Wednesday, November 25, 2015

CUỘC CHIẾN CHƯA TÀN (PHẦN 1)

Lời Giới Thiệu
Vâng, CUỘC CHIẾN CHƯA TÀN…chưa chấm dứt và nó chỉ chấm dứt khi nào chủ-nghĩa Cộng-sản biến khỏi đất nước Việt-Nam. Anh Trần-Nhật-Kim, một người bạn tù trẻ của tôi khi tôi còn ở trại Phan-đăng-Lưu, đã nói lên điều đó trong cuốn sách của anh.  Anh cho thấy rằng anh và một số bạn hữu, những chiến-sĩ Quốc-gia, trong những ngày đen tối nhất của đời mình, trước cái chết có thể trông thấy được, vẫn giương cao ngọn cờ chính-nghĩa là đấu tranh cho một nước Việt-Nam Tự-do và Dân chủ. Cuộc chiến không thể tàn lụi với sự thất bại nhất thời ngày 30 tháng 4 năm 1975.  Nó vẫn được tiếp tục trong thâm tâm của những người con yêu dấu của Tổ quốc Việt-Nam, dù họ đang bị Cộng-sản đe dọa đọa đầy trong các trại cải tạo lao-động mà ngày về mấy ai có thể biết trước được.

 CUỘC CHIẾN CHƯA TÀN của anh Trần-Nhật-Kim, một người theo ý tôi, đã trải qua nhiều trại cải-tạo nhất của Cộng-sản Việt-Nam thiết lập từ Nam chí Bắc. Từ trại Phan-đăng-Lưu tới trại Quyết-tiến được mệnh danh là Cổng Trời,  sát biên giới Hoa-Việt.  Những người bị gửi tới đây chỉ có thể về chầu Trời, chứ đừng mơ tưởng tới ngày về với gia-đình vợ con hay bạn bè thân thuộc.  Nhưng may mắn thay, nhờ có cuộc tấn công của người anh em "môi hở răng lạnh" năm 1979 mà trại Cổng Trời được dẹp bỏ và những người bị gửi tới đó được chuyển về trại Thanh-Hóa.  Ðời người trong cái rủi cũng có cái may, và anh Trần-nhật-Kim đã sống sót được đến ngày nay để viết thiên hồi ký của anh.  Và cái may của chúng ta là được đọc thiên hồi ký đó để biết rõ tinh-thần chiến đấu bất diệt của những người con yêu qúy nhất của đất nước trước bạo lực và hung tàn.
Tôi xin dành cho bạn đọc những ngạc nhiên khi đọc cuốn "CUỘC CHIẾN CHƯA TÀN" của anh Trần-nhật-Kim.  Tôi chỉ muốn giới thiệu với bạn đọc rằng đây là một tác phẩm có thể để lại dấu vết của một thời kỳ lịch-sử đen tối nhất của dân tộc mà hậu thế sẽ phê phán, cũng như cho những nhà Xã-hội học của mai sau có thể tìm biết những gì đã xảy ra trong giai đoạn Cộng-sản chà đạp, bóc lột và hà hiếp dân tộc Việt-Nam một cách cùng cực.
Virginia, mùa Thu 1997
Hồ văn Ðồng

 ---------------------
Thư: của Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
Anh Kim,
Tôi đã đọc tập bản thảo “Cuộc Chiến Chưa Tàn” của anh, và rất hoan nghênh sự cố gắng của anh đã ghi lại những giòng suy tư về một khoảng thời gian tù đày khá dài mà chúng ta chung sống trong các nhà tù cộng-sản từ Nam ra Bắc.
 Thật ra, theo tôi nghĩ, chẳng có gì là vui hoặc vinh dự khi nói về chuyện tù đày.  Nhất là từ nhiều năm qua cũng có khá nhiều người đã viết hồi ký hay những chuyện liên quan tới lãnh vực nầy, nên có người cho rằng đề tài này đã hết “ăn khách”.  Nhưng tôi không nghĩ như vậy.  Vì nếu các chuyện loại nầy viết ra chỉ mang tính cách tả oán về hoàn cảnh của kiếp tù đày, hay chỉ nói lên tính chất dã man của của chế độ lao tù cộng sản Việt Nam, thì quả thật không cần thiết.  Vì làm sao có thể diễn tả hết được tình cảnh bi đát về tinh thần lẫn thể chất của người tù chính trị, cũng như không bút mực nào viêùt lên được hết tính chất dã man, độc ác về chế độ lao tù của cộng sản Việt Nam.  Ðiều nầy chỉ có người sống trong cuộc mới cảm nhận được.  Nhưng nếu coi đó là một lời nhắn gửi để làm thế nào giải trừ một chế độ đang chà đạp lên nhân quyền và mạng sống con người như chế độ cộng sản Việt Nam, thì đây là một phạm vi còn quá nhiều điều để nói và phải nói.
 Anh Kim, tôi không mong “Cuộc Chiến Chưa Tàn” sẽ là một “ Bestseller”, mà chỉ nghĩ rằng, sau khi gấp sách lại, người đọc sẽ tự hỏi : “Chúng ta phải làm những gì đối với chế độ cộng-sản Việt-Nam đang phản dân hại nước ?”.
Dựa theo đề tựa quyển sách, tôi biết đây là lời nhắn gửi của anh, phù hợp với những gì chúng ta từng suy nghĩ, trăn trở trong suốt những tháng năm tại các “Nhà Tù”, mà người cộng-sản Việt-Nam đã lừa gạt dư luận với mỹ danh là “Trại Cải tạo”.
Washington DC, mùa Hè 1998
Người bạn tù của anh
Linh Mục Nguyễn- Hữu-Lễ
Auckland,  New Zealand




--------------





1.  Đời cải tạo


Kim chợt thức giấc, cơn sốt vẫn chưa dứt, người anh còn hâm hấp nóng.  Bây giờ mới quá nửa đêm, bóng tối bao trùm vạn vật một mầu xám lợt.  Bầu trời mờ sương lấp lánh những vì sao nhỏ như những hạt châu lung linh trên tấm dạ bào.  Gió thổi nhẹ thật mát, hơi lạnh về đêm của những ngày đầu tháng năm như đang tỏa  ra từ dẫy núi cao phía sau làng Ngọc.

Sau mấy ngày sốt cao, người anh như đứng trước bếp lủa hồng.  Hơi nóng vẫn hừng hực ngoài da nhưng cảm giác lạnh đã thấm sâu vào trong.  Cơ thể anh bải hoải rã rời, mắt hoa mày váng như không còn lấy một phần sức lực.  Hôm qua anh không ngồi dậy nổi nên được nghỉ một ngày lao động.  Trọn ngày hôm qua đến giờ anh không có chút gì vào bụng.  Phần bo bo chưa chà vỏ, dù nấu kỹ vẫn cứng, còn nằm gọn trong bát nhựa.  Anh cố nhai một vài muỗng hầu có chút xơ trong ruột, nhưng hàm răng anh ê mỏi.  Anh có cảm giác những mảnh vỏ cứng, sắc như lưỡi dao đang cào xé gây xon xót trong dạ dầy.  Nhưng anh còn chọn lựa nào, vì cần phải ăn để kéo dài sự sống, mặc dù anh biết phần thức ăn cứng này có thể gây nguy hiểm khi người đang lên cơn sốt.
Mấy viên thuốc cảm "dân tộc" không đủ sức chặn đứng cơn sốt đã lâu ngày đang hoành hành trong cơ thể suy nhược của anh.  Anh mất ngủ đã mấy đêm vì cơn ho kéo đến liên tục, khiến cổ họng bỏng rát.
Kim có cảm tưởng sức khỏe anh ngày một yếu dần, như cây khô đợi ngày ngã đổ, kết qủa của năm tháng cải tạo, dầm mưa dãi nắng từ nơi đầm lầy nước đọng Ðầm đùn đến vùng núi rừng hiểm trở quanh năm sương phủ Hà-giang.  Và vào lúc này, nơi vùng đất Lý-bá-Sơ, cơ thể anh chỉ còn da bọc xương, lớp thịt bọc ngoài thân thể đã mất dần vì chính sách "chỉ-tiêu tiêu-chuẩn, nhân đạo khoan hồng".  Các bạn nhìn anh ái ngại như nhận ra điềm chẳng lành báo trước.  Nhưng chẳng làm sao được, vì họ cũng như anh, sau năm tháng trải thân với "lao động vinh quang", một chuỗi dài tủi nhục hận thù, mạng sống đang trên đà tàn lụn. 
Ðêm lặng lẽ trôi qua, tiếng dế vẫn hòa vang ngoài sân lạnh.  Anh đã nghe thấy tiếng gà gáy sang canh, màn đêm như đã nhạt mầu, ánh sao khuất dần sau màn mây bạc.  Các bạn quanh anh đang say ngủ, như sự mệt mỏi sau một ngày lao động cực nhọc còn vương lại trong hơi thở dồn dập từng hồi.
Qua khung cửa sổ sàn nằm trên, khu trại hiện ra thật yên lặng như đang say sưa trong giấc ngủ đêm dài.  Bất chợt Kim nghe thấy tiếng ồn ào văng vẳng từ phía cổng trại, như được gió sông đưa đẩy vang vọng đi xa.  Rồi tiếng ồn ào rõ hơn trước, như đã vượt qua khung cổng trại vào tận trong sân.  Anh nhổm người dậy, dán mắt sát vào phần trên cửa sổ để tầm mắt vượt qua bức tường ngăn nơi cổng phòng 5.  Dù căn nhà ở trên cao, nhưng anh vẫn không nhìn rõ khung cảnh dưới sân vì vòng tường cao phía trước. 
   Anh không phân định được những gì đang xẩy ra dưới kia, nhưng có điều gì khác lạ so với thường ngày.  Anh thoáng nghe nhiều tiếng chân bước dồn dập hòa lẫn tiếng la hét trên lối đi về phía phòng anh ở. Bước chân mỗi lúc một gần, qua khe khung cửa cổng thấp thoáng bóng người kéo lê một thân xác bất động trên lối đi đường lên khu kỷ luật.  Bước chân người kéo chậm lại như thân xác phía sau vướng cản trên các bậc tam cấp.  Anh không biết người bất hạnh đó là ai.
Lòng Kim xe thắt, liên tưởng hình ảnh trước mắt tới thân xác tàn tạ của mình và các bạn, liệu còn chống chọi được bao lâu nữa đây.  Có phải những hình ảnh này, hoàn cảnh này đang xẩy ra khắp nơi đã được dự trù, ghi sẵn vào đoạn chót "cuộc hành trình cải-tạo lao động" của người tù cải tạo miền Nam.

2.
Ngược giòng
-"Anh Kim, có cần thêm gạch nữa không?"
Kim bước lên giàn xây, nhìn hai chồng gạch thẻ đã xếp cao, anh trả lời bạn:
-"Ðã tạm đủ gạch, hơn nữa trên giàn không còn chỗ, khi cần tôi sẽ cho anh hay.  Anh giúp tôi kéo thùng đựng hồ xây và cho vữa lên là xong."    Kim khom lưng lấy sức kéo chiếc thùng gỗ đựng hồ xây, mặc dù có bạn ở dưới tiếp sức nâng thùng khỏi mặt đất, nhưng anh vẫn cảm thấy quá nặng. Lưng anh oằn xuống những đốt xương gồ lên cao như muốn thoát ra khỏi lớp da.  Anh thấy nóng rát hai bàn tay, sợi thừng lớn hơn ngón tay như muốn lún sâu vào thịt.  Anh ngả người về phía sau, để sợi giây kéo cọ vào thân tre giàn dáo, như muốn mượn sức cản để không buông rơi chiếc thùng gỗ.
Giàn xây rung rinh, có phải vì giàn dáo không buộc chặt, hay đôi chân anh đang run rẩy như sức lực đã vượt thoát ra ngoài thân thể.  Sau khi kéo thùng gỗ đựng hồ xây lên giàn, anh tiếp tục kéo các xô vữa đổ đầy thùng chứa.  Kim múc từng gáo nước dội ướt đầu tường và các đống gạch xếp hai bên.  Trời nóng nên nước tưới thấm nhanh, bùng sôi trên mặt gạch bốc khói.  Gạch nóng bỏng bàn tay.
 Căn nhà đang xây nằm trên đồi cao.   Ðứng ở đây anh có thể nhìn thấy hầu hết cảnh vật xung quanh.  Từ giòng sông Mã dưới chân núi, ôm sát một phần trại, nước mông mênh chẩy xiết như bóng ngựa phi.  Mặt nước phù sa lấn dần vào bìa làng bên kia bờ sông một mầu nâu đỏ.  Những mái tranh nhô lên khỏi mặt nước, thưa thớt các khóm tre bao quanh, ẩn hiện như một cù lao lẻ loi trong biển nước.
Cách đây không xa là trại mộc mới, do đội hình sự xây xong mấy tháng trước đây.  Căn nhà lớn rộng có vẻ bề thế nhưng vẫn chưa xử dụng được.  Trước khi xây, trại trù tính sẽ lợp tranh, nhưng sau lại đổi ý lợp ngói cho đẹp và bền.  Gỗ đỡ mái không đủ lớn nên mái oằn xuống, dợn sóng như rồng uốn khúc.  Mái nặng đã đẩy dãn cột tường.  Trại cho lấy cây chống xung quanh căn nhà để khỏi đổ,  tính sửa lại nhưng chưa biết cách nào.  Ban giám thị trại dự trù, sau khi căn nhà này hoàn tất, đội Kim sẽ lãnh trách nhiệm sửa lại trại mộc.  Chắc phải rỡ mái xuống trước khi sửa lại cột, vì phần đầu cột xây đã ngả ra ngoài, để lại vết nứt nằm ngang khe hở lọt ngón tay.  Nhưng có gì bảo đảm căn nhà không đổ khi có người trèo lên mái, nhất là lúc gió lớn, mái ngói kẽo kẹt đu đưa như chiếc võng.  Anh có cảm tưởng trại không quan tâm tới tai nạn lao động, nên sinh mạng tù nhân chỉ còn tùy thuộc vào may rủi.
Như cách đây không lâu, đội anh phụ trách sửa chữa khu cơ quan.  Không hiểu căn nhà làm từ bao giờ, mái tranh đã mục nát.  Khi tháo bỏ hết lớp tranh, nhiều chiếc đòn tay bằng tre đã hư, nước theo chỗ dột ngấm vào vì kèo gỗ, để lại những vết loang lổ.  Anh ngồi trên vì kèo, gạt các cây đòn tay hư xuống đất.  Bất chợt một phần vì kèo bị gẫy, như không chịu nổi sức nặng khi có người di chuyển trên mái, đã lôi anh ngã từ trên nóc xuống nền xi-măng gồ ghề đá xanh.  Anh rơi từ hơn 4 thước cao, hai đầu gối nện xuống đất.  Phần vì kèo gẫy nằm trong vòng tay, một đầu sau khi đập xuống đất bật lên đánh trúng ngực, trước khi hất anh ngã ngồi ra phía sau, đã quật trúng hàm dưới.  Anh cảm thấy đau điếng nơi hông đến thắt lưng, hàm dưới đã xưng lớn.   Kim thật may mắn khi nhìn thấy khúc sống lá chuối dài hơn gang tay trên cắm hàng chục chiếc đinh dài 10 phân, mà anh mang theo khi lên mái nhà, tua tủa như lông nhím nằm trên nền đá giữa hai đầu gối.  Cảm giác đau nơi hàm lấn át cái đau nơi đầu gối.  Toàn thân anh ê ẩm, như các cơ phận rời ra từng mảnh.  Anh duỗi hai chân xem xét.  Hai anh Nguyễn-tôn-Tính và Tô-tứ-Hướng làm cùng với anh hốt hoảng chạy tới, lo lắng hỏi:
 -"Anh có sao không, để chúng tôi đưa anh đi trạm xá."
Một số cán bộ gần đó đứng nhìn, anh trả lời hai bạn:
 -"Chưa biết có sao không, hy vọng xương đầu gối không vỡ."
Máu đã chẩy ướt đẫm hai ống chân.  Anh đã mất cảm giác nơi đầu gối.  Mồ hôi và máu trộn lẫn với cát bụi gây xon xót nơi vết thương.  Anh cố đứng lên, nhưng bước đi thật khó khăn.  Ðầu gối đã sưng lên, máu đang rỉ ra từ vết thương.  Anh được hai bạn dìu về trạm xá.  Trạm xá không có thuốc giảm đau, chỉ có thuốc cảm dân tộc, vết thương được chùi rửa bằng nước ấm có pha một chút muối hột.  Anh được nghỉ một ngày vì đầu gối tấy sưng không đi lại được.  Những ngày kế tiếp anh vẫn phải theo các bạn đi lao động. 
Rồi đến trại mộc cũ nhỏ bé nghèo nàn đã làm từ lâu, chỉ còn lấy mái làm chỗ che mưa.  Một căn dùng làm rèn và gò do anh Trần-Thanh-Tùng, Thiếu Tá binh chủng Công-binh phụ trách, phía sau dùng làm trại mộc và cưa.
Khu trại hiện ra trước mắt.  Từ cổng vào, về bên phải, căn nhà đầu tiên là khu nhà bếp.  Kế đến là trạm xá nhỏ bé khiêm nhường.  Một sân rộng, mỗi bên có 4 căn nhà xây, dấu mình sau những bức tường cao chỉ thấy nhô lên những mái ngói đỏ au. 
Giữa sân, nằm sát phía trong là hội trường, nơi sinh hoạt toàn trại.  Không có tường bao quanh, để lộ những hàng cột gỗ lim cao đỡ mái dựng đứng như kiểu nhà Rông của người miền núi Cao nguyên Trung phần.  Hai đầu hồi tranh đã xệ xuống, có chỗ chỉ còn trơ lại xương tre, tả tơi như cánh gà chọi sau lần thua trận.
Phía cuối trại, sau hội trường, trên nền đất cao là khu kiên giam mới xây xong.  Dẫy nhà 4 căn, tường dầy cỡ ba gang xây bằng đá tảng lớn.  Hai khung cửa sổ rộng có song sắt lớn bằng cổ tay, chiếm gần trọn hai mặt tường trước sau căn phòng.  Một bệ nằm bằng xi-măng cao ngang đầu gối đủ chỗ cho 6, 7 người nằm sát nhau.  Tường xây đã vượt qua ô cửa sổ và cửa ra vào.  Ðội anh đã lãnh trách nhiệm hoàn tất khu kiên giam với mái bằng trộn sỏi.
   Khi căn nhà hoàn tất, Kim bảo Hướng:
-"Chúng ta xây nhà kiên giam cho ta hay bạn ở đây?"
 Hướng cười:
-"Cũng như khi tới trại Nam-Hà, chúng ta hoàn tất căn nhà mới để anh em Hoàng-liên sơn tới ở.  Nhưng trại cũng cám ơn anh, nhớ tới công sức anh bỏ ra cho căn nhà mới, nên đã cho anh ở đó vài giờ trước khi đi Quyết-tiến Hà-giang."
Khu kiên giam hoàn tất trông thật bề thế, sẽ là chỗ an toàn và gía lạnh về mùa đông.  Chắc không còn ai có ý định vượt thoát, vì phòng ốc quá kiên cố so với sức người.       
Dẫy nhà bốn căn trông thật đồ sộ.  Ngoài cửa ra vào, mỗi căn có hai cửa sổ rộng trước sau khiến cán bộ nhìn rõ sinh hoạt bên trong.  Nơi đây dành riêng cho qúy vị Linh mục và Tuyên úy công-giáo các quân binh chủng của miền Nam trước kia.  Anh em trong trại thường gọi là "khách sạn Hilton Thanh-cẩm".  Quả thực trại đã quá lo xa đối với các vị lãnh-đạo tinh-thần, vì với chính-sách ăn cho khỏi chết ngay này, dù cho cửa có mở, các vị cũng không bước nổi chứ đừng nói là có thể chạy được một quãng đường dài. 
Cách đó không xa, lui hẳn vào phía cuối trại, như ở một nơi riêng biệt, từ ngoài nhìn vào không trông thấy vì bị phòng 5 che khuất, một khu kỷ-luật mới xây thay thế cho nhà kỷ-luật cũ.  Khu kỷ luật mới gồm hai dẫy mỗi dẫy ba phòng nhỏ, vừa đủ chỗ cho hai người nằm trên nền xi măng lạnh ngắt.  Phía cuối bệ nằm là chiếc cùm chân, khoen cùm là một vòng sắt vừa đủ lớn với cổ chân, móc vào một cây sắt một đầu chốt cắm sâu dưới nền xi măng, còn đầu kia thò ra ngoài tường, được khóa phía ngoài. Trong phòng không có phương tiện vệ sinh, ngoại trừ hai “ống bẫu” bằng khúc tre bương được giữ một đầu mặt làm đáy, không có nắp đậy, một để tiểu và một để chứa chất dư thừa của cơ thể. 
Kim nhớ khi mới tới trại này, nhà kỷ-luật cũ còn nằm trên khoảnh đất xây khu kiên giam bây giờ.  Tới trại vào buổi chiều, nắng đã khuất sau núi, khu trại thật yên lặng vì các đội lao động đã trở về phòng.  Vừa qua khỏi cổng trại, một khối đen sì nằm trên nền đất cao đập vào mắt, khiến người mới tới có cảm giác bị đe dọa, dằn mặt.  Anh được nhìn căn nhà này khi nó còn nguyên vẹn, bao trùm những nét kinh hoàng.
Anh đã đi qua nhiều trại ở miền Nam, và khi tới miền Bắc, từ trại Ty nhỏ bé Văn-Hoà nằm nơi ngoại ô thành phố Hà-nội, đến các trại nổi danh một thời như Ðầm đùn thuộc Hà Nam Ninh, ngược lên miền thượng du sát biên giới Hoa-Việt, cách độ 10 cây số đường chim bay là trại Quyết-tiến Hà-giang, và rồi xuôi về đây trại Thanh-cẩm thuộc tỉnh Thanh-hoá.  Mỗi trại tổ chức nhà kỷ luật một khác tùy theo hoàn cảnh, nhưng có một điểm giống nhau là tăm tối, thiếu vệ-sinh. 
Không hiểu tại sao tình trạng vệ-sinh tại các phòng kỷ-luật lại tồi tệ đến thế.  Hay Nhà nước nghĩ rằng những kẻ vào đây, dù có tư tưởng không chấp nhận chế độ Cộng-sản hay có hành động không tuân thủ pháp lệnh cuả chế độ một chiều, vì mong muốn có đời sống tự do, đòi hỏi có đủ quyền sống cuả con người, đều đáng chết.  Không cần giữ gìn mạng sống, không cần tồn tại.  Sự nuôi dưỡng vì vậy mà miễn cưỡng, lấy lệ.
Qua khỏi ô cửa vòng rào kẽm gai vây quanh, căn nhà mái lợp tôn thiếc không có lấy một cửa sổ.  Qua cánh cửa lim dầy, một lối đi ở giữa chiều ngang rộng hơn một thước.  Hành lang quá tối vì mái tôn che mất ánh sáng mặt trời.  Hai bên chia làm nhiều phòng nhỏ, phân biệt bằng những cánh cửa lim lâu ngày đã ngả mầu đen xám.  Trên cửa có một ô vuông duy nhất mỗi chiều rộng hơn một tấc, là nơi cai ngục nhìn vào kiểm soát theo ánh đèn bấm, và cũng là nơi không khí luân chuyển trong và ngoài phòng.  Ô vuông quá nhỏ nên ánh sáng chiếu vào không được bao nhiêu, anh có cảm tưởng vì phòng quá kín, những sợi khói thuốc giống như giải mây trắng bồng bềnh phiêu du rất lâu, trước khi tan biến vào không khí.
Phòng nhỏ giam hai người thì quá chật, thật khó xoay trở.  Không có phương tiện vệ-sinh trong phòng, nên tù nhân phải xử dụng hai "ống bẫu để chứa đồ dư thừa của thân thể.  Tù nhân phải tập quen với bóng tối, và phỏng chừng khoảng cách từ chỗ nằm tới nơi ống bẫu để lần tìm mỗi khi cần. Vì ống bẫu không có nắp đậy, tù nhân phải chấp nhận hít thở thứ không khí không mấy trong sạch, có hại cho sức khoẻ con người.  Trong phòng ẩm thấp hôi hám, cánh cửa lim hôi mùi rệp. 
Nghĩ  đến rệp Kim không khỏi rùng mình.  Anh đã mục kích hàng đêm nơi phòng giam tập thể.  Khi đèn bật sáng, rệp đã thả rơi từ sàn nằm phía trên xuống màn người nằm dưới, như chúng ngửi thấy hơi người.  Rệp chui vào màn bò ngổn ngang giết không xuể.  Ấy là hàng tháng đã làm vệ-sinh trong phòng, ván nằm được dội nước sôi thật kỹ.  Mặc dầu trời nóng như lửa đốt, mồ hôi ướt chiếu anh vẫn phải mắc màn để tránh muỗi, ghép màn thật sâu dưới tấm chăn trải nằm, nhưng rệp vẫn chui vào hàng chục con.  Chúng hoành hành không đêm nào yên giấc.  Anh em diễn tả đó là cảnh "thù ngoài giặc trong". Mỗi lần dở tấm chiếu nằm, rệp xếp lớp từng đám trên sàn gỗ, khoanh tròn như trải đậu.
Trần nhà kỷ luật cao và chắc chắn.  Mặt dưới là một tấm lưới bằng giây kẽm gai đan ô vuông.  Trên lớp kẽm gai là những tấm ván lim dầy cả tấc, ghép sát với nhau bằng đinh đỉa cỡ ngón tay đóng phía trên.  Nhiều lớp bao cát xếp khác chiều nhau đè trên mặt lớp ván trần.
Trại tin tưởng với sức nặng của bao cát và lớp ván lim dầy kết thành một khối, tù nhân khó có thể thoát ra ngoài bằng lối này.  Nhưng có lẽ với thời gian hết năm này qua năm khác, và khung cảnh tang thương trong phòng tối đã thôi thúc lòng khao khát tự-do, muốn vuột khỏi nanh vuốt của tử thần đang gậm nhấm dần mạng sống.  Và tại đây một cải tạo miền Nam đã vượt thoát ra ngoài.  Mặc dù bị bắt trở lại, bị đối xử tàn nhẫn hơn, nhưng một lần nữa anh đã chứng tỏ cho đám cán bộ trại biết lòng kiên trì, ý chí sắt đá không chấp nhận chế độ cộng-sản của người miền Nam.  Anh được đưa đi trại Quyết-tiến Hà-giang cùng với các anh Nguyễn-vạn-Thọ, Trịnh-Tiếu, Lê-văn-Khương, Trang-minh-Hải, Nguyễn-Xuân, Phạm-dương-Ðạt, Trần-trung-Chi, thêm anh, Lê-văn-Mười cho đủ bát tiên.  Anh em thường gọi đùa anh là "thủ tướng", anh luôn cười nói: "Tôi không quen biết hắn, lỡ trùng tên nhưng vẫn khác họ."
 Anh em đã sống với nhau những ngày thật gian truân.  Chia nhau những bữa no, hưởng chung những ngày đói, nếm cùng những tủi nhục.  Những tưởng sẽ dắt díu nhau lên "đồi Bà Then", nằm trên sườn đồi phía sau trại, là nơi dành cho những người "cải tạo tốt" mà Nhà nước quan tâm, cho họ làm nơi an nghỉ cuối cùng.
Rồi vùng biên giới bất ổn, quân đội của "hậu phương lớn anh em" tràn xuống đánh phá, anh em cải tạo miền Nam rời trại Quyết-tiến về đây.  Ngoài số gần một trăm Biệt kích ra Bắc từ thập niên 60 chuyển về trại Lam-sơn, còn lại 48 người về trại Thanh-cẩm.  Với con số 48 người lên Quyết-tiến đã tới từ các trại Nam-Hà, Thanh-Cẩm, Hà-Tây, Tuy-Hòa đến Hoàng-liên sơn.  Gồm các vị lãnh đạo tinh thần, thành phần mà chế độ cộng-sản vốn có thành kiến không thể kết hợp, số còn lại là những người, mà bọn cán-bộ đã nêu danh đầu gấu, có thành tích chống đối tại các trại cải tạo.  Chỉ một sớm một chiều, nằm chưa ấm chỗ, các vị Linh mục Tuyên-úy được đưa lên khu kỷ-luật cũ khi chưa có khu kiên giam như bây giờ.  Trong số các vị Linh mục lên khu kỷ luật, có LM Nguyễn-hữu-Lễ, người đã cùng với các anh bắt đầu hành trình từ trại Gia-rai Long-khánh, xuống chung chuyến tầu Sông Hương ra Bắc.  Ðến Nam-hà vùng đầm lầy nước đọng, ngược lên Quyết-tiến rồi về đây Thanh-cẩm.
Anh em còn lại vỏn vẹn mấy chục người, được lập thành đội xây dựng.  Cả đội không có bao nhiêu đồ nghề, ngoại trừ chiếc cưa tay nhỏ, một tràng một đục, vài chiếc cuốc xẻng.  Kim ngao ngán nhìn thấy bạn hữu của mình qủa thật xơ xác, vật vờ.  Trại bảo đó là thời gian thử thách, nhưng anh vẫn cảm thấy đó chỉ là hành động đầy ải, hành hạ.  Hay trại vẫn có ý đề phòng một tập thể đã có những hành động bất phục tòng chế độ, có phương tiện tạo những dịp vượt thoát.  Chỉ tiêu công tác đưa ra, thiếu dụng cụ anh em phải dùng những cây sắt nung đỏ để đục lỗ các vì kèo tre.  Các bạn trong trại nhìn đội của Kim mà tức cười, một đội từ thể xác đến tinh thần đã tơi tả như gà mắc mưa, như tầu chuối gặp ngày giông bão. Có người không dám liên hệ với đám Quyét-tiến như sợ lây phải những điều bất hạnh, sự nguy hiểm mà cán bộ trại đang giăng màng lưới để vồ bắt những phần tử còn manh nha chống đối.
Kim nhớ tới anh Ðặng-văn-Tiếp, người đã để lại cho các bạn trong đội một kỷ niệm đau buồn, chua xót.  Gặp anh ở trại Quyết-tiến Hà-giang, hai người đã chung nhau một chiếu nằm trong khu O. Rời trại Quyết-tiến và về đây Thanh-cẩm.
Rồi anh Tiếp đi kỷ-luật như các anh em khác, cũng chẳng cần hiểu tại sao.  Anh ở kỷ-luật hết tháng này qua tháng khác, thỉnh thoảng mới nhìn thấy anh ra sông tắm vào giờ trước khi đội lao động trở về.  Trông anh càng gầy và xanh hơn trước.  Kim nhớ mãi hình ảnh khi đội nghỉ lao động về tới cổng trại, nhìn lên bậc tam cấp đường lên khu kỷ luật, anh em kỷ luật đi tắm trở về phòng.  Một dây người như những bộ xương biết đi, đang vịn tường lần từng bước trên bậc tam cấp.
Và vào một buổi sáng sớm ngày 2-5-1979, đám cán bộ trại đã kéo lê thân xác anh trên lối đi đường lên khu kỷ luật.  Nghe nói, anh và bốn bạn tù bị đánh hội đồng.  Những đòn đánh hận thù của đám công-an đã loại anh ra khỏi đời sống.  Xóa tan những ước vọng anh hằng ấp ủ được đóng góp công sức của mình cho đồng bào xứ sở.  Chia cắt vĩnh viễn tình yêu thương anh hằng mong mỏi đợi chờ.
Những người cùng nhóm với anh có LM Nguyễn-hữu-Lễ, Ðại-tá Trịnh-Tiếu, anh Nguyễn-sĩ-Thuyên và Cao-thành-Văn bị đánh đập thật tàn nhẫn nơi sân trại, thân thể oằn oại rũ xuống như những xác không hồn.  Quần áo tả tơi, bê bết cát bụi và máu đỏ.  Những tiếng kêu đau đớn tắc nghẹn im dần, như không còn hơi sức chịu đựng, chống đỡ.  Anh Tiếp đã chết tại chỗ, bốn người còn lại cũng chẳng lành lặn gì.  Họ được đưa trở lại khu kỷ luật, trút bỏ quần áo trên người, bị đẩy vào căn phòng tăm tối, lạnh lẽo.  Lãnh chịu những hình phạt kỷ luật ngoài sức tưởng tượng của con người.
Những thân xác kiệt quệ mang đầy thương tích không được chữa trị, đang thoi thóp trên nền gạch nhơ nhớp, trăn trở giữa cái chết và sự sống quá mong manh.  Anh Văn đã qua đời trong phòng kỷ luật sau một tuần lễ bị bỏ đói. Khi chết, chân anh Văn vẫn mang cùm.
Ðời sống ba người còn lại thật thê thảm, bị bỏ mặc như một hành động phủi tay.  Cả tháng sau LM Nguyễn-hữu-Lễ mới có thể gượng ngồi lên được.  Ông đã nói lớn cho đám cán bộ trại nghe thấy:"...cho tôi một trong hai điều, hoặc là cho tôi một viên đạn để được chết như anh Tiếp, anh Văn hay cho tôi quần áo để mặc.  Tôi là con người chứ không phải là con thú mà sống trần truồng.  Nếu tôi chết trong tù thì thôi, bằng nếu còn sống sót tôi phải nói cho cả thế giới được biết là chưa có chế độ nào đối xử với tù nhân chính trị một cách dã man bằng chế độ cộng-sản Việt-Nam...." 
Những biến động đột khởi bùng lên, khuấy động khung cảnh vốn tưởng là ổn định an tâm.  Người hy sinh đã nằm yên trong lòng đất, mặc dù chôn cất thật vội vàng.  Giá trị một kiếp người thật rẻ rúng, tầm thường.  Nhưng những người còn ở lại như hưởng lây tính anh hùng bất khuất,  góp gió thành bão, tôi luyện cho lửa đấu tranh.
Kim chợt nghe tiếng gọi của anh Lê Ngọc Thạch, người bạn xây chung bên kia đầu tường, cắt ngang giòng dĩ vãng trở về.
-"Anh Kim, anh thử xem tới mức đặt vì kèo chưa?"
Kim cầm thước đo từ đầu cửa sổ lên mép gạch vừa xây, kích thước đã đúng như dự trù.  Anh bảo bạn nâng giây mực lên mặt tường, dùng thước thủy kiểm soát độ nằm ngang của đầu tường.  Anh dùng dao xây xúc hồ san một lớp mỏng cho các mí gạch dính vào nhau, nhất là nơi đầu cột gạch chỗ đặt vì kèo.
Nhìn bức tường xây tương đối thẳng anh cười thầm, Xã hội chủ-nghĩa thật ưu việt, cải tạo mọi thành phần trở thành "con người Xã-hội Chủ-nghĩa".  Biến đổi từ tinh thần đến thể xác người trí thức, chuyên viên trở thành lao động chân tay.  Nhìn các bạn trong đội anh đã diễn tả:

...Bác-sĩ Quan cuốc đất,
Dược-sĩ Diệm phụ hồ....

Anh đã đi lên từ công việc hạ tầng, từ đào mương vác đá đến chặt nứa khiêng cây, từ gánh nước tưới rau đến thợ mộc thợ nề.  Và bây giờ cuộc đời anh đang dính liền với dao xây thùng vữa.
Quả thật, đối với xã hội này anh là một tay mơ.  Khi lọt lòng và lớn lên, anh được nuôi dưỡng trong xã hội gọi là "phồn vinh gỉa tạo".  Mớ văn hóa anh hấp thụ tại miền Nam là thứ văn hóa được mệnh danh "nô dịch".  Anh đã được xã hội mới cải tạo, tôi luyện từ thể xác đến tinh thần.  Phải gột bỏ dĩ vãng, biến đổi thành "con người mới Xã-hội Chủ-nghĩa" có tay nghề vững chắc, mà theo cán bộ trại nhắc nhở nhiều lần về đường lối cải tạo cũng như chính-sách khoan hồng của nhà nước, các anh sẽ nhờ đó mà có cuộc sống ấm no sau này…

Kim nhớ tới gia đình, anh buông tiếng thở dài.  Ðã lâu anh không có tin nhà.  Không hiểu vợ con anh ra sao, liệu có chống chọi được với đời sống thay đổi quá bất ngờ này không.  Có còn ở chỗ cũ hay đã bị duổi đi vùng kinh-tế mới vì có chồng cha đi cải tạo.  Còn Bố mẹ anh đã già, biết người còn khỏe mạnh.  Niềm thương nhớ luôn luôn vò xé tâm tư anh, nhưng cũng là nguồn an ủi, xoa dịu cuộc sống đau thương của anh hiện tại.  Anh biết mình đang bước vào con đường cùng, nhưng lòng vẫn mong mỏi có cơ hội trở về.  Thời gian trôi qua thật nhanh, thấm thoát đã năm năm…    

     
*

3.
Một lời cho Em
Kim lọt vào con hẻm tối.  Con hẻm trải đá đủ chỗ cho xe hơi qua lại không sáng sủa như trước.  Hàng cột đèn từ đầu hẻm dẫn vào khu nhà anh ở, vì tiết kiệm săng dầu, nên không còn được thắp sáng.
Anh bước tới trước cổng, hai cánh cửa sắt có ghép tôn múi phía ngoài, để tránh những cặp mắt từ ngoài nhìn vào nhà, vẫn đóng kín.  Ánh sáng từ phòng khách chiếu qua hai cánh cửa mở rộng khiến anh dễ nhìn thấy lối đi.  Kim thấy lạ, vì sau ngày miền Nam bị xâm chiếm gia đình anh rất ít khi mở cửa trước vào lúc tối trời, và thường ra vào bằng cửa hông.  Chỉ trừ những căn nhà do gia đình cán bộ miền Bắc vào chiếm ngụ là đèn thắp sáng chưng, còn hầu hết những gia đình người miền Nam ở lại đều cửa đóng then cài.  Anh thường nghe bà con lối xóm tâm sự:  "Có gì sung sướng để hân hoan trước cảnh nhà tan cửa nát, chồng vợ cha con chia lìa".  Anh cảm nhận sự đau thương, niềm tủi nhục đang tàn phá tinh thần và thể xác người miền Nam.
Anh có cảm giác lạ phía sau nên chậm bước.  Bất chợt hai người đàn ông mặc thường phục, vì đứng khuất sau cột đèn phủ đầy bóng tối nên anh không nhận ra khi tới cổng, nhẩy tới kề khẩu súng ngắn vào hai bên sườn.  Một người quát bảo anh đứng yên, dơ cao hai tay.  Nhờ ánh đèn trong nhà chiếu ra anh nhìn rõ mặt hắn, trông lạ hoắc.  Hắn vẫn nhăm nhăm khẩu súng ngắn hướng về phía anh, trong khi tên thứ hai xét người anh thật kỹ từ vai đến chân.  Trông hắn thật cẩn trọng, hai tay cầm súng như đề phòng trường hợp anh vuột chạy hay có hành động bất lợi cho người đang khám.  Chắc họ nghi anh có võ khí trong người nên khám rất kỹ.
Sau khi khám người anh xong, họ đẩy cửa cổng.  Lúc này anh mới thấy cánh cửa cổng chỉ khép hờ, mà từ ngoài nhìn vào khung cảnh trong nhà vẫn yên lặng, như không có gì xẩy ra.  Họ đẩy anh vào sân, nhiều người võ trang xuất hiện phía sau anh.  Trong nhà nhộn nhịp hẳn lên, đám công an võ trang qua lại như hoạt-cảnh của đám múa rối trên sân khấu vụt trỗi dậy.
Phòng khách vắng người, một công an đang ngồi nơi ghế sát cửa ngăn phòng khách với phòng ăn, như cấm mọi người trong nhà ra phòng ngoài.  Anh vượt qua mấy bậc tam cấp bước lên thềm nhà.  Cha anh ngồi yên lặng sau chiếc bàn giấy.  Vợ anh vượt khỏi người công-an khi thấy anh vào nhà.  Nàng hẳn phải khóc nhiều nên hai mắt đỏ hoe, sưng mọng.  Tội nghiệp cho nàng, đây là lần đầu tiên trong đời phải rơi nhiều lệ.
Anh lặng người trong giây phút, tự hỏi chẳng lẽ ngày này đến với anh thật sao.  Nó tới quá sớm cho công việc anh làm.  Nhìn qua cha anh, ông điềm tĩnh gật đầu, như đoán biết từ trước.  Còn vợ anh tức tưởi, cơn nấc khó ngăn.  Mặt nàng đẫm lệ, sự xúc động khó làm ngưng nước mắt.  Chắc nàng đoán biết sự gì sẽ xẩy ra, đã hiểu sự an toàn cho mỗi cá nhân trong xã hội này ít khi có được.
Ðám công-an ở trên lầu đã xuống, như vừa khám xong toàn diện căn nhà.  Họ đặt trên bàn trước mặt cha anh lá cờ vàng ba xọc đỏ, vài tấm hình anh chụp trước năm 75, mấy chục đĩa nhạc cổ điển mà vợ anh sưu tập.
Anh ngạc nhiên khi nhìn thấy lá cờ còn mới mà mẹ anh cất giữ.  Vì sau ngày 30 tháng 4 gia đình anh đã lựa những gì cần đốt bỏ, giữ lại chỉ gây thêm nhiều rắc rối nguy hiểm.  Nhưng không hiểu sao bà vẫn giữ lại lá cờ.  Có phải vì quen mắt nên không nỡ xé bỏ, hay đó là dấu vết gợi nhớ những ngày hạnh-phúc nơi tâm tư bà, hân hoan nhìn đàn cháu ngoan lớn lên trong khung cảnh yêu thương xum họp.  Hay trong thâm tâm bà vẫn mong mỏi đợi chờ thời gian êm ấm khi xưa trở lại vào một ngày không xa.
Người công-an chỉ anh ngồi xuống ghế nơi phòng khách.  Anh biết việc gì xẩy đến.  Ðầu óc anh căng thẳng tính toán.  Cổ họng khô đắng, chưa bao giờ anh thấy khát nước như lúc này, mặc dầu thời tiết cuối năm nay mát hơn những năm trước rất nhiều.  Anh nhìn vợ, hỏi nàng cho anh một ly nước chanh đá.  Anh uống một hơi cạn ly.  Vợ anh vẫn khóc như nước mắt trào ra bất tận.  Nơi nàng, anh thấy trộn lẫn cả hờn giận lẫn đau thương, lo âu và uất hận.  Anh nhìn nàng thương xót.  Nước mát giúp anh dễ chịu, bình tĩnh trở lại.
Các con anh xúm lại gần, nhưng chúng bị tên công-an đẩy vào phòng trong. Chúng ngơ ngác nhìn bố mẹ, nhìn đám công-an lạ mặt.  Ðứa con lớn lên 9 im lặng như đã hiểu sự việc xẩy ra cho người cha, còn mấy đứa em ngây thơ qúa, chúng tiến gần nắm lấy tay mẹ.
Viên công-an tự giới thiệu hắn là trưởng công-an của quận anh, người bên phải hắn là đại diện công-an thành phố, còn người bên trái là công-an Trưởng quận Bình-hòa.  Hắn bảo anh đứng lên nghe lệnh, và lấy từ trong tấm bìa gấp đôi một tờ giấy đánh máy có in dấu tròn lớn mầu mực đỏ, đọc to:  "Bộ nội vụ ngày... Lệnh tống giam ...Tên... can tội: dầu não phản động ...".  Anh thấy lạnh sau gáy, chân tóc như muốn dựng lên, một cảm giác anh chưa thấy bao giờ.  Có lẽ chỉ vào giờ phút này, hoàn cảnh này mới nẩy sinh cảm giác lạ lùng.  Việc đến đã đến, có thể đến với bất cứ người nào ở trường hợp như anh.  Không ngờ bọn chúng nhanh tay đến thế.  Anh không kịp thực hiện ý định.
Vừa dứt lời hắn quay qua nói với vợ anh:
-"Chị yên tâm, anh không phải can tội hình sự tầm thường.  Trước khi tới đây chúng tôi đã xắp xếp chỗ ăn nằm cho anh rất cẩn thận."           
Lời buộc tội thật ngắn gọn, giản dị nhưng làm mọi người trong gia đình anh ngơ ngác, kinh hoàng.  Như một trái phá vụt nổ bóp nghẹt những trái tim.  Ðúng là miệng lưỡi cộng-sản, lời nói ngọt ngào lấy lòng nhân dân được học tập kỹ càng, đã che đậy bao nhiêu hành động tàn nhẫn, vô luân.
Vợ anh bật khóc lớn, như không giữ được nỗi thống khổ tuyệt vọng nơi tâm tư nàng trong nhiều tháng qua, đã có dịp bộc lộ trong giờ phút này. Tiếng khóc pha lẫn tiếng nấc nghẹn như tất cả đều xụp đổ.  Các con anh chạy lại ôm bố, như một hành động yêu thương hàng ngày, mà trước khung cảnh đặc biệt tối nay, chúng linh cảm cử chỉ yêu thương từ nay sẽ thiếu vắng.  Kim ôm chặt các con, lòng thương xót dâng lên. Anh cảm thấy có lỗi vì sẽ thiếu sót bổn phận với chúng.  Anh lại nhìn vợ, khó mà nói được gì trong lúc này.
Viên Trưởng công-an quận anh đọc lại từng đoạn tờ biên bản khám nhà, hắn lớn giọng khi đọc tới phần ghi tang vật: "một lá cờ ba que lớn, một số hình ghi nhận có tiếp xúc với người nước ngoài, vài chục đĩa nhạc phản động..."  Ðọc xong, hắn đưa tờ biên bản cho vợ anh yêu cầu nàng ký nhận.  Nàng cầm tờ biên bản rồi lại để xuống bàn, như không đọc được vì nước mắt dâng lên phủ mờ khung cảnh trước mặt.  Nàng đưa tờ biên bản cho cha anh nhờ ông đọc.  Ông đọc lại một lượt, đòi sửa vài chỗ ghi sai thực tế.  Quả thực, ông cho tờ biên bản chỉ là tấm giấy lộn, một hình thức lấy có.  Ông biết rõ chế độ này.  Vì vậy đã bồng bế vợ con di cư vào Nam.
Nàng cầm bút đặt tay lên tờ giấy nhưng lại ngần ngừ.  Ngước nhìn anh thật lâu, nước mắt đầm đìa nhỏ xuống trang giấy.  Anh nhìn rõ tâm tư đau thương trong lòng nàng, phải ký nhận vào tờ giấy ghi những yếu tố buộc tội chồng.  Nàng đứng thẳng người, buông rơi cây bút trên tờ giấy, hai tay ôm mặt run rẩy, người lảo đảo như đứng không vững.  Sự việc đến với nàng quá đột ngột mà viễn ảnh đen tối mỗi lúc một rõ nét.
Viên công-an quận dục anh đi.  Anh ôm hôn các con, bảo chúng ở nhà ngoan ngoãn chăm học, nghe lời mẹ và đừng làm mẹ chúng buồn.  Anh quay qua cha mẹ nói ông bà giữ gìn sức khỏe.  Anh nhìn hai đứa em gái.  Anh đi tới bên vợ, nhưng tên công-an giữ anh lại.  Chúng ngăn cấm hành động yêu thương này, vì trong đời sống của chúng, trong xã hội này, tình yêu thương cá nhân không cần thiết. Anh nói với nàng:
-"Em giữ sức khỏe, đừng lo lắng cho anh nhiều quá."
Nàng tới gần bên anh, lấy ra gói tiền đưa anh phòng khi anh cần.  Anh không muốn lấy vì biết gia đình chẳng còn bao nhiêu sau nhiều lần đổi tiền.  Một đồng tiền mới gía trị bằng 200 đồng cũ, mỗi gia đình chỉ được đổi một số tiền gía trị bằng hai trăm đồng tiền mới.  Số tiền còn lại trở thành vô giá trị.  Vô tình hay hiểu theo một cách khác, theo chính sách đánh gục miền Nam về mọi phương diện, đã cướp luôn tài sản của nhân dân miền Nam, mà vì bạo lực buộc người miền Nam phải chấp nhận.   Vợ anh còn cả gánh nặng trên vai, một đàn con dại nàng phải trông nom, dậy dỗ.  Anh cầm tờ giấy hai đồng cho nàng yên lòng.  Trong thâm tâm anh tự biết không hiểu anh còn cơ hội để tiêu hai đồng này nữa không.
  Hắn kéo anh đi không quên mang theo những tang vật  làm chứng cho hành động chống đối của anh.  Vợ anh bật khóc lớn, các con anh khóc theo.  Mẹ anh đưa tay chùi nước mắt.  Anh nhìn mẹ thật lâu.  Nhớ tới chuyện cũ, anh thương bà vô cùng, cả đời bà hy sinh cho chồng con.  Anh với bà đã dắt díu đi thăm nuôi cha anh, khi ông cũng như phần lớn những người cùng thời dạt dào lòng yêu nước.  Anh đã đi theo bà bất kể chuyến tầu đêm hay ngày, từ tỉnh này qua tỉnh khác lặn lội tìm chồng.  Và bây giờ trong hoàn cảnh này, đã gợi nhớ hình ảnh chua xót nơi bà.  Không hiểu vợ con anh có cái may mắn như bà hồi xưa, có một gia đình đoàn tụ.
Nhìn những người thân yêu, anh cảm thấy lòng mình thấm thía xót xa.  Những lời nhặn nhò vừa rồi có phải là những lời từ biệt, lời nói cuối cùng của sự phân ly.
Kim dừng lại khi xuống hết mấy bậc tam cấp, quay nhìn người thân lần chót.  Ðám công-an võ trang đi phía sau như bức rào ngăn không để gia đình anh tới gần.  Anh nhìn căn nhà gia đình anh ở đây đã lâu. Nơi đây anh đã lập gia-đình, sống những ngày thật êm đềm hạnh phúc.  Ðựa con đầu đến đứa út sinh ra ở đây.  
Hai cánh cửa cổng đã mở rộng.  Anh đi giữa đám công-an ra khỏi sân nhà.  Một số người trong khu anh ở đứng bên kia đường, họ nhìn anh ngậm ngùi như thương tiếc cho một người miền Nam.

*

4.
Vào đường gian truân
(Trại Băng-Ky)

Bây giờ đã gần 10 giờ đêm.  Những ngày cuối năm trăng muộn, đèn không đủ sáng nên con hẻm chìm trong bóng tối.  Kim mặc bộ quần áo mỏng nên hơi lạnh.  Hai người công-an đi kèm hai bên, một tay để trong túi quần.  Chắc  muốn cho anh biết chúng luôn sẵn sàng nếu anh có ý định thoát chạy, như đã từng xẩy ra trong những lần vây bắt trước đây.  Viên công-an quận chợt nói bên tai anh:

-"Chúng tôi không còng tay anh như thường xử dụng theo thủ tục bắt giam vì kính trọng anh và gia-đình anh."
Anh thừa biết dã tâm của hắn.  Hắn xử dụng ngôn từ nhẹ nhàng, tình cảm hầu không xẩy ra chuyện rắc rối dọc đường, hơn nữa hắn không thể hành động lỗ mãng, tàn ác như đã từng làm, với anh chúng chẳng được lợi điều gì. Chúng lại càng không thể mạnh tay trước mặt người dân trong xóm đang đứng bên kia đường, mà chính sách Nhà Nước đang tỏ ra lấy lòng người dân miền Nam.
Anh bị đẩy vào ghế sau một xe du lịch, ngồi giữa viên công-an quận và đại diện thành phố.  Hàng ghế trên, ngồi bên tài xế là công-an trưởng quận Bình-hòa.  Phía trước xe du lịch là một xe Jeep có công-an võ trang.  Hai xe Honda có võ trang chạy kèm hai bên xe anh.
Anh tự hỏi tại sao mình được đối xử quá chu đáo, mà suốt cuộc đời làm việc trước kia chưa bao giờ được hưởng khung cảnh "tiền hô hậu ủng" như thế này.  Hay vì danh xưng "đầu não" mà bọn chúng vừa gán cho anh, đã nâng anh lên hàng quan trọng.
Trời về khuya đường phố đã vắng người.  Giờ này, đối với người dân miền Nam không còn là thời điểm ăn chơi như trước, mà là lúc nghỉ ngơi sau một ngày vật lộn với sự sống, sau những giờ học tập chính sách Nhà Nước tại khóm phường.  Nhà Nước đã lo cho người dân thật chu đáo.
Xe qua khỏi ngã tư Võ-di-Nguy, theo đường Chi lăng hướng về Gia-định, rồi ngả Bình-hoà.  Khi qua cầu, xe rẽ vào khu biệt thự vắng vẻ.  Căn nhà như tách rời khỏi lối xóm.  Ðèn không thắp sáng mà ánh trăng mờ nhạt nên không nhìn rõ mọi vật.  Xe ngừng nơi cuối sân đối diện với dẫy nhà ngang thấp.  Anh bị lôi xuống xe, hắn bảo anh đưa hai tay ra sau, một vòng thép lạnh quấn nơi hai cổ tay xiết mạnh.  Anh nghe rõ âm thanh của nấc còng trượt qua khớp.   Hành động có hơi nặng tay, không giống lời nói "kính trọng" như khi anh vừa rời khỏi nhà.  Anh chợt hiểu về sự thay đổi quá nhanh, họ không còn lo anh tháo chạy nên đối xử thẳng tay như bản chất sẵn có.
Họ dẫn anh tới trước một căn phòng nằm dưới mái hiên che, phía trong là một hành lang tối như mực.  Thật yên lặng như không có lấy một hơi thở.  Hắn kéo mạnh cánh cửa sắt nhỏ, bản lề đã xét rỉ gây âm thanh ghê rợn trong đêm vắng.  Trong phòng quá tối, anh không phân định được rõ ràng phía bên trong.  Anh cảm thấy hơi nóng và mùi hôi nồng nặc dội vào mặt.  Chưa kịp định thần, anh bị xô mạnh vào phòng, chân vấp phải sàn gỗ nên ngã chúi về phía trước.  Anh không kịp tự chủ, nên theo đà đẩy người anh va mạnh xuống đất.  Hai tay bị còng về phía sau nên một bên vai đau điếng, rất may đầu anh không va vào đâu.  Anh ngồi dậy, đưa một chân quơ xung quanh, chân chạm vách tường hai bên, còn phía đối diện với cửa ra vào phải hai bước chân mới tới vách ngăn.  Anh trở lại vạc gỗ, Vạc gỗ thưa khe hở bỏ lọt ngón tay, gác nghiêng nghiêng một đầu lên bờ cửa ra vào. 
Anh ngồi trên vạc gỗ, chiếc chiếu trải nằm đã rách.  Hẳn phải có nhiều người tới đây trước anh.  Ðúng như lời viên công-an quận nói, họ sửa soạn chỗ nằm cho anh tươm tất, cũng chiếu giường đầy đủ.  Chiếc còng kéo hai tay về phía sau khiến anh cử động thiếu tự nhiên.  Anh cố gắng đưa hai tay về phía trước nhưng vòng xích xiết chặt, thâu hẹp vòng tròn, nên khó đưa hai tay qua mông.
Bây giờ đã nửa đêm, khu ngoại ô thật yên lặng.  Không còn tiếng máy xe chạy ngoài đường. Vạn vật như chìm vào giấc ngủ.  Trong phòng chỉ còn tiếng muỗi vo ve, thỉnh thoảng vang lên tiếng thạch sùng tặc lưỡi.  Muỗi đã bám vào mặt, châm vào hai bàn tay sau lưng, vào hai bàn chân trần.  Anh đã thấy ngứa phía sau lưng vì lần vải mỏng không cản được chiếc vòi dài.  Anh cử động liên hồi sua đuổi đàn muỗi như người múa rối.
Thời tiết Sài-gon vào cuối năm trở lạnh, nhất là năm nay.  Nhiệt độ quen thuộc trên 30 độ C bỗng chốc tụt xuống cả chục độ, khiến dân Sài-gon có dịp khoe áo ấm. Có người tiếu lâm cho rằng, cộng-sản chiếm miền Nam đã mang cái lạnh cắt da của miền Bắc và cái đói cũng vào theo.
Thực ra vào giờ phút này cái "đói lắm" thì chưa, vì miền Nam vốn là vựa thóc của vùng, mặc dù đã chia năm xẻ bẩy, hết ra Bắc lại qua Lào sang Mên.  Nhưng chắc chắn cái "đau khổ" đã tới rồi và đang trên đà phát triển.
Ngồi lâu đã mỏi, anh nằm sấp trên vạc gỗ, vì sợ khi nằm ngửa sẽ đè lên chiếc còng phía sau lưng, mà mỗi lần chạm mạnh vòng còng xiết lại nhỏ hơn.  Nằm không được bao lâu lại bật ngồi dậy vì mùi nước cống xông lên.  Anh ngồi dựa vào tường, trí óc thật tỉnh táo.  Anh lần tìm sự việc khiến anh bị bắt…
Ðêm lặng lẽ trôi qua, tiếng dế thưa dần.  Anh đã nghe thấy tiếng gà gáy sáng quanh đây, rồi tiếng xe thồ gõ móng trên đuòng nhựa rung tiếng nhạc leng keng.  Tiếng máy xe ba bánh mỗi lúc một nhiều… Qua khe lá xách ở phía dưới chân cánh cửa sắt, bóng đêm đã nhạt mầu.  Trời hừng sáng.  Sinh hoạt một ngày lại trỗi dậy.
Trời đã sáng hẳn.  Ánh sáng len vào phòng qua khe cửa không chiếu rõ cảnh vật bên trong.  Căn phòng chiều ngang rộng hơn thước, từ cánh cửa tới vách tường phía trong khoảng 2 thước.  Mặt trước, cánh cửa sắt chiếm gần trọn, ba mặt tường còn lại dơ bẩn vì lâu ngày chưa sơn quét.  Kim chợt nhìn thấy dòng chữ trên tường, dù cố ý bôi xóa nhưng vẫn còn đọc được dễ dàng.  Dòng chữ "đả đảo cộng-sản" thật đậm nét, như được viết bằng máu, nên thời gian đã đổi mầu thành nâu xậm.  Vạc gỗ thưa, chiếc chiếu trải nằm đã rách, nên không cản được phần nào mùi hôi xông lên từ miệng cống dưới vạc gỗ.  Bóng nước mầu đen đã lan ra phía ngoài vạc.  Xú uế tràn ngập trong phòng, khiến nhịp thở như muốn tắc nghẹn, gây lên cảm giác chóng mặt buồn nôn.  Trong phòng trống trơn, không có phương tiện vệ sinh.
Hai vai Kim mỏi nhừ vì hai tay không cử động bình thường.  Người mệt mỏi sau một đêm không ngủ.  Dòng chữ "đả đảo" trên tường gợi cho anh nhiều suy nghĩ.  Với chiếc còng nơi tay chưa phải là món ăn chơi mà họ mời anh vào buổi đầu sơ ngộ.  Anh còn mới mẻ quá, chưa nếm trải cực hình là món ăn chính dành cho thành phần như anh, như những người vào đây trước mà sự phẫn uất, ý chí kiên cường đã in dấu trên tường.  Thù hận phải trả bằng máu đỏ, bằng kiếp sống con người. 
Không hiểu những người vào đây trước anh già hay trẻ, còn sống hay đã chết.  Kim cảm phục những người bạn vắng mặt, mà dấu tích ghi lại như khuyến khích anh chịu đựng, chấp nhận đau thương, vì mục-đích cao cả là sự tự do và quyền sống của con người.
Chiếc vạc gỗ anh ngồi oằn xuống.  Mảnh chiếu cũ rách nát để lộ những xương gỗ nằm đã nhẵn thín, đổi mầu như được các tấm thân đẫm ướt mồ hôi, rỉ máu vì cực hình, oằn oại chà sát sau những lần khai cung.
Anh đi lại trên phần nền ngoài vạc gỗ, hy vọng cơ bắp hoạt động sẽ giảm được phần nào mệt mỏi.  Anh đếm bước trên phần đất nhỏ bé hàng trăm, rồi hàng ngàn... Ðầu óc căng thẳng, không hiểu việc anh bị bắt liên hệ tới nhóm nào.  Anh phải tỉnh táo, sẵn sàng chờ đợi để tránh cho mình lầm lẫn sau này.
Mặt trời chắc đã lên cao, ánh sắng lùa vào phòng nhiều hơn.  Anh nhìn kỹ căn phòng, quả thật dơ bẩn.  Màng nhện giăng khắp tường, dán xếp lớp tại các khe gạch, góc tường.  Chắc đã lâu ngày chưa quét dọn. 
Ánh nắng nung nóng mái tôn, hâm nóng phần không khí anh thở.  Nước cống dưới vạc gỗ như bốc hơi nhanh hơn, làm không khí trong phòng thêm ngột ngạt.  Hơi nóng từ mái tôn, không xa đầu anh bao nhiêu, như đè anh xuống.  Anh ngồi xuống vạc gỗ để tránh hơi nóng trên đầu, mong tìm một chút hơi mát từ mặt đất.  Anh nằm xấp trên vạc gỗ, để mắt sát khe lá sách gần chân cánh cửa sắt, mong tìm một chút không khí trong sạch ở ngoài.  Anh không nhìn thấy khung cảnh nào khác ngoài khoảng cách hơn thước tù chân cửa ra vào.  Ngay trước cửa, nước đọng thành vũng, thả rơi trên mặt những chiếc lá vàng.  Anh tìm thấy bóng râm của cây trứng cá.
Anh không hiểu xung quanh anh còn những ai, có bao nhiêu phòng.  Không thấy tiếng động nào khác lạ.  Trong phòng không có vật gì có thể làm phương tiện vệ sinh.  Từ tối hôm qua đến bây giờ anh phải chịu đựng, phần nước thừa trong cơ thể như tăng thêm, làm căng phồng bụng dưới.  Anh cảm thấy thật khó chịu nhưng cố nhịn vì không muốn làm bẩn thêm không khí trong phòng vốn đã không đủ