  Anh rất cám ơn em.  Anh thiếu bổn phận với em và các con rất nhiều.  Còn Ti đã đi chơi lâu chưa em?”

            Thu nhìn nét mặt hân hoan của chồng khi đọc thư và xem mặt sau tấm hình của đứa con trai lớn.  Anh đã nhận ra ý nghĩa của dòng chữ ghi phía sau.

            -“Ðáng lẽ em phải hỏi ý anh trước khi cho con đi, nhưng thư em gửi cho anh về địa chỉ trại Quyết-tiến không thấy trả lời.  Em ngần ngừ mãi, mà con lại đòi đi quá nên em tự quyết định.  Anh có buồn em không?”

            -“Trái lại, anh rất vui em ạ.  Chúng mình vẫn có một ước vọng là mong các con trở thành người hữu dụng, chúng có một tương lai tốt đẹp.  Còn các con nhỏ ra sao, chúng có chăm ngoan không em?”

            -“Cũng may có ông nội một bên kèm cặp nên chúng rất chăm ngoan, có giấy khen mỗi tháng.  Em rất mừng đi dậy trở lại, vì có nhiều thì giờ ở nhà với các con.  Chúng ăn ngủ đúng giờ hơn là hồi em đi buôn, sức khỏe các con tốt hơn trước.  Em vẫn kèm các con học mỗi tối, và cho các con học thêm đàn, chúng chăm chỉ tập luyện hàng ngày.”

            Thu nhìn chồng thoáng gặp đôi mắt anh vụt sáng, môi mỉm cuời.  Nàng nhớ anh thường nói khi hai người mới có đứa con đầu lòng:  “. . . khi các con còn nhỏ, phải hướng dẫn và giúp chúng có một cái gì để say mê.  Chúng sẽ dựa vào sự say mê mà vươn lên trong đời sống. . .”  Nàng đã làm theo ý đó, nhất là khi anh vắng nhà còn nàng lại buôn bán ngược xuôi.  Âm nhạc là phương tiện giải trí, giúp tinh thần các con  thảnh thơi trong sáng, mà cũng cầm giữ chúng ở nhà sau giờ học.

            -“Em là người mẹ hiền, hiểu biết và yêu thương các con vô cùng.  Em hy sinh cá nhân em cho các con, đã làm được việc mà ít người làm được.  Em có thường viết thư cho Ti không?”

            -“Em nhớ con nhiều lắm nên viết thư cho nó luôn.  Lần nào cũng vậy, thư em gửi có kèm theo thư các con nhỏ viết cho anh chúng.  Em hy vọng đọc thư gia đình con sẽ vui hơn và đỡ nhớ nhà.”

            -“Anh biết em thương nhớ con, vì từ nhỏ cái gì mẹ cũng lo cho.  Tuy vậy em cũng đừng quá lo lắng về con.  Ðây là dịp tốt để nó tập quen tinh thần tự lập, và sau này lớn lên nó không bỡ ngỡ rụt rè.  Nó biết giá trị đời sống mà không phung phí tuổi xanh.  Nó sẽ có tham vọng  và biết phải tận dụng khả năng của mình để vươn lên.”

            -“Trước khi cho con đi em cũng suy nghĩ rất nhiều.  Ðể con đi một mình ở tuổi quá nhỏ em thực không yên tâm.  Nếu có chuyện gì xẩy ra cho con thì em sống làm sao đây, có phải lương tâm em sẽ bị dầy vò suốt đời.  Cũng may con đi với mấy đứa học trò chỗ em dậy học.  Chúng lớn tuổi hơn con nhiều và yêu thương con như em chúng.  Nhất là em không thể cầm lòng khi con nói nó ao ước đi biển, vì vậy em chiều nó mà cho đi.”

            -“Em quyết định như thế là phải, anh ở nhà cũng hành động như em.  Ðây là món quà quý giá nhất mà em mang đến cho anh.  Còn em dậy học có vất vả lắm không?”

            -“Như anh biết, em thích nghề dậy học.  Em tìm được nguồn vui bên  đám trẻ, điều mà em không có được vào mấy năm về trước, nhất là thời gian đi buôn đầu tắt mặt tối.  Chính em cũng không nghĩ tới thân em, chỉ mong kiếm đủ sống cho các con.  Ấy thế mà chẳng bao giờ đủ, lại thiếu bổn phận săn sóc chúng.  Vì vậy em rất mừng khi trở lại nghề cũ.”

            -“Em dậy nhiều giờ không.  Em dậy tại nhà hay đi dậy từng nhà?”

            -“Em dậy từng nhóm, và tùy theo số trẻ của mỗi gia đình.  Có khi chúng học chung một trình độ, mỗi lớp sáu bẩy đứa.  Nhiều gia đình đám trẻ học khác lớp nhau, việc giảng dậy sẽ có một chút vất vả hơn.  Em đến dậy từng nhà, xen kẽ ba buổi một tuần.  Em được rảnh ngày chủ nhật ở nhà lo cho các con.”

            -“Anh biết em thích nghề dậy học từ khi mới ra trường, nhưng em cũng phải lo cho sức khỏe của mình.  Em là người thầy tận tâm, thường mang hết tinh thần ra giảng dậy.  Nhưng có điều nghề “bán cháo phổi” là nghề hao tổn tâm trí rất nhiều.”

            Thu mỉm cười.  Nàng e lệ như khi còn nhỏ bị mẹ bắt gặp được điều bí mật.

            -“Không ai hiểu em bằng anh.  Mỗi khi dậy học em không tiếc gì công sức.  Em quan tâm đến khả năng mỗi đứa, coi chúng như con cháu mình, nên em có bổn phận giúp chúng tiến bộ.  Trách nhiệm của người thầy nặng nề vô cùng, phải hướng dẫn cho chúng không những chỉ về môn học, mà còn cả mặt tinh thần, làm căn bản cho chúng tiến lên sau này.”

            Nàng thấy chồng mỉm cười, anh nháy mắt tiếp lời:

            -“Anh có nói sai đâu.  Ðối với em nghề dậy học đã là một nghiệp dĩ.  Em chỉ thấy vui khi có nó thôi.  Còn các con nhỏ ở nhà, khi em ra thăm anh liệu chúng có tự lo  được không?”

            -“Trước khi đi, em đã lo liệu cho các con ở nhà đầy đủ.  Hơn nữa có ông bà nội, bà ngoại và các cô ở nhà coi chừng nên em cũng yên tâm.  Tuy các con còn nhỏ, nhưng trong suốt thời gian em đi buôn, các con đã biết tự lo lấy, đứa lớn coi chừng đứa bé.  Dù không có em ở nhà cũng không đến nỗi nào.  Huống chi em đi có một tuần, và lúc này các con đang nghỉ hè.”

            Thu thấy chồng tự nhiên im lặng, niềm hân hoan vừa rồi vụt biến mất.  Ðôi mắt anh trở lên xa xăm, thoáng chút thẫn thờ như lạc vào vùng kỷ niệm hay tới chốn lo âu.  Anh chợt nói:

            -“Anh thương nhớ em và các con nhiều lắm.  Em và các con là nguồn hy vọng của anh, đã an ủi anh trong những năm qua. . . .”

            Tiếng anh nghẹn lại, như niềm đau thương đang dâng lên.  Rèm mi anh lấp lánh như giọt nước vương trong ánh nắng.  Thu thông cảm với chồng khi anh nói câu này.  Ðối với những người “tù cải tạo” như anh, liệu có còn gì là của mình nữa không.  Nàng xót xa cho chồng như chính lòng mình cũng không cầm được giòng lệ.  Thu cất tiếng nghẹn ngào:

            -“Em và các con luôn nhớ đến anh.  Mẹ con em mong anh sớm trở về. . . .”

            Nàng ngừng lại như cố nuốt trôi niềm cay đắng, rồi tiếp lời:

            “. . . Bây giờ các con lớn rồi.  Vi ra vẻ chị hai, mới ít tuổi đã biết lo toan việc nhà.  Con có nhiệt tâm giúp đỡ mọi người.  Khi em vắng nhà cơm nước tự tay nó.  Cũng may các con ngoan, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, vì vậy em yên tâm.  Từ ngày về đây anh có khỏe hơn không?”

            -“Anh lấy lại sức khỏe rất nhiều, khí hậu vùng này ấm hơn nơi anh ở trước.  Gần giòng sông Mã, cảnh trí thay đổi anh rất thoải mái.  Khi ở trại Quyết-tiến vì yếu chịu lạnh nên anh đau ốm luôn.”

             Mải nói chuyện, Thu quên bẵng đi từ sáng đến giờ anh chưa có chút gì vào bụng, nàng hỏi chồng:

            -“Chắc anh đã đói.  Ðể em mang vài món ăn nóng anh dùng một chút cho ấm bụng nhé.”

            Nàng đứng dậy, nhưng anh vội giữ lại.

            -“Anh không đói đâu, anh cần nói chuyện với em nhiều hơn.  Ðã lâu anh không có dịp gần em như hôm nay.”

            -“Anh biết không, nhiều khi em không biết anh ở đâu mà tìm.  Vì bẵng đi một thời gian thật lâu mới lại có tin anh.  Khi anh còn ở miền Nam, mỗi lúc bặt tin anh em cố công đi tìm.  Dù sao trong đó em vẫn quen thuộc đường đi nước bước, nhưng khi hay tin anh chuyển ra Bắc em đành chịu.  Thư em viết không thấy anh trả lời.  Không hiểu anh có nhận được không.  Và khi nhận được tin mới hay anh không còn ở chỗ cũ.  Em lo lắng cho anh rất nhiều, không hiểu việc gì xẩy đến cho anh,”

            -“Anh hiểu em lo lắng cho anh.  Nhiều lúc anh muốn viết thư về nhà nhưng không có điều kiện.  Anh cũng nóng ruột muốn biết tin nhà, có gì trở ngại trong cuộc sống của em không.  Mặc dù trong hoàn cảnh hiện tại , anh không thể làm gì cho em và các con được nữa.”

            -“Em và các con luôn nhớ đến anh, nên mong nhận được tin anh.  Anh vốn là trụ cột, là mái che của mẹ con em.  Em và các con  cần anh lắm biết không.”

            -“Anh hiểu ý em, nhưng em cũng phải lo cho em nữa chứ.  Các con cần em rất nhiều, vì em là nơi nương tựa của chúng.  Anh biết đời sống có nhiều khó khăn, em lo cho các con đầy đủ đã cố gắng lắm rồi.”

            -“Anh yên tâm, em chu toàn mọi việc.  Em luôn cố gắng dậy dỗ các con như khi anh ở nhà.  Em chỉ còn quan tâm về anh thôi.”

            -“Em không nên quá lo lắng cho anh mà có hại cho sức khỏe.  Ðường xá ra đây rất vất vả, hơn nữa các con còn nhỏ dại, chúng cần có em luôn luôn bên chúng.  Khi có điều kiện, em gửi quà cho anh qua đường bưu-điện là đủ.  Anh mong thư của em và các con, vì đó là nguồn an ủi quý nhất đối với anh.  Em ra thăm anh có ai đi cùng  không?”    

            -“Em đi chung với Vân-Anh.  Anh nhớ Vân-Anh bạn học cũ của em không.  Chúng mình đã tới nhà anh chị ấy ở đường Lý-thái-Tổ.”

            -“Anh có nhớ.  Anh có gặp anh ấy, nhưng khác phòng nên ít có dịp nói chuyện.  Chị Vân-Anh và các cháu ra sao.  Cụ thân sinh ra chị ấy có khỏe không?”

            -“Tuần trước em có lại thăm.  Bác già đi nhiều.  Bác có hỏi thăm anh.  Còn hai cháu rất ngoan, chúng giống bố như đúc.”

            Cán bộ nhìn đồng hồ, nhắc chừng vợ chồng Thu đã hết giờ thăm.  Nàng xin cán bộ cho chồng nàng ở lại thêm ít phút nữa mà không được.  Nàng nói với chồng:

            -“Anh đợi em một lát, để em mang các thứ ra.  Nhưng anh mang quà vào trại bằng cách nào?” 

            -“Anh gánh đuợc, em đừng lo.”

            -“Em nghe nói các anh được dùng xe ba bánh chở quà vào trại mà?”

            -“Bây giờ đang mùa thâu hoạch nên không có dư xe.  Khi có thân nhân tới thăm, ai cũng phải gánh quà vào trại.” 

            Vân-Anh đi tới bên Thu:

            -“Chào anh, anh có khỏe không, anh có gặp nhà tôi thường không?”

            -“Cám ơn chị, tôi vẫn thường.  Tôi và anh gặp nhau luôn, dạo này anh trông khỏe hơn trước.  Bác gái có khỏe không, còn hai cháu ngoan chứ?”

            -“Má tôi gìa đi nhiều nhưng cụ dạo này khá, không đau vặt như trước.  Cụ hỏi thăm anh luôn.  Còn hai cháu của tôi ngoan.”

            -“Chắc anh sắp ra, chị cho tôi gửi lời thăm sức khỏe  bác.  Chúc chị trên đường về bình an.”

            Thu giúp chồng xách bao quà lên khỏi bậc tam cấp.  Nàng buộc hai bao lớn vào hai đầu đòn tre, còn túi xách đựng thức ăn anh sẽ phải xách tay.  Nàng nắm chặt tay chồng như không muốn rời xa.  Cán bộ đứng dưới sân nhắc:

            -“Anh Kim về thôi.  Ðã đến giờ nhập trại rồi.”

            Thu thấy chồng nắm chặt tay mình, anh nói:

            -“Em giữ sức khỏe nhé.  Trên đường về em hãy cẩn thận tầu xe.  Các con cần em lắm đấy.  Anh có lời kính thăm sức khỏe bố mẹ và me.  Anh gửi lời thăm các anh chị em và các cháu.  Bảo các con anh nhớ chúng nhiều lắm, anh sẽ viết thư cho các con sau.  Anh biết em thương anh nên đi thăm, nhưng cực cho em quá.  Khi có điều kiện, gửi quà cho anh qua bưu điện là đủ.  Hãy giữ lại cho em và các con khi cần.”

            -“Anh giữ sức khỏe nghe anh.  Em và các con mong anh sớm trở về.  Ráng chịu đựng anh nhé.”

            Thu thấy bàn tay chồng nới lỏng dần, rồi đột nhiên anh lại nắm chặt tay nàng.  Có phải trong lòng anh lúc này cũng không muốn xa rời người mình yêu thương.  Thu chợt bật tiếng khóc nức nở, nàng cảm thấy lòng mình như quặn thắt, như trống trải.  Những lời chia tay thật ngắn ngủi, mà tiếc thương đọng lại thật nhiều.

            Thu giúp chồng để gánh lên vai.  Hai bao qùa chĩu nặng kéo oằn hai đầu đòn tre.  Anh xốc lại gánh cho cân bằng.  Bước chân của anh hơi run.  Nàng biết gánh quá nặng đối với sức của anh.

            -“Liệu anh có gánh nổi không, đừng quá sức nghe anh.  Hay để em giúp anh xách vào trại?”

            -“Không được phép đâu.  Anh gánh nổi mà.  Em hãy cẩn thận trên đường về.  Anh vào trại nghe em.”

            Quang gánh lên vai, tay trái xách túi thức ăn, anh đưa tay kia nắm chặt tay Thu lần nữa.  Chiếc đòn gánh lắc lư hai đầu khi không có tay giữ.  Nàng vội giữ một bên túi để đòn gánh nằm yên trên vai chồng.  Ðôi mắt anh đang thấm ướt, đôi môi anh rung rung khi nói “anh yêu em.”

            Bước chân anh xa nàng dần.  Gánh nặng trên vai anh dần dần chĩu xuống.  Có phải chiếc đòn tre không chịu nổi sức nặng hai đầu, hay vai anh đang chùn xuống.  Dáng anh đi hơi lảo đảo.  Thu thấy chồng quay lại nhiều lần tay để vào môi. . . Như anh đang nhờ gió gửi cho nàng nụ hôn ấm áp, hay chỉ là những cử chỉ muốn níu kéo chút hạnh phúc chợt đến trong khoảnh khắc, mà đã chờ đợi suốt năm năm.

            Mới đi được năm chục bước, Thu thấy chồng để gánh xuống nghỉ.  Anh quay lại đưa tay vẫy khi thấy nàng còn đứng trên đường.  Thu định chạy lại giúp chồng, nhưng đằng kia anh đã quẩy gánh lên vai cất bước.

            Khi thấy chồng gánh, Thu mới hay thời gian vừa qua chồng nàng lao động cực khổ như thế nào.  Cả cuộc đời anh trước kia chưa có lần nào gồng gánh như bây giờ.  Nghe bạn anh kể lại, vào tháng hè nắng cháy, đội anh được khoán phải tưới xong mấy mẫu bắp cải trong ngày.  Anh và mấy bạn tù được ghi nhận là “khỏe hơn” mấy người già yếu bệnh tật trong đội, đã nhận lãnh công việc gánh nước từ giòng sông Mã lên vuờn.  Mặt sông ở dưới thấp, cách mặt vườn hơn ba mươi thước.  Các anh vai gánh hai thùng nước đầy, chạy trên con đường dốc từ mặt sông lên vườn.  Cát trôi dưới chân làm đôi gánh thêm nặng, quãng đường vì vậy dài thêm.

            Có phải được huấn luyện “cải tạo lao động” như thế nên bây giờ anh đã biết gánh.  Nhưng sức lực của anh sẽ tiêu hao dần với tháng ngày “học tập”.  Rồi đến một lúc nào đó liệu anh còn đủ sức để cất bước nữa không.  Thu ái ngại nhìn theo chồng cho đến khi anh mất hút vào lối rẽ.

            Mặt trời đã lên cao.  Ánh nắng gay gắt hâm nóng cả vạn vật.  Thu nhìn lại con đường mình đang đứng, phía sau lưng nàng đưa tới vùng núi rừng xa thẳm.  Phía trước là khu cơ quan, chiếc cột cờ bằng thân tre đơn độc, vượt lên khỏi những mái ngói rêu mốc loang lổ, nằm lấp xấp giữa vùng cỏ rậm.  Bên trái nàng là sân vận động khô vàng dưới ánh mặt trời.  Một số anh em “cải tạo” đang tháo phần tranh cũ của mấy căn cuối dẫy khu gia đình cán bộ.  Kẻ trên mái người dưới sân nhộn nhịp.  Từng lúc họ ngừng tay nhìn qua nhà thăm nuôi, chứng kiến cảnh xum họp rồi chia tay.

            Thu chợt nghe tiếng sáo miệng lập lại nhạc điệu “người yêu tôi đâu” trong phim bác-sĩ Zivago, nổi lên từ phía mái tranh.  Có lẽ anh đang chờ đợi người yêu thương chưa kịp tới, âm thanh nghe như  tang thương đứt đoạn trong lòng.   Và chính  lòng nàng lúc này cũng tan nát, như ký thác vào khúc nhạc buồn, đã diễn tả giây phút buồn tủi chia ly:

            “… Sao thời gian không ngừng trôi, để tiếc thương vương trên môi, và mắt hoen lệ rơi...”

            Phải, mối sầu đắng dâng lên, đang vò thắt trái tim cô đơn trống trải của nàng.  Con đường dài thăm thẳm, vẫn là con đường đất nhỏ ở giữa nơi núi rừng hoang vắng, xa hẳn xã hội bên ngoài, sao vương lại lòng nàng những hờn tủi tiếc thương.  Liệu con đường này có hẹn cho nàng một lần trở lại.

            Thu chợt buông tiếng thở dài, nàng cảm nhận một sự mất mát.  Hạnh phúc bỗng vuột khỏi tay nàng như một lần trở về tay không.

            Trở lại nhà thăm nuôi Thu thấy bạn đang đứng đợi chồng.  Vân-Anh nói:

            -“Thu vào nghỉ đi, trông bạn mệt mỏi lắm đấy.”

            -“Vâng.  Tôi sẽ ra chào anh sau, chúc bạn vui nhé.”

            Thu thẫn thờ bước vào nhà.  Nàng không giữ được  giòng nước mắt, với những tiếng nấc nghẹn đau thương. Trong nhà thật vắng.  Vợ con của nguời chồng tử nạn đã ra đi từ sáng sớm.      Chắc hai mẹ con chị ra thăm mộ người thân yêu lần chót.  Thảm cảnh của người tử nạn vẫn còn ám ảnh nàng.  Nhớ đến chồng, nếu anh ở vào trường hợp này thì mẹ con nàng sẽ ra sao đây.  Kiếp người thật mong manh, lúc còn khi mất quá dễ dàng đơn giản.  Thu lắc đầu, như cố sua đuổi hình ảnh đen tối vừa thoáng hiện.

            Còn Liên đã chia tay nàng sau khi từ giã người yêu.  Nàng cảm thương cho số phận hẩm hiu của người con gái này.  Không hiểu cuộc đời của Liên sau này ra sao.  Hay cũng như nàng, như bao nhiêu người vợ người yêu khác, khó hẹn một câu trả lời.

            Lòng nàng thật buồn, những tiếc thương vẫn làm nàng thổn thức.  Thu đã trải qua hành trình ba ngày trên tầu và một đêm ở đây.  Vượt qua hơn một ngàn cây số đường dài vất vả mà chỉ được nhìn mặt chồng hơn một giờ ngắn ngủi.  Thu nhớ mấy câu thơ, mà đến giờ phút này nàng mới thấy thấm thía.  Ý thơ diễn tả đúng tâm tư của nàng:

            “ Trùng phùng hẹn ước, trong giây khắc,

              Ðôi ngả chia tay, mấy dặm trường”

              Giọt lệ chưa khô, hoen mầu mắt

              Môi hồng phai sắc, nhuốm đau thương. . . .

            Phải, lòng nàng đang buồn tủi, tan nát trước những bất hạnh của một kiếp người vì thù hận.  Tâm trạng đau thương không phải chỉ có ở nơi đây, mà trải dài từ miền núi rừng hoang vắng đến vùng đô thị đông người.  Thu cảm thấy thất vọng những gì đang xẩy ra.  Niềm hân hoan hy vọng của mấy ngày trước vụt tan biến. Tâm tư nàng xót xa niềm nuối tiếc, mọi thứ như vuột khỏi tay nàng.

            Khi Thu đứng dậy mặt trời đã đứng bóng, các toán “cải tạo” đang về trại.  Mỗi lần đi ngang qua nhà thăm nuôi, bằng ấy cặp mắt quay nhìn mong gặp mặt người thân.   Vẫn quần áo tả tơi, mặt xạm nắng, thân hình gầy ốm, cất bước mệt mỏi như một khúc phim quay không dứt.  Không hiểu họ sẽ kéo dài sự sống được bao lâu nữa.  Hay những khối óc thông minh, những tay nghề siêu việt thay vì được xử dụng giúp đời, xây dựng lại đất nước sau bao nhiêu năm chiến tranh đổ vỡ.  Ðã bị một chút thành kiến giai cấp, hay vì quyền lợi của tập đoàn lãnh đạo mà bị hủy diệt, gục ngã nơi rừng núi hoang vu.  Nàng cảm thấy sự bất lực của con người, không phải trước quyền lực vạn năng của Thượng đế, mà là trước cái vô nhân của bạo quyền.

            Vân-Anh đang mang dần những bao quà ra cửa, Thu tới phụ bạn xách ra ngoài.  Nàng chào chồng bạn.

            -“Chào anh, anh vẫn thường chứ?”

            -“Cám ơn chị tôi vẫn thường.  Hôm qua gặp anh cho hay chị ra thăm.  Nghe nhà tôi nói về cháu lớn, tôi có lời chúc mừng anh chị.  Chúc chị đi đường bình an.”

            -“Cám ơn anh.  Các anh nhớ giữ sức khỏe.”

            Thu đứng lại trên thềm nhà, còn Vân-Anh đưa chồng qua mấy bậc tam cấp bước lên đường.  Nhìn thấy chồng bạn nàng không còn ngạc nhiên nữa.  Hình hài những người “tù cải tạo” đều giống nhau, bất kể tại miền Nam hay miền Bắc, vẫn chỉ là những thân xác đang tàn lụn. Nàng không tưởng tượng được sự thay đổi quá nhanh nơi chồng bạn, chỉ sau mấy năm “học tập cải tạo” con người đã biến dạng.  Nàng tội nghiệp vì họ còn quá trẻ.  Mới có với nhau hai đứa con nhỏ, thời gian yêu thương chưa được bao lâu đã phải chia tay.

            Vân-Anh trở lại sân vẫn chưa dứt được tiếng nức nở, nghẹn ngào, hai mắt đỏ hoe.  Thu thông cảm với bạn, vì chính nàng cũng vừa sống trong cảnh chia tay đầy nước mắt.  Nàng hỏi bạn:

            -“Vân-Anh định bao giờ mình rời đây.  Bây giờ cũng đã trưa rồi?”

            -“Thu có định ăn một chút trước khi đi không?”

            -“Bạn có đói không, còn mình không muốn ăn gì cả, vì có nuốt cũng không vô.  Nếu Vân-Anh không đói chúng ta nên đi sớm, gặp đâu ăn đó.”

            -“Thu tính như vậy tiện hơn, mình cũng muốn đi sớm.  Ở lại cũng chẳng được gặp mặt mà chỉ làm chúng mình buồn thêm.”

            Thu cầm giỏ xách xem lại những thứ mang theo, bộ quần áo giặt chiều hôm qua vừa kịp khô, chiếc áo len ngắn tay. . . Hành trang thật nhẹ nhàng, không giống khi đi tay xách nách mang.  Nhìn qua bạn, Vân-Anh cũng vừa thu xếp xong.  Cũng như nàng chỉ có một xách tay nhỏ.


20.



            Thu và Vân Anh ra khỏi nhà thăm nuôi, con đường đất phía trước vắng tanh.  Khu gia đình cán bộ bên kia đường không còn tiếng động, lúc này đang vào giờ nghỉ trưa.   Còn quá sớm nên chưa có gia đình nào tới thăm nuôi.  Chuyến xe chở khách tới đây cũng phải xế chiều.

            Qua khỏi khu gia đình cán bộ, rồi nhà giữ trẻ.  Gần tới chỗ rẽ, không hẹn hai người cùng nhìn lại.  Nhà thăm nuôi  nhỏ bé, ẩn sau những bụi chuối trồng quanh nhà trông thật hiu quạnh.

            Tới chỗ rẽ, con đường thoải dốc nằm sát chân tường trại.  Bên phải là rừng lim, tàng cây rậm rạp che khuất ánh mặt trời, khiến khung cảnh núi rừng thêm âm u.

            Thu quay sang nói với bạn:

            -“Vân-Anh thấy không, chúng ta đã thấy tận mắt cách đối xử của nhà nước đối với người “cải tạo” miền Nam như thế nào. Miền Bắc có hàng trăm trại, ngay tại Thanh-hóa cũng có mấy nơi.  Hết Lam-sơn, Thanh-phong, đến Vườn Cam rồi Thanh-cẩm.  Ngày trước nổi tiếng miền Bắc có Ðầm đùn, Lý-bá-Sơ.  Còn bây giờ trại nào cũng chung chính sách đó, chưa kể trại Quyết-tiến là vùng đất chết của người tù cải tạo.”

            Vân-Anh gật đầu:

            -“Miền Bắc còn nhiều nơi khác nữa, rải rác khắp vùng rừng núi.  Chỉ cần một dẫy nhà tranh cũng trở thành nơi nhốt tù.  Rừng sâu núi cao đã là hàng rào thiên nhiên cầm giữ người “cải tạo”.  Những nơi này có bao giờ để cho các cơ quan thiện nguyện hay báo chí quốc tế tới thăm đâu, có khi nó không có tên trong danh sách công khai.  Thu có nghe nói tới trại Hà-tây không, ở đó sướng lắm thì phải.”

            -“Cái đó cũng dễ hiểu thôi.  Vì nằm sát Hà-nội, nên là một trại trình diễn về cách đối xử nhân đạo của nhà nước đối với tù cải tạo miền Nam.  Trại có ít người, đa phần là những nhân vật tên tuổi của miền Nam trước đây, nên được hưởng quy chế đặc biệt.  Người ta gọi “trại cải tạo là địa ngục trần gian”, thì anh em “tù cải tạo” bảo Hà-tây là “thiên đường nơi hạ giới”.

            -“Như vậy trại Thanh-cẩm ở loại nào?”

            Thu ngao ngán thở dài:

            -“Dù không bì được với trại Quyết-tiến, trại Thanh-cẩm vẫn còn âm vang cũ.  Mặc dù mang tên mới để mọi người không bị ám ảnh bởi thành tích cũ, nhưng ếch nào chẳng là thịt, vì vậy kỷ luật vẫn kinh người.”

            -“Thu thử nghĩ xem, chỉ nghe qua một vài chuyện kể ở nơi đây, mình không hiểu tại sao các anh “cải tạo” có thể kéo dài sự sống đến ngày hôm nay.  Hai năm trời đâu phải là ngắn, họ phải sống ở một nơi dài rộng bằng mấy bước chân, trong bóng tối ngày cũng như đêm, có được nhìn thấy ánh mặt trời đâu.  Không kể phải ngủ chung với những ống tre đựng đồ phế thải của thân thể, trong khi chân bị cùm xích.  Liệu Côn sơn  Phú-quốc có bì được với nơi này không?”

            -“Vân-Anh nói đúng đó.  Trước ngày 30/4, có hội đoàn phản đối về sinh-hoạt đời sống tù nhân miền Bắc bị bắt trên chiến trường miền Nam.  Nào là ăn uống không đủ chất dinh dưỡng, chỗ ở không thoáng khí. . . .”

            Vân Anh góp lời:

            -“Ấy là chính quyền miền Nam đã cho tù ăn ngày ba bữa, với chất ngọt chất béo đầy đủ.  Bởi thế trước ngày 30/4/75 có một câu nói: “nhất tù, nhì quân khuyển, thứ ba mới tới nhân viên an ninh trại”.  Nghe có vẻ tiếu lâm nhưng lại là một sự thật.  Còn đời sống những người tù miền Nam trong các “trại cải tạo” của cộng-sản ra sao, thử hỏi có ai là người để ý tới.”

            -“Vân-Anh thấy không, đúng là cảnh “dậu đổ bìm leo”, chung quy chỉ đám dân đen là khổ.  Mình nghĩ miền Nam khi đó như chiếc áo, hết thành phần này đến thành phần khác dành giật, khiến chiếc áo tả tơi làm nhiều mảnh.  Họ đòi hỏi quyền lợi đè đầu cưỡi cổ người dân, chia chác mấy ghế đại diện.  Khi cộng-sản chiếm trọn miền Nam mới lòi ra là một thứ công cụ.”

            Hai người trở lên yên lặng, như uất ức đã làm nghẹn lời.  Qua khỏi vòng tường trại, cánh rừng lim phía bên phải bị đẩy ra xa, khung trời mở rộng.  Con đường đất như con trăn khổng lồ đang trườn mình trên sườn đồi.  Khi tới gần đỉnh dốc, chỗ ngọn núi xẻ đôi, phía trước chỉ thấy màn mây trắng xóa, con đường đất đổi chiều đổ dốc về sườn núi bên kia.  Từ trên đỉnh dốc nhìn lại, khu trại nằm trong vòng tuờng cao mầu xám lợt, hiện ra như một ốc đảo hoang vắng đơn độc,  trông thật  nhỏ bé giữa khung cảnh rừng núi trùng điệp hùng vĩ.  Phía xa xa nơi làng Ngọc, ngọn núi cao ngất, mây trắng đã che mất phần đỉnh, sương khói bao quanh, phủ mờ mầu xanh của cây rừng. 

            Con đường đất vươn lên cao, khiến giòng sông Mã nằêm sâu dưới chân núi.  Giờ này nước thủy triều đang lên, vẫn một mầu nâu đục.  Mặt nước bắt đầu lan dần vào cồn bãi bên kia bờ sông, chẳng bao lâu mặt sông sẽ trải rộng lấn vào bìa làng, bao trùm cả một vùng đồng cỏ.  Khu làng  nhô lên khỏi mặt nước như một cù lao.   Và khi buổi chiều tắt nắng, nước ồ ạt kéo về, giòng sông Mã chẩy nhanh như bóng ngựa.

            Khi tới khu trồng sắn, Vân-Anh bỗng nói:

            -“Thu nhớ không, chiều hôm qua chúng mình tới chỗ này có gặp một số đông  dân làng quần áo nhiều mầu, lưng mang gùi đang mót sắn.  Sao hôm nay không thấy họ?”

            Thu quay qua bạn:

            -“Nghe người đánh xe trâu cho hay họ là dân huyện Cẩm-thủy, cách đây hơn mười cây số, vì thiếu thực phẩm nên tới các trại cải tạo miền Nam để mót sắn.  Thường thường họ lấy được nhiều, vì các anh “cải tạo” để lại cho họ một phần.”

            -“Hôm nay mình đi trở ra thấy con đường như gần hơn.  Bạn đã nhìn thấy trại hình sự ở phía xa chưa?”

            -“Tuy nhìn thấy nhưng cũng còn xa lắm.”

            Rừng tre đang ở phía trước.  Thu nhớ sắp tới con suối băng qua đường.  Giờ này chắc nước chưa sâu, vì hôm qua tới trễ hơn mà mực nước mới cao ngang đầu gối.

            Khi tới con suối, nước mới ngang bắp chân, trong vắt mát rượi.  Thu bảo bạn:

            -“Ngồi nghỉ một lát đi Vân-Anh, cũng sắp tới trạm xe ngừng, chúng ta còn dư thì giờ.  Nước suối mát lắm.”

            Vân-Anh theo bạn dừng chân.  Thu xắn cao quần đi lại giữa giòng suối.  Nước suối thật mát giữa buổi trưa nóng bức. Thu ngồi trên tảng đá trồi lên giữa giòng suối, cúi người vốc nước rửa mặt, thả hai chân khỏa trên mặt nuớc.  Làn nước mát làm nàng dễ chịu.

            Thu rời tảng đá bước lên bờ, vuốt thẳng hai ống quần.  Hai người tiếp tục đi theo con đường đất nằm giữa khu rừng tre dầy đặc.  Tới trạm xe Thu bảo bạn:

            -“Mình đứng đây đợi sẽ không có vé lên xe, vì họ bán vé ở trạm trót.  Vân-anh ở đây đợi, khi xe từ Thanh-hóa xuống tôi sẽ theo xe lên trạm mua xé.  Khi xe trở lại bạn lên xe thì tốt hơn.”

            Vân-Anh gật đầu:

            -“Bạn lo cho tôi nhé.  Tự nhiên mình cảm thấy hơi chóng mặt, người yếu đi như  không bước nổi nữa.”  

            -“Vân-Anh ngồi nghỉ đi, mặt bạn hơi xanh đấy, xoa một chút dầu gió sẽ thấy dễ chịu hơn.”

            Xe Thanh-hóa tới ngừng trước trạm.  Ðợi những người xuống xong Thu mới lên xe.  Trong xe chật ních, không có lấy một chỗ trống, nàng phải đứng trên bậc lên xuống phía cuối xe.  Hai tay Thu bám chặt vào cánh cửa đã cắt bỏ nửa phần trên.

            Tới trạm, Thu mua hai vé đi Thanh-hóa.  Lúc trở ra xe, những người có vé đã lên trước.  Nàng lại phải đứng cuối xe như lúc lên đây.

            Khi tới nơi Vân-Anh đứng đợi, Thu kéo bạn lên đứng chung với mình ở bậc xe lên xuống phía ngoài cánh cửa.  Cũng may đường xấu nên xe không chạy nhanh.  Nhưng mỗi lần xe chạy qua những ổ gà, hai người phải bám chặt vào cửa xe để không bị hất xuống đường.  Những khi xe rẽ trái hay phải, hai người cũng dạt qua dạt lại.  Và lúc xe vòng quanh chân đồi hay lên dốc cao, Thu có cảm tưởng nàng đang đánh đu ngoài cánh cửa.

            Tới Thanh-hóa trời còn sớm, vì mãi tám giờ tối tầu mới khởi hành, Thu rủ bạn đi thăm mấy con phố gần ga.  Hai bên đường san sát những căn nhà liền vách, vẫn mái ngói tường xây.  Có lẽ đã lâu ngày không tu sửa đổi mới nên cũ kỹ và hư hỏng.  Ít  xe có động cơ qua lại, đa phần là xe đạp.  Thu quay qua Vân-Anh:

            -“Vân-Anh nhớ không, khi còn đi học mình đã đọc sách nói về thành phố du lịch này, và hằng ao ước tới thăm nơi đây.  Nghe nói trước ngày di cư thành phố này tuy nhỏ nhưng đẹp và sạch vô cùng.  Từ con đường này tới ngã tư phía trước rẽ tay phải là hướng ra biển.  Một vùng biển còn giữ được nhiều nét thiên nhiên.”

            -“Mình cũng như Thu, trước khi di cư vào Nam vì còn nhỏ nên chẳng được đi đâu xa.  Mình có theo bố mẹ đi Hạ-long, Ðồ sơn nhưng cũng chưa đủ lớn để thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên.  Mình chỉ biết Sầm Sơn qua chuyện kể.  Không ngờ giờ phút này mình đang ở sát bên, nhưng rất tiếc không có thì giờ để thăm viếng.”

            -“Mình cũng không nhớ rõ tại sao vùng biển này mang tên Sầm Sơn, nhưng âm thanh cho mình cảm nghĩ đó là một nơi hoang sơ kỳ bí.  Sầm Sơn không giống Vũng Tầu hay Nha-Trang, những nơi có nhiều dấu tích do bàn tay con người góp phần xây dựng.”

            -“Nghĩ mà tiếc.  Thu thấy không,  điều mình ao ước từ lâu mà giờ phút này cũng không thực hiện được dù trong tầm tay với.  Mình vốn thích biển, nên nghe kể đã nôn nóng.  Còn gì vui bằng, cách biển cả cây số đã nghe thấy tiếng sóng gầm.”   

            -“Mình cũng thích biển như Vân-Anh.   Nhưng nét đặc biệt của vùng biển này là sự yên lặng, lác đác những căn biệt thự xinh xinh ẩn mình trong rừng phi lao.  Các con đường trải nhựa sạch bóng, vì được gió biển thổi sạch những rác rến rải rác trên mặt đường.”

            -“Có một điểm mà ở nơi đây khác với các vùng biển khác là, đứng trên đường nhìn ra biển, mép nước còn khá xa, chỉ thấy thềm cát thoải dốc bao la.  Không giống như Vũng Tầu, các dan hàng nằm sát bãi tắm, khiến cảnh biển như thu hẹp lại.”

            Thu tiếp lời:

            -“Nghe chồng mình kể lại, anh đến đây trước ngày di cư  vào Nam.  Anh thường ra biển vào buổi sáng sớm, nhìn những trái thông còn nguyên cánh nhọn, theo gió thổi từng đàn lăn trên thềm cát mịn.  Từ thềm cát này phải đi một khoảng xa mới tới biển.  Ôm sát bờ nước là những tảng đá lớn tròn trịa như những viên sỏi không lồ, nằm xếp lớp với nhau nhẵn bóng một mầu vàng nâu.”

            Giọng Vân-Anh bỗnhg trở lên tiếc nuối:

            -“Nói như vậy, nhưng trước mắt chúng ta, thành phố này có phải là thành phố ngày xưa, với tâm tư người dân thuở trước.  Hay cảnh cũ đã thay đổi, mà với tâm tư của chúng ta bây giờ, khi đứng trước cảnh biển bao la, khung cảnh thơ mộng, liệu có tìm thấy nguồn vui trong lòng.”

            -“Vân-anh nói đúng đấy.  Khi di cư vào Nam mình còn nhỏ nên không nhớ nhiều về miền Bắc.  Mình chưa có kỷ niệm riêng tư, ngoại trừ một ít hình ảnh về Hà-nội và quê hương Sơn Tây của mình.  Bây giờ đứng trước khung cảnh này,  chắc làng quê mình cũng không còn như xưa.”

            Hai người trở lại ga xe lửa khi trời vừa tối. Những quán nước nhỏ nhộn nhịp với khách đợi tầu. . . .


21.
(Đèo Hải Vân)
Thu tựa sát vào vách tầu.  Nàng xoay người trên khung ghế gỗ mong tìm một vị thế thoải mái.  Nàng muốn duỗi thẳng hai chân, vuôn vai cho đỡ mỏi, nhưng chỗ ngồi quá chật hẹp.  Còn phía dưới chân, nơi gầm chiếc bàn nhỏ giữa hai hàng ghế, hai người ngồi đối diện đã để đầy đồ.
            Thu như một lực sĩ chạy nước rút, cơ thể rã rời khi về tới đích.  Sau mấy ngày đường ăn ngủ thất thường, sức lực như tiêu tan, còn tâm hồn trống trải mất mát.   Nhìn qua Vân-Anh, nàng hỏi bạn:   
-“Vân-Anh có mệt không, ngủ một chút cho khỏe.  Trông bạn mệt mỏi lắm đấy, còn mình cơ thể cũng rã rời.”
            Vân-Anh nhìn Thu gật đầu:
            -“Mình cũng vậy, mặc dù đêm hôm qua đã ngủ được một giấc, nhưng đầu óc vẫn nặng nề, chân tay như đi mượn.  Còn Thu chắc mệt lắm, vì bạn ngủ rất  ít.”
            -“Mình giống như người quá bữa, bụng đói mà nuốt không vô, muốn ngủ mà đôi mắt khô cứng.  Lúc đi nôn nóng bao nhiêu, khi về lòng mình buồn bấy nhiêu.”
            -“Thu thấy không, trước khi gặp mặt mình dự tính nhiều điều muốn nói, nhưng khi gặp lại khó mở lời.”
            -“Chẳng riêng gì Vân-Anh.  Không phải vì thời gian gặp mặt quá ngắn ngủi, hay vì có mặt người cán bộ luôn luôn theo rõi, mà phần lớn vì hình ảnh chúng ta nhận được quá đột ngột, khiến mình xúc động ngỡ ngàng.”
            -“Mình cũng có ý nghĩ như bạn.  Mình có cảm tưởng người chồng trước mặt, chỉ sau mấy năm “học tập cải tạo”, đã khác hẳn với con người ngày trước.  Hoàn cảnh sống đã thay đổi hình dáng con người, liệu những đầy ải này có ảnh hưởng tới tinh thần hay không.”
            -“Cũng may sáng hôm nay Vân-Anh mới gặp mặt, tương đối quần áo anh ấy đã chỉnh tề, sạch sẽ.  Còn tôi gặp nhà tôi hôm qua, khi anh đang lao động bên đường.  Có phải xúc động vì lâu ngày không gặp, hay sức khỏe đã quá suy nhuợc, nên hố sâu ngang thắt lưng mà anh phải nhẩy hai lần mới thoát lên miệng hố.   Chiếc áo xanh trại phát xé ngắn tay đã bạc mầu, lưng và vai vá bằng mảnh vải kẻ ô vuông mà tôi đưa cho anh vào lần thăm năm năm về trước.  Mình không cầm được nước mắt.”
            -“Mình cũng xúc động như Thu.  Trong lòng mình như mang một niềm đau bất tận.  Khi miền Nam mất vào tay cộng sản là chúng ta mất tất cả.  Nhưng có điều mình luôn nhớ lời tuyên bố của nhà nước hứa hẹn sau ngày chiếm trọn miền Nam: “vì tình ruột thịt, nghĩa đồng bào đã khoan hồng. . . .”
            -“Mình nghĩ vì lâu ngày không gặp, niềm yêu thương làm mình xúc động mà mất đi nhận xét chính xác.  Nhưng đến sáng hôm nay, khi nắm bàn tay chai cứng, cánh tay khẳng khiu, vai trơ xương lòng mình càng chua xót.  Giọng nói của anh cũng khác lạ, thều thào như người vừa dứt cơn bệnh nặng, vì hàm răng rụng quá nhiều.  Mình tự hỏi, ở hoàn cảnh này liệu anh còn sống được bao lâu nữa.”
            -“Mình cũng băn khoăn như Thu trước những lời hứa hẹn.  Nhà nước  đề cao “lá lành đùm lá rách, máu chẩy ruột mềm” như một nghĩa cử, mặc dù chỉ là sự khoan hồng cho người cùng nòi giống trở thành thù địch sau một lần xâm lăng.  Sau bao nhiêu năm thi hành chính sách khoan hồng, hưởng sự giáo dục bằng đường lối lao động, chúng ta chỉ thấy thân nhân mình chết dần mòn trong các trại cải tạo.”
            -“Nhiều người cũng có nhận xét như Vân-anh, chúng ta vẫn thắc mắc trước những nghịch lý.  Nào là “khoan hồng nhân đạo”, nào là “tình nghĩa đồng bào ruột thịt” được điểm tô bằng danh từ “chính nghĩa”.  Mình  không hiểu thế nào là “công đạo” khi cưỡng chiếm của cải vật chất của người miền Nam.  Khi bắt tù đầy hàng triệu người miền Nam trong các trại “tập trung cải tạo”.  Ðấy có phải là “lòng nhân đạo” đã được nêu cao, hay chỉ là một thứ “chính nghĩa” của bạo quyền.”
            Vân-Anh buồn bã:
            -“Phải, chúng ta đang được hưởng thành quả của chính sách “khoan hồng nhân đạo” của nhà nước Xã-hội Chủ-nghĩa.  Và trong lòng chúng ta đang mang một vết thương tủi nhục hận thù trước cảnh nhà tan cửa nát vì hai chữ chính nghĩa.”
            Thu nghe bạn thở dài như đang cố nén niềm tủi hận.  Nhìn nét mặt Vân-Anh thật buồn, nàng hỏi bạn:
            -“Có chuyện gì mà trông Vân-Anh buồn thế?”
            -“Tuần trước gặp bạn mình vui quá.  Chúng mình có  nhiều chuyện để nói trong suốt thời gian không gặp, thành thử chưa nói Thu biết về ý định vượt biên của mình.  Lần này ra thăm, mình đã cho chồng mình hay là sẽ cho các cháu theo gia đình đi vượt biên.”
            Thu vội hỏi:
            -“Phản ứng của anh ấy thế nào.  Bạn nghĩ kỹ chưa?”
            -“Dự tính này có từ lâu, gia đình mình đã sửa soạn đâu vào đấy.  Thực khó mở lời từ biệt với người mình yêu thương.  Mình thấy tội nghiệp cho chồng, vì vợ con là nguồn yêu thương an ủi duy nhất của anh.  Nhiều khi mình muốn dứt khoát dẹp bỏ ý định ra đi vì nghĩ đến anh ấy.
            Cuộc đời chúng mình đã muộn màng mặc dầu chúng ta còn rất trẻ.  Nhưng còn các con mình, chúng có tương lai của chúng.  Dưới một chế độ mang đầy tính hận thù này, thì năm mười năm nữa chúng sẽ ra sao.  Hay chúng sẽ được giáo dục hận thù cả với người sinh thành ra chúng.”
            -“Mình cũng có ý nghĩ như Vân-anh.  Nghĩ tới tương lai các con, lòng mình càng chua xót.”
            -“Thực ra mình luôn ở trong tình trạng đứng giữa ngã ba đường, một bên là chồng một đằng là con.  Mình mong đợi ý kiến của anh ấy sẽ là quyết định sau cùng, để mình chọn lựa ra đi hay ở lại.”
            Thu vội ngắt lời bạn:
            -“Anh ấy đồng ý với quyết định của Vân-Anh?”
            -“Vâng, chồng mình đồng ý để mình đưa các cháu ra đi, và còn nhắc đừng lo lắng quá nhiều cho anh ấy, hãy lưu tâm dậy dỗ các con lên người.  Anh không nói một lời cản lại, cũng không hỏi ai là người sẽ lo cho anh ấy sau khi mẹ con mình ra đi.  Mình càng chua xót khi nhìn nét mặt thật buồn của anh.   Lúc đó lòng mình cũng dấy lên niềm đau xót với viễn ảnh đen tối, nếu một mai không còn gặp lại chồng mình, có phải mình sẽ hối hận suốt đời không.”
            Thu im lặng, nàng cảm nhận nỗi đau thương nơi bạn, cũng như hành động của chồng Vân-Anh.  Anh không muốn mình là một gánh nặng cho gia đình, có mặc cảm thừa thãi như một loài tầm gửi.  Cuộc sống không ngày mai của người “tù cải tạo” còn gì để hứa hẹn, đã buộc anh phải chấp nhận mọi hoàn cảnh xẩy đến.
            Thu nắm tay bạn:
            -“Mình biết Vân-Anh rất khó xử.”
            -“Mình đã mất nhiều đêm không ngủ, đã suy nghĩ kỹ về chuyến ra đi này.  Nhiều lúc tự hỏi, có phải mình  chạy trốn nền “Hòa bình” ở nơi đây không.  Có phải mình  chối bỏ sự “Tự-do” mà chế độ  này “ban” cho không.  Tại sao những người còn ở lại trên giải đất thân yêu này vẫn hăm hở tìm cách ra đi, coi như mảnh đất quê hương không còn là nơi dung thân của họ.  Mặc dù họ hiểu rằng, nơi mà họ tới được gọi là vùng đất hứa, vẫn cho họ mặc cảm tạm bợ, tha phương.”
            Thu cảm thấy lòng mình chua xót trước suy tư của Vân Anh, nàng tiếp lời:
            -“Mối lo của mình trước cảnh “con không cha như nhà không nóc”, nhìn đám trẻ lớn lên trong hoàn cảnh này mà thương.  Liệu chúng có được sự bình lặng trong tâm hồn để vươn lên trong đời sống, hay sẽ bị gò bó bởi giáo điều độc hại mà mai một tài năng.”
            -“Thu thấy không, nhiều lúc thấy những việc xẩy ra trong đời sống hiện tại, mình  nhớ đến chuyện xưa.  Trước ngày bị xâm chiếm, người miền Nam đã “trót” được hưởng một đời sống “Tự-do Dân chủ”.  Dù đời sống đó chưa hoàn toàn, nhưng người dân còn cảm thấy mình được sống với đầy đủ quyền sống của con người.  Còn bây giờ, dưới chế độ này, chúng mình không biết tương lai đi về đâu.  Tại sao chúng ta phải chấp nhận sự hy sinh to lớn như thế này.  Một cuộc sống chồng một nơi con một nẻo.”
            Thu cảm thấy buồn lây khi nhìn những giọt lệ đang lăn dài trên má bạn.  Như chính lòng nàng lúc này, niềm tủi nhục uất nghẹn trào dâng.  Nàng nắm tay bạn, những mong chia sẻ nỗi lo âu thống khổ.
            -“Vân-Anh thấy đó, sau lần cháu lớn ra đi mình đâm sợ cảnh vượt biên.  Nguời tổ chức mong thâu được nhiều tiền.  Tầu thuyền đã nhỏ lại cũ, máy móc sửa chữa nhiều lần, lại ham chở nhiều người.  Mức an toàn rất thấp, ấy là chưa kể những nguy hiểm dọc đường.  Bạn phải xem xét cẩn thận mới được.”
            -“Lần đi này do anh mình tổ chức, sửa soạn đã lâu, mọi thứ hoàn toàn thuận lợi.  Những người đi chuyến này là thân nhân gia đình mình.  Vì thương mình là con út, lại gặp cảnh không may nên mọi người nán đợi quyết định của mình là khởi hành.  Thu có ý định cho các cháu đi không.  Thuyền còn dư nhiều chỗ lắm.  Sang đó mình giúp nhau sống, chắc cũng không gặp khó khăn.”
            -“Cám ơn Vân-Anh đã nghĩ tới mình và các cháu.  Mình đã nghĩ tới điều này khi cháu lớn ra đi.  Mình quyết định không đi vì không nỡ để anh ấy ở lại một mình, mặc dù hy vọng xum họp thật mong manh.  Nhiều lúc mình cũng có ý nghĩ như Vân-Anh, chúng mình hãy hy sinh tình riêng cho các con.  Nhưng ra đi trong lúc này mình chưa sửa soạn tinh thần.  Dù sao cũng cám ơn bạn đã nghĩ tới mình.”
            Ðã nhiều lần Thu được bạn rủ đi vượt biên.  Ngay sau khi đứa con lớn ra đi, chủ tầu chỗ nàng dậy học đã giúp nàng nhiều cơ hội, nàng vẫn từ chối. Không phải vì sợ hãi những bất trắc trong chuyến đi, mà lòng nàng không muốn rời xa chồng, mặc dù khi đó bặt tin anh, biết anh còn sống hay đã chết.  Nàng vẫn muốn chờ đợi, vẫn mong có ngày gặp mặt.  Còn bây giờ ra đi, có khác gì hai phương trời cách biệt, liệu còn gặp lại nữa không.

                                                                       *

22.

(Cầu Hiền Lương sông Bến Hải)
            Sông Bến Hải hiện ra lờ mờ trong bóng đêm.  Con tầu đã lọt vào lòng cầu Hiền-lương. Thu nhớ đến bài hát về con sông này.  Lời ca như tiếng khóc chia tay của kẻ ra đi và người ở lại.  Và chính lúc này âm hưởng của bản nhạc gieo vào lòng nàng nỗi buồn thấm thía.  Giòng sông này đã trở thành lằn ranh chia cắt, ngăn cách tình cảm huynh đệ bằng ý-thức.  Ðã biến nửa phần kia của một quốc gia trở thành thù địch.
            Sau chiến dịch mang tên “Bác”, người dân hai miền chờ đón một hình ảnh thống nhất.  Nhưng thực ra chỉ mới thống nhất về phương diện địa dư, mà lợi điểm là người miền Bắc không còn phải hy sinh mạng sống con em mình khi đánh phá miền Nam.  Còn người miền Nam phải chấp nhận một hoàn cảnh đắng cay hơn là khi quốc gia còn chia cắt.  Thật mỉa mai khi đọc bài thơ, mà ý thơ như một “bài ca vinh quang” cho ngày “đại thắng”:
            “. . . . . .
            Bảo Ðộc-lập, cứ cho là Ðộc-lập
            Thống-nhất rồi sao lại mất Tự-do
            Cha đi tù, đàn con dại bơ vơ
            Người vợ trẻ cuộc đời đành dang dở
            Bảo huyết thống ông cha cần phải giữ
            Gốc gia đình sao nỡ bắt chia ly
            . . . . . . “
            Thử hỏi người miền Nam có tội tình gì khi họ hết lòng bảo vệ mảnh đất mà họ yêu thương, bảo vệ đời sống Tự-do mà họ lựa chọn.  Sau ngày thống-nhất, nhà nước cho họ đặc ân bữa rau bữa cháo tại vùng kinh-tế mới.  Ðược sống xa gia đình tại các trại cải tạo ở vùng rừng núi miền Nam, hay phát vãng nơi rừng thiêng nước độc tại miền Bắc.
            Nhiều lúc nàng tự hỏi, tại sao lại gây ra cuộc nội chiến, để hàng nhiều triệu người kể cả cầm súng lẫn tay không phải hy sinh.  Và sau khi chiếm trọn miền Nam, hàng triệu người phải tù đầy, gia đình ly tán.
            Nhà nước có quyền gì bắt người khác phải chết.  Hàng trăm ngàn người bỏ thân nơi biển cả hay vùng biên giới, vì đã “bỏ phiếu bằng chân” .  Liệu đó có phải là giá của một nền “Tự-do”, một quốc gia “thống-nhất” mà dân tộc này phải trả.
            Thu nhớ tới Liên, người con gái với lòng yêu thương tha thiết đã vô vọng đợi chờ.  Chị Vân, người đàn bà để tang chồng khi còn rất trẻ với đàn con dại.  Và còn rất nhiều trường hợp đau thương khác nữa.  Họ phải sống thế nào trong một xã hội có quá nhiều thay đổi.
            Còn những người dân nghèo mà nàng gặp ở ga Thanh-hóa, họ đã hy sinh  cả người lẫn của cho một ảo vọng “nêu danh anh hùng” để được những gì.  Thu không thấy ở họ một chút hận thù, mà chỉ lộ ra lòng quý mến thân thương của một dân tộc vốn giầu tình cảm.  Họ cũng chẳng quan tâm tới “ba giòng thác cách mạng” hay “chủ thuyết Mac-Lê bách thắng”, vì hàng ngày phải đương đầu với kẻ thù là “giặc đói, giặc rét” mà chính sách ưu việt của chế độ này mang đến cho họ.
            Hay đám dân nghèo huyện Cẩm-thủy, đi bộ gần hai chục cây số tới trại tù cải tạo Thanh-cẩm, nhặt mót những củ sắn mà anh em “cải tạo” miền Nam để lại cho họ.
            Rồi đến người nữ cán bộ trại Thanh-cẩm, vì lòng yêu nước chống thực dân đô hộ, mấy đời hy sinh cho cách mạng, đã bỏ đời sống sung túc tại quê hương Lai châu để có cuộc sống hẩm hiu nơi góc rừng Bái Thượng.  Sau nhiều năm quốc gia thống nhất, cô vẫn ao ước có được một ngày ấm no hạnh-phúc.
            Thu xót xa nghĩ đến chồng, liệu nàng còn cơ hội gặp lại nữa không, được chung sống hạnh-phúc như trước khi  thống nhất không.
            Vân-Anh cựa mình kéo Thu trở về thực tại, nàng hỏi bạn:
            -“Vân-Anh ngủ được chút nào không.  Có thấy khỏe hơn không?”    
            -“Mình vừa chợp mắt đã nằm mơ thấy những chuyện đâu đâu. Giấc ngủ vì vậy mà chập chờn.”
            -“Tại bạn suy nghĩ nhiều đấy thôi.  Mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy.  Cùng tắc biến phải không?”
            -“Thu biết không, từ lúc rời trại Thanh-cẩm đến giờ, mình luôn luôn bị ám ảnh bởi những điều đã nói với chồng mình.  Ðành là chuyện gì cũng phải biến, nhưng chuyện này quá quan trọng.  Mình là người quyết định, phải chấp nhận hậu quả nên hay không do quyết định của mình.”
            -“Ðành là khó khi quyết định một việc hệ trọng.  Nhưng Vân-Anh đã suy nghĩ, cân nhắc thì quyết định không hẳn là sai lầm.  Chúng ta ít nhiều cũng phải hy sinh về mặt này hay mặt khác.”
            -“Nhiều lúc để tự an ủi và trấn an tinh thần đang rối loạn, mình cũng nghĩ như Thu, trăm điều cũng chỉ vì tương lai các con.  Anh ấy thông cảm và khuyến khích quyết định của mình.”
            -“Nếu anh ấy cũng tán đồng quyết định của Vân-Anh, mình nghĩ bạn cũng không nên quá lo lắng.”
            -“Nhiều lúc không phải để than thân trách phận, mình cũng đã đặt câu hỏi tại sao chúng ta lại rơi vào hoàn cảnh khó xử này?”
            -“Vân-Anh thấy đó, chúng mình cùng mang một tâm tư, có chung một cảnh ngộ.  Cuộc sống mỗi ngày thêm nặng nề ngột ngạt.  Mình không hiểu nổi chủ trương chính sách của chế độ này sẽ đưa dân tộc đi về đâu.”
            -“Ðấy là mối ưu tư và cũng là lý do mình cho các cháu ra đi.  Sau nhiều năm thống-nhất, nhà nước vẫn cố gắng hâm nóng thành tích chiến thắng miền Nam.  Thử hỏi có người miền Nam nào mà không tủi hận về niềm đau của mình, như vết thương đang rỉ máu.”
            Thu tiếp lời bạn:
            -“Thay vì sau khi thống nhất, phải hàn gắn những đau khổ do một cuộc chiến phi lý gây lên, xóa bỏ thù hận để kiến thiết xây dựng quốc gia xứ sở, người ta lại “ban” cho đám dân nghèo khổ này một nền “Tự-do đóng khung.”   Thay vì đoàn kết dân tộc họ lại đào sâu  hố chia rẽ, để lộ dã tâm của những kẻ xâm lăng.  Thử hỏi có người dân nào còn thật lòng chung lưng đấu cật.”
            -“Thu thấy không, đó là điều thê thảm nhất mà chúng ta phải gánh chịu.  Người ta đã tô son điểm phấn cho hành động “giải phóng dân tộc”, được nêu cao như một “chính nghĩa”.  Nhưng sau khi thống nhất họ đã chôn vùi chính nghĩa, cướp bóc tài sản của người miền Nam, biến “giải phóng” thành một cuộc “xâm lăng”.  Và vào giờ phút này, chúng ta mới nhìn rõ mặt trái của lòng “nhân đạo khoan hồng” đối với người “tù cải tạo” miền Nam.  Có phải vì hận thù, hay nhắm mục tiêu thống trị mà hủy diệt tương lai dân tộc.”
  


                                                                        *
 23.

(Dựng Cờ:  Quang Trị 1972)
            Con tầu vượt qua bao nhiêu địa danh đã một thời dẫy đầy máu lửa.  Một Quảng-trị đổ vỡ tan hoang rồi đến Huế điêu tàn.  Từ Tết Mậu Thân  đến mùa hè đỏ lửa, người ta thắt giải khăn xô cho những vùng đất, mà hàng nhiều ngàn người dân vô tội đã gục ngã trong mồ chôn tập thể như ở Ðập Ðá đến Phú Cam rồi Nam- giao. . .  Những tiếng kêu khóc thảm thiết của các bà mẹ, những người vợ trẻ và đám trẻ thơ trước hình hài chết không toàn vẹn thân thể của người thân.  Tiếng gào thét của các nạn nhân bị hành quyết vang dội khắp miền Trung trong những năm khói lửa.
             Những hình ảnh đó luôn ám ảnh tinh thần người miền Nam, đã khắc sâu mối hận khó quên.   Nguời cộng sản dựa vào hai chữ “chính nghĩa” để bắt người dân vô tội phải chết.  Ðó có phải vì tham vọng bá quyền hay cũng chỉ là một thứ tay sai cho một loại thực dân mới.   
            Người dân hai miền có nhận xét, Ðảng và nhà nước đạt thắng lợi lớn sau trận chiến “đại thắng mùa xuân”, vì nhuộm đỏ được giang sơn từ Bắc vào Nam, nhưng phần thảm bại lại dành cho dân tộc khốn khổ này. 
            Trong suốt chiều dài lịch sử giữ nước, dù dưới ách đô hộ của ngoại bang, dân tộc chúng ta luôn hòa hợp, chung lưng đấu cật chống ngoại xâm, giang sơn một mối.  Có chăng chỉ là sự ngăn cách giữa người dân với nhà nước cộng sản.  Ðảng và nhà nước lầm tưởng “sự thống-nhất sẽ phá vỡ ý tưởng ngăn cách.  Sự sống chung là đầu mối của hòa giải để hòa hợp.”  Nhưng tiếc thay vẫn chính sách cũ, nhà nước buộc người dân phải sống trong khuôn khổ, phải theo đúng đường lối nhà nước đã vạch sẵn.  Mọi cố gắng đã trở thành vô ích, và người dân ngày càng xa chính quyền.
            Mỗi khi nghĩ tới đời sống người dân dưới chế độ hiện tại thường làm Thu lo sợ.   Một đời sống luôn luôn bất ổn vì bạo lực.  Vẫn còn cảnh bắt người tù đầy mà không cần xét xử.  Vì luật pháp chỉ là những điều lệ bảo vệ hành động của người cầm quyền.  Nàng thông cảm với Vân-Anh đã hy sinh tình riêng cho các con ra đi.  Vì ít nhiều lòng người mẹ cũng được an ủi khi thấy tương lai các con không tàn lụn.
            Tầu ngừng lại ở ga Thừa-thiên khi trời chưa sáng.  Sương đêm phủ trùm những ngọn đèn vàng trên các cột điện cao.  Sân ga leo lét các ngọn đèn dầu của các gánh bán rong.  Thu hỏi bạn:
            -“Vân-Anh có xuống dưới ga không.  Tầu ngừng ở đây cả giờ.  Xuống dưới một chút cho khỏe.  Ngồi bó gối mãi chân muốn tê luôn.”    
            -“Mình cũng muốn xuống ga một lát.  Ðến đây chợt nhớ món nem nướng, vừa nghĩ tới đã thấy thèm.”
            Nghe bạn nhắc, nàng cũng thấy nhớ hương vị thơm ngon của mùi thịt nướng, vị ngọt bùi của nước chấm, mà trước đây mỗi lần ghé miền Trung nàng không thể bỏ qua.
            Thu quay qua Vân-Anh:
            -“Nghe bạn nói làm tôi cũng muốn ăn.  Mình nhận ra một điều là mỗi vùng có một món ăn riêng biệt, mang sắc thái hương vị khác với nơi khác.”
            -“Phải nói miền Trung có món nem nướng là nổi danh nhất. ”
            -“Vân-anh biết không, với món nem nướng Huế mình có rất nhiều kỷ niệm.  Mình thích ăn món này khi còn học trung học.  Mỗi tối khi trời về khuya, đường phố đã bớt đông người, mình lại nghe tiếng rao hàng âm điệu miền Trung cao vút.  Chắc bà bán hàng biết mình thích ăn, nên mỗi lần đi qua cửa, tiếng bà rao to hơn và dừng lại lâu hơn.
              Mình đã nghiện món ăn bà làm và cả giọng nói ngọt lịm, quyến rũ của bà.  Tuy có tuổi mà trông bà còn đẹp lắm, vẻ đẹp hiền hậu của một bà mẹ luôn yêu thương đùm bọc đàn con cháu mình.  Bà cũng mến mình, vì vậy mỗi lần mua hàng phần của mình trông có vẻ nhiều hơn, chăm sóc kỹ càng hơn.”
            Vẫn hình ảnh quen thuộc, một quang gánh đơn sơ.  Thu và Vân-anh ngồi xuống chiếc ghế nhỏ do bà hàng đưa ra.  Nàng gọi hai phần nem nướng.  Dưới ánh đèn dầu, nàng nhìn rõ mặt bà bán hàng, cũng trạc tuổi nàng.  Thu ngỏ lời:
            -“Bà bán ở đây lâu chưa?”
            -“Tôi đi bán đã mấy năm.  Hai bà chắc ở trong Nam, có thường ra đây không?”
            Giọng nói xứ Huế thật êm dịu. Mặc dù đời sống vất vả, nhưng gương mặt vẫn giữ được nét đẹp.  Hai bàn tay búp măng thon dài, mà cuộc sống cực nhọc đã lấy đi làn da mịn màng.
            -“Ðã lâu tôi không ra ngoài này, nhà tôi và chồng chị bạn đây đang “cải tạo” ở ngoài Bắc nên chúng tôi ra thăm.”
            -“Hai bà ở Sài-gon hay tỉnh nào trong Nam.  Các ông nhà đã ra Bắc lâu chưa?”
            -“Chúng tôi ở Sài-gon.  Nhà tôi ra Bắùc đã hơn bốn năm.  Còn bà, nhà ở gần đây không, có đông các cháu không?”
            -“Nhà tôi cũng ở gần đây, tôi có bốn cháu, chúng còn nhỏ cả.  Nhà tôi đi “cải tạo” từ năm 75, hiện giờ đang ở trại Bến-thủy.”
            -“Trước kia bà có vào trong Nam?”
            -“Truớc ngày miền Nam mất tôi cũng ở Sài-gon.  Sau khi nhà tôi đi học tập, đời sống trở lên khó khăn, nên tôi đưa các cháu về sống với ngoại.  Tôi làm nghề này để kiếm sống nuôi các cháu qua ngày.”
            -“Trại Bến-thủy cũng gần đây, chắc bà đi thăm ông nhà thường chứ?”
            -“Mặc dầu ở gần, nhưng sáu tháng tôi mới đi thăm được một lần.”
            -“Sáu tháng đi thăm một lần là quý lắm rồi, chúng tôi ở xa quá, nên chỉ mong một năm cố đi thăm một lần.”
            -“Mang tiếng là đi thăm nuôi, nhưng cũng chỉ có mục đích cho các cháu gặp mặt bố chúng, để con không quên mặt cha.  Ðời sống bây giờ thật khó khăn, mỗi lần đi thăm phải dành dụm chắt bóp một thời gian mới tạm đủ.  Nhìn thấy các anh ấy thực khổ tâm, lao động quá cực nhọc mà ăn uống lại không no đủ.  Muốn mang nhiều quà một chút thì con cái ở nhà lại thiếu thốn, còn mang ít thì không đành lòng.  Tiền kiếm được lại có hạn.  Nhiều lúc tôi không biết làm sao cho chu toàn.”
            -“Chúng ta cùng chung cảnh ngộ, bà không nói chúng tôi cũng hiểu những khó khăn của chúng mình.”
            -“Tôi xa Sài-gon đã lâu, đời sống trong đó có khá không?”
            -“Ở đâu quen đó, bây giờ chỗ nào cũng giống nhau.  Thành phần mới có quyền thế nên sống xa hoa, còn chúng tôi làm từ sáng đến tối vẫn không đủ ăn.  Tôi có năm cháu, chúng còn nhỏ nên không đỡ đần được bao nhiêu.” 
            -“Hai ông đang ở trại nào.”
            Vân-Anh đỡ lời:
            -“Các anh ấy đang ở trại Thanh-cẩm Thanh-hóa.”
            -“Hai bà đi thăm thường không?”
            Thu nói:
            -“Nhà tôi di chuyển luôn nên không ở trại nào lâu.  Ðã năm năm tôi chưa gặp mặt.  Từ ngày nhà tôi ra miền Bắc, đây là lần đầu tôi đi thăm.”
            -“Xin lỗi hai bà, mải nói chuyện món ăn đã nguội, để tôi làm nóng lại.  Trời lạnh mà món ăn không nóng sẽ mất ngon.”
            Thu nhâm nhi món thịt nướng lâu ngày chưa ăn, hương vị thật thơm ngon.  Thiếu nước chấm đặc biệt này dù thịt ướp có ngon mấy, vị cũng kém hơn.
            -“Bà làm món này ngon thật, ăn mãi không chán.  Tôi thích ăn món này từ hồi còn đi học.”
            -“Bà quá khen, tôi học món này của mẹ tôi, làm lâu ngày nên quen tay.  Thực ra tôi học nghề chưa đến nơi đến chốn.  Mẹ tôi làm ngon hơn tôi rất nhiều.  Tôi cố gắng học nhưng không làm sao bằng. . . .”
            Thu và Vân-Anh từ giã bà hàng nem nướng, nàng quay hỏi bạn:
            -“Vân-Anh có định mua gì ở đây không?”
            -“Trời còn tối quá, khó mà tìm đúng thứ mình thích.  Bạn định mua gì?”
            -“Mình định mua ít kẹo mạch nha, kẹo gương và mè xửng về cho các cháu.  Ðể đến ga tới mua cũng được.”

                                                                            *
                                                                                                                                                                       24.

(Bãi biển Nha Trang)
            Thu thức giấc thì trời đã sáng, con tầu đang trên đèo Hải-vân.  Từ trên cao nhìn xuống, phía dưới là quốc lộ 1 chạy song song với con tầu.  Con đường thật vắng, thỉnh thoảng mới thấy chiếc xe hơi nhỏ.
            Gió lạnh lùa vào xe, nàng cảm thấy tâm hồn lâng lâng bay bổng.  Dẫy Trường Sơn hiện ra mờ ảo trong khói sương.  Quốc lộ 1 mất hút sau rừng cây, trả lại nét hoang sơ cho cảnh sắc thiên nhiên.
            Tầu xa dần vùng núi núi cao đến gần các  thành phố ven biển.  Khung cảnh mỗi nơi mang một sắc thái riêng biệt, trải rộng từ Bắc vào Nam.  Từ vùng núi non hùng vĩ đến những cánh đồng lúa bạt ngàn, mà suốt cuộc đời chưa chắc nàng đã có cơ hội đi khắp nơi, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của quê hương.
            Con tầu mải miết chạy, xuyên qua tỉnh Bình-định, địa đầu của Vùng II cũ, rồi tới tỉnh Phú-yên, Khánh-hòa… Con tầu thét lên từng hồi còi dài, tiến dần vào thành phố Nha-trang nắng ấm.  Khung cảnh thật quen thuộc như  nàng mới rời khỏi đây, thành phố đã cho nàng nhiều kỷ niệm tuổi xanh.
            Gió thổi nhẹ như mang theo vị mặn của đại duơng.  Ngồi đây mà Thu có cảm tưởng mình nhìn thấy thành phố vùng biển này một cách thật rõ ràng.  Nàng nhớ từng góc phố, từng công viên, từ con đường rợp bóng đến khu phố sầm uất.  Những con đường trải nhựa bốc khói duới nắng hè đến Cầu đá hòn Chồng. . . Hình ảnh dĩ vãng hiện ra như ngày nào.
            Thu rời miền Bắc vào Nam khi chia đôi đất nước.   Thành phố vùng biển này là nơi đầu tiên nàng tới.  Nàng lớn lên ở đây, khung cảnh trở thành thân thương.  Thu nhớ đến mái trường học xinh xinh không xa nhà nàng bao nhiêu, đến ngôi nhà thờ ở đầu kia con đường với hàng me xanh tươi.  Thu thích ngôi nhà thờ này vô cùng.  Nàng thường tới quỳ dưới chân tượng Ðức Mẹ cầu xin che chở.  Hết ngày này đến tháng khác, thời gian nối tiếp trôi qua, nàng vẫn một lòng tin tưởng.
            Sau này, nhiều lúc tự hỏi tại sao nàng có thể ngoan đạo đến như thế ở tuổi còn nhỏ.  Nàng nhận ra rằng,  chính nhờ những lời giảng dậy, những gương sáng trong kinh sách, đã hướng dẫn và định hướng cuộc đời đạo đức của nàng sau này.
            Còn ở vào thời gian đó, tâm hồn trong trắng của nàng với những khắc khoải của tuổi xanh, mà sự chia cắt quê hương khiến gia đình ly tán, đã nẩy sinh trong tâm tư nàng những mâu thuẫn về cuộc đời.  Nàng tìm tới Ðức Mẹ, mong nhận được sự bao dung che chở.  Một nơi nàng có thể tâm sự để tìm sự yên ổn cho tâm hồn.
            Ðối với Thu, vùng biển này thật đẹp, càng ở lâu càng nặng tình yêu thương quyến luyến.  Nàng đã say ngắm mặt trời ửng hồng nhô lên từ mặt biển phẳng lặng, khi sương đêm còn phủ mờ cảnh vật.  Từng đợt sóng nhỏ xô vào bờ phủ lên thềm cát mịn chưa có dấu chân trần thế.
             Mặt trời lên cao dần, xóa tan màn sương, trải lớp ánh hồng lấp lánh trên mặt sóng.  Cảnh biển như một bức tranh mầu sắc lộng lẫy.  Mặt đất lấn ra biển, hai dải đất như đôi tay dang rộng ôm lấy đại dương vào lòng.  Mặt biển mênh mông, sóng nước dâng cao phủ trùm đường chân trời.  Và khi mặt trời đứng bóng, in thẫm những bóng dừa trên thềm cát nóng bỏng.
            Những buổi chiều nhạt nắng, nước thủy triều dâng cao, tràn vào bãi cát, khiến mặt biển rộng thêm.  Sóng đã nhồi cao, từng lớp xô nhau phủ đầy những bọt trắng xóa, vỡ tan khi chồm lên bờ cát.
(Tháp Chàm Mỹ Sơn: Xây dựng đầu Thế kỷ 19)
            Khi mặt trời chìm hẳn ở phía sau lưng nàng, ánh nắng nhạt dần trả lại cho bóng tối sự yên tĩnh hưu quạnh.  Chỉ còn tiếng gió thì thầm với sóng biển.
            Thu lớn lên ở đây.  Kỷ niệm tuổi thơ của nàng gói trọn trong giang sơn nhỏ bé này.  Nhớ lại các bạn thân năm nào, với danh hiệu “ngũ long công chúa”.  Bây giờ mỗi người mỗi ngả.  Ngọc, Trường, Ngắm nay đang ở đâu, có may mắn đến được vùng đất hứa.  Còn lại Tuyết với nàng cùng chung cảnh ngộ, đang sống lây lất trên mảnh đất quê hương.   
            Tầu đã qua Tháp Chàm, một vùng đất nhỏ hoang sơ.
 Con tầu mải miết chạy.  Thu nhớ đến chồng, liệu anh có còn cơ hội trở về với mẹ con nàng không.  Cầm lá thư anh gửi bạn mang về mấy ngày trước đây, không biết nàng đọc đã bao nhiêu lần, đã thuộc lòng từng đoạn.  Lá thư nếp gấp đã mềm, nét chữ nhiều đoạn đã nhòe vì pha trộn nước mắt của nàng.  Nhưng Thu vẫn còn muốn đọc:     
            “. . . Mỗi tối sau một ngày lao động cực nhọc, nằm nhắm mắt cảnh cũ lại hiện ra.  Anh nhớ đến kỷ niệm của chúng mình có với nhau từ hồi mới gặp, khi em còn là cô học trò nho nhỏ xinh xinh, đã nổi tiếng một thời tuyệt sắc.  Anh yêu em và cũng say mê em từ đó.  Người ta bảo đó là duyên số, hữu duyên thiên lý phải không em.  Anh may mắn gặp em và có em trong cuộc đời.  Từ đó anh dừng bước giang hồ vì đã gặp được người trong mộng.
            “Rồi chúng mình sống với nhau, có những đứa con ngoan ra đời.  Em đã săn sóc dậy dỗ chúng và lo cả cho anh nữa.  Anh có cảm tưởng em không nghĩ  đến em, đã hy sinh cho cha con anh nhiều quá.
            “Em đã mang đến cho anh một cuộc sống bình dị nhưng tràn đầy yêu thương, không khí ấm cúng của mái ấm gia đình mà anh hằng mong đợi.  Như  cánh chim cần tổ  ấm để qua những mùa đông lạnh của đời mình.  Ðến lúc đó anh mới hiểu được câu “cơm của vợ ngon hơn cơm của mẹ”.  Em  săn sóc anh, biết ý thích của anh, như đã trộn tình yêu thương trong mỗi bữa ăn hàng ngày.”
            “Em đã theo anh đến bất cứ nơi nào anh phải tới, dù nơi đó an toàn hay bất ổn.  Từ đô thị đông người đến vùng Cao nguyên hẻo lánh, chúng mình vẫn cảm thấy nơi đó là nhà, là tổ ấm yêu thương.
            “Em đã chia xẻ với anh những giây phút hạnh phúc hay lo âu trong thời binh biến, cả cay đắng lẫn ngọt bùi của cuộc sống thăng trầm. Em biết không, em là nguồn yêu thương hạnh phúc của anh.  Ðối với anh em đã là tất cả, từ ngày xưa, bây giờ và cho đến mãi sau này.
            “Với các con, anh nhớ từng khuôn mặt, cái dáng riêng biệt của mỗi đứa.  Ti có vẻ nghiêm trang, thích những gì đặc biệt.  Anh còn nhớ con say sưa nhìn hai con kiến càng, bắt từ cây mận trước nhà, đánh nhau.  Con biết là nếu không có đôi râu, đôi kiến sẽ không phân biệt được là bạn hay thù.
            “Còn Vi thì hiền ơi là hiền.  Cô khóc đến đỏ hai mắt khi có ai trêu.  Con ít nói, tính tình giống em ở chỗ tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người.
            “Ðến Mi lùn thì lại khác.  Con thường trầm tư như mải mê suy nghĩ.  Từ bé con đã có tính nhàn hạ, luôn vui vẻ hòa nhã.  Con giống mẹ ở chỗ hay mỉm cuời, để lộ lúm đồng tiền tròn quay trên má.  Con thích đọc nên khi vừa buông đũa đã thấy tay cầm sách.
            “Cô Tư đen khác hẳn các chị.  Con luôn vui vẻ nhẩy múa ca hát.  Anh rất thương con, vì khi con ra đời em bị đau nên không được nếm hương vị của sữa mẹ.
            “Ðến Út chuột của anh, con sinh ra vào mùa hè đỏ lửa, nên anh thương nó rất nhiều.  Út ít phải không em.  Ngay từ bé con đã quấn lấy mẹ, muốn mẹ là của riêng nó.  Em còn nhớ chứ, khi con mới sáu tháng mình đưa đi cắt tóc.  Cu cậu chưa ngồi vững trên miếng gỗ bắc ngang qua hai tay ghế, mình trần trông tròn quay.  Mỗi lần bác thợ áp chiếc tông-đơ lạnh ngắt vào gáy, cu cậu lại chùn người xuống tránh né mà không khóc.
            “Con lớn lên rất vui tính, đã tập hát những bài nhạc vui vào dịp Tết.  Anh còn nhớ như  in, khi con đứng lên trước mặt mọi người giới thiệu bản nhạc mình ca.  Lúc đó con chưa đầy ba tuổi em nhỉ.
            “Khi miền Nam mất, các con chịu chung sự thăng trầm của bố mẹ, chúng đã phải chia xẻ cảnh tang thương của gia đình.  Rồi anh bị bắt đi “cải tạo”, để mẹ con em ở lại, trút trọn gánh nặng cho em phải mang.  Và khi mấy mẹ con em lên thăm anh ở trại Gia-rai Long-khánh, sau hơn một năm bặt tin anh phải không em.  Khi hết giờ gặp mặt, lòng anh thật chua xót.  Và lúc anh trở vào đến khung cổng trại, chợt nghe tiếng con khóc gọi phía sau.  Anh quay lại thấy con đứng bơ vơ giữa đường, miệng gào to đòi bố.  Nó vừa được bốn tuổi.  Chưa bao giờ lòng anh thấy buồn như lúc đó, như vừa đánh mất một thứ gì thật quý báu trong đời.  Bước qua khung cổng trại, lằn ranh của hai thế giới, anh biết là đã để lại phía sau tình yêu thương mà anh bị buộc phải tách rời.
            “Tiếng gào khóc của út cứ ám ảnh anh mãi.  Anh vẫn lo lắng cho tình cảm của nó.  Liệu tinh thần của con có bình lặng thảnh thơi, hay phần nào bị vẩn đục vì những hình ảnh đau thương mà người thân của nó đang gánh chịu.
            “Anh ôm ấp những kỷ niệm, những hình ảnh yêu thương của em và các con trong những năm xa nhà, như ánh lửa cuối đường để anh nhắm tới mà hy vọng.
            “Cuộc đời anh trôi nổi từ đó.  Anh đã nếm trải những giây phút đau thương của một kiếp người.  Nhiều khi anh nghĩ, hay tại phần số mỗi người sinh ra một khác, phải chịu  những khổ ải đắng cay trong cuộc sống chìm nổi của mình.  Anh đã bám víu vào hình ảnh yêu thương của gia đình, mà đôi lúc những áp bức, cực hình vô nhân đạo đã làm lòng bất khuất của anh vùng dậy.  Anh đã chịu đựng những tủi hận và nghĩ tới mệnh số con người mà an ủi.
            “Nhiều lúc anh thấy số kiếp thật mong manh.  Anh đã trải qua những giây phút tuyệt vọng, thân xác rũ liệt trong phòng tối, hơi thở như muốn đứt đoạn, khó hy vọng tồn tại.  Anh có cảm giác thân xác nhẹ tênh như muốn thoát khỏi vòng tục lụy, xa lánh cái nghiệt ngã của cuộc đời.
            “Nhưng chính vào giờ phút đó, anh nhớ đến em và các con. Tinh thần anh chợt tỉnh táo sáng suốt, nhủ thầm là mình không thể ra đi một cách yên lặng, đơn giản.  Anh vẫn còn muốn sống.  Bản năng sinh tồn vùng dậy, hâm nóng thân xác giá lạnh của anh.  Chưa bao giờ anh chùn bước sờn lòng trước những bạo lực, cực hình.  Kể cả lúc anh nhắm mắt chờ đợi một lần ân huệ khi thái dương chạm vào nòng thép lạnh.  Nhưng vào giờ phút này, anh bỗng thấy mình yếu đuối.  Anh cầu xin ơn trên.  Anh mong còn sống để trở về với người thân yêu…”
            Thu để rơi giọt lệ xót thương trên trang thư của chồng.  Giọt lệ từ đáy tim đang tan nát của nàng.  Nàng nắm chặt lá thư trong tay nhủ thầm, liệu đây có phải là kỷ vật sau cùng của năm tháng yêu thương.
            Thu thoát khỏi những ám ảnh đen tối khi Vân-Anh nắm chặt tay, nàng cảm nhận một phần an ủi nơi bạn.
            Vân-Anh lên tiếng:
            -“Thu buồn lắm phải không.  Số kiếp chúng mình như vậy.  Có phải chúng ta đang là “gái thời bình”.  Nhiều khi mình cũng không biết tính toán ra sao, đành để mặc cho số kiếp đưa đẩy, vì chúng mình phải sống.”
            -“Mình luôn mong đợi một ngày xum họp, nhưng giờ phút này mỗi lúc một xa.  Mình bị ám ảnh bởi những hành động hận thù.  Liệu có gì bảo đảm cho những ngày sắp tới.”
            -“Cũng như Thu, mình  có nhiều  suy nghĩ, không biết cuộc đời mình sẽ đi về đâu.  Như trường hợp chị họ của mình.  Chắc Thu biết chị Lâm chứ?”
            -“Chị Lâm con bác Hai phải không.  Nhưng chị làm sao?”
            -“Sau khi chị đi thăm anh ấy về người như xác không hồn.  Gặp chị mình  hỏi:
            “Chị đi thăm anh có khỏe không?”
            Chị mình bật khóc trả lời:
            “Anh mất rồi em ạ”
            Mình xửng xốt khi nghe tin.  Giây lát sau mình mới hỏi  tiếp khi thấy chị binh tĩnh trở lại:
            “Anh chết làm sao hả chị?”
            Chị Lâm nói:
            “Như em biết, anh biệt tăm từ ngày đi “cải tạo”.  Chị không biết tìm anh ở đâu.  Cách đây ít lâu chị mới hay tin anh ở trại Nam-hà ngoài miền Bắc.  Khi chị tìm đến nơi thì quá trễ, anh đã qua đời.”
            Mình càng thắc mắc khi nghe chị nói, nên hỏi tiếp:
            “Chị đã hỏi cẩn thận chưa.  Mà tại sao anh chết?”
            Chi Lâm vừa khóc vừa nói:
            “Trại xác nhận như thế.  Họ bảo anh bị bệnh mà qua đời.  Chị vào trại B, vùng Thung danh, là nơi giam và anh  cũng qua đời ở đó.  Chị được biết đó là một trại kỷ luật nổi tiếng miền Bắc.  Chị tìm tới chỗ chôn, hỏi một anh “cải tạo” để nhờ tìm mộ anh của em, nhưng anh trả lời: “năm ngoái tôi còn biết mộ của anh ở đâu, nhưng bây giờ thì không nhận ra được nữa. . . .”   
            Chị Lâm chợt im lặng trong giây lát, như đè nén niềm cay đắng, rồi tiếp:
            “Chị buồn quá.  Thương xót thân phận bạc phước của anh, khi chết nấm mồ cũng tan hoang.  Mà chị cũng tủi cho số phận hẩm hiu chủa chị.”
            Mình nóng lòng hỏi chị:
            “Chị có đi tìm mộ anh không.  Mà đã tìm kỹ chưa?”
            Chị vừa khóc vừa trả lời:
            “Chị có đi tìm nhưng không làm sao phân biệt được.  Các miếng gỗ ghi tên trên mộ đã không còn.  Các nấm mồ chỗ cao chỗ trũng trong một khu rừng hoang, cỏ mọc um tùm.  Sau cùng không biết làm sao hơn, chị đành làm theo lời anh cải tạo: “Chị không tìm ra mộ của anh đâu, đến tôi cũng không còn nhận ra.  Thôi, chị cứ đứng đây, hướng về các ngôi mộ mà khấn, thể nào trong đó cũng có anh ấy. . . ”
            -“Mình thương chị Lâm quá.  Ðến giây phút đó mình mới thấy thấm thía và cảm thông sự mất mát trong lòng chị.”
            Thu tiếp lời:
            -“Khi mình nghe nhắc lại câu nói của một cán bộ trại Nam-hà đối với anh em “cải tạo” miền Nam: ‘Sinh mạng các anh chỉ bằng tờ giấy học trò’, mình vẫn chưa hiểu được hết ý câu nói.  Nhưng bây giờ mình đã nhận ra, sinh mạng tù nhân trong các trại cải tạo thật rẻ.  Chỉ cần một lời báo cáo đơn giản trên trang giấy học trò, thì một kiếp người đã bị xóa bỏ như một vật thể vô giá trị.”  
            -“Như Thu biết, sau khi cộng-sản chiếm được miền Nam, một thắc mắc được đặt ra, là cộng-sản Hà Nội phải có hành động thế nào để chinh phục được nhân tâm người miền Nam.  Mà sự chinh phục phải bằng tình yêu thương dân tộc.  Nhưng cho đến nay, người dân cả nước đã hoàn toàn thất vọng trước chính sách thù hận của nhà nước.”
            Thu thở dài tiếp lời bạn:
            -“Ðiều mà người dân mong đợi sau khi thống-nhất đất nước là sự đoàn kết dân tộc.  Nhưng cộng-sản miền Bắc đã theo con đường tàn bạo.  Dựa vào danh nghĩa giải phóng dân tộc để chiếm đọat miền Nam, buộc người miền Nam phải sống trong tủi nhục.  Ðảng và nhà nước Cộng-sản đã không thể mang lại một nền hòa bình toàn vẹn mà dân tộc chúng ta kỳ vọng, sau khi đổ quá nhiều máu và gánh chịu lắm đau thương.” 
            -“Mình có chung suy nghĩ như Thu.  Nghĩ đến đời sống của người đàn bà như chúng mình, đến thế hệ trẻ tương lai, đã có nhiều dấu hỏi.  Tại sao mang danh là “chế độ của giai cấp bị áp bức” lại đầy ải bóc lột những người nghèo khó nhất.  Ðã đưa dân tộc vốn nghèo khó này đến một cuộc sống cực khổ hơn.”
Saigon:  Hòn Ngọc Viễn Đông
            -“Mình cũng tự hỏi, tại sao chế độ này lại phá bỏ những cái đang tốt đẹp để đổi lấy một hoàn cảnh tồi tệ.  Người ta dẹp bỏ ý-thức dân chủ đã có trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, để đạt tới hình thức lệ thuộc ngoại bang.”
            -“Thu nghĩ xem, thiếu gì các quốc gia mang danh là dân chủ cũng có những hành động độc tài.  Nhưng ở những nơi đó, dù mang tiếng độc tài, người dân vẫn được hưởng sự  tự-do mà con người phải có.”
            Thu góp lời với vẻ thất vọng: 
            -“Phải, quyền tự-do là thứ không thể thiếu trong đời sống con người.  Nhưng dưới chế độ “anh hùng” này chúng ta được hưởng những gì hay chỉ có bạo lực.”
            -“Niềm đau của mình càng thôi thúc, khi nghĩ tới cuộc chiến tang thương của dân tộc.  Hàng nhiều triệu người, cả cầm súng lẫn tay không, phải chết  oan uổng cho mục đích không tưởng.  Lớp người lãnh đạo có nghĩ đến ước vọng của người dân không, đến quyền sống con nguời của dân tộc này không.  Hay họ hiểu ý nghĩa “dân vi quý” để chỉ những nguời trong tầng lớp lãnh đạo như họ.  Còn đám dân nghèo đói này, không phải là thứ “dân vi quý”, để được hưởng quyền lợi bù đắp những hy sinh đã bỏ ra.”
            -“Vân Anh thấy đó, mình không hiểu tại sao những người lãnh đạo của chế độ này vẫn bị ràng buộc trong chủ thuyết lỗi thời.  Họ có hiểu chủ nghĩa và chế độ là những thứ do con người đặt ra, nó chỉ tồn tại khi mang lại lợi ích cho đời sống toàn dân.”
            -“Có một điểm mà người dân nào, dù miền Bắc hay miền Nam cũng nhận ra, vì quyền lợi đang hưởng thụ khiến chính quyền ngày càng xa dân.  Mà trong lịch sử dựng nước của dân tộc chúng ta, có chính quyền nào tồn tại khi đi ngược lại nguyện vọng của người dân.  Không hiểu chế độ này sẽ đứng vững được bao lâu nữa.”
            Hai người trở lên im lặng, như niềm đau hằn sâu trong cuộc sống đang trỗi dậy.  Những lo lắng về tương lai mỗi lúc thêm khắc khoải. . . .
            Con tầu cố nuốt nhanh quãng đường còn lại.  Từng cánh rừng, ruộng bắp đến những cánh đồng lúa thi nhau lướt nhanh về phía sau.  Phía trước mặt là thành phố Phan-thiết rồi Bình-tuy.  Thu nhớ đến chồng đang ở phía sau cách xa nàng cả ngàn cây số.  Nàng tự hỏi, số phận chồng nàng sẽ ra sao. Liệu có phải đây là lần gặp sau cùng, và cuộc đời nàng sẽ thế nào khi phải đơn độc phấn đấu trong một xã hội bất ổn.
            Trước khi đi lòng nàng thật háo hức, mong mỏi được gặp chồng và nhìn lại quê hương miền Bắc sau hơn hai mươi năm xa cách.  Tình lưu luyến với mảnh đất nàng ra đời vẫn còn dào dạt trong lòng.  Nhưng khi đến nơi nàng thật buồn, cũng không hẳn nơi đây đang giam giữ người thân yêu của nàng, chia ly tình cảm gắn bó của gia đình nàng.  Nhưng không hiểu sao, chen lẫn giữa tình yêu quê hương tha thiết vẫn vương vấn những lo âu bất ổn, đã không gợi cho nàng thứ tình cảm yêu dấu thuở xưa.
            Thu nhớ đến các con, không hiểu giờ này chúng đang làm gì, có an toàn khi nàng xa nhà không.  Xa chúng mới một tuần mà tưởng chừng đã lâu không gặp.  Lòng nàng đang phân vân, như đứng giữa hai ngả đường, một bên là chồng một ngả là con.  Tâm hồn nàng đang chơi vơi xa lạ, lạc lõng tại chính nơi quê hương yêu dấu của nàng.
            Qua khỏi Bình-tuy, chỉ còn một quãng đường ngắn nữa là tới Gia-rai Long-khánh.  Rồi Biên-hòa, tỉnh ven đô của thành phố Sài-gon.  Con tầu đang đưa nàng trở về thành phố “mới mang tên Bác”, đã một thời vang bóng là “Hòn Ngọc Viễn Ðông”.

                                                                                                Trần-nhật-Kim
                                                                                   Washington DC, Mùa Ðông 1988
                                                                                      
    
                                           
                                                                                                ***
 
Lời Bạt

Anh Kim,

            Tôi đã đọc xong bản thảo tác phẩm “Vùng lầy nước mắt” của anh.  Hôm nay tôi xin được nêu ra một vài nhận xét về công trình văn học mà anh đã mất nhiều tâm huyết tạo dựng.

            Nhận xét chung, nội dung tác phẩm của anh rất xác thực, đáp ứng nhu cầu hiểu biết những gì xẩy ra cho những người đàn bà có chồng con đi “học tập cải tạo”.  Họ là những phụ nữ đã nhẫn nhục chịu đựng, nuốt trọn nỗi đau thương và niềm tủi nhục để cố gắng vươn lên, làm tròn bổn phận làm mẹ và làm vợ.  Trước bao nhiêu phồn hoa cám dỗ và quyền uy đe dọa người đức phụ trong truyền thống Việt-nam vẫn đứng vững, không gì lay chuyển nổi.  Họ chỉ khóc cho số phận hẩm hiu, cho tương lai đen tối.  Những dòng huyết lệ đó đã chảy từng ngày, từng tháng, từng năm, chảy mãi và đọng lại thành “Vùng lầy nước mắt”.

            Ðiểm đặc biệt trong tác phẩm của anh là đã nói lên sự hy sinh cao cả của những người mẹ, người vợ Việt-nam trong giai đoạn đen tối nhất của lịch sử dân tộc.  Một điều ít có dịp được đề cập tới từ trước đến nay.

            Truyện của anh là một diễn tiến liên tục những thảm cảnh và những nỗi đau khổ âm thầm của người phụ nữ sau ngày 30 tháng 4 đen tối.  Nhiều đoạn làm cho người đọc xúc động và rưng rưng nước mắt, xót thương cho một kiếp người.

            Từ trang đầu tới trang cuối, anh viết với một văn cách giản dị, trong sáng, không tìm những cấu trúc cầu kỳ.  Ðó là ưu điểm dễ gây cảm tình với độc giả.

                                                                                          Hà-Bỉnh-Trung

                                                                               Springfield, Mùa Ðông 1999

No comments:

Post a Comment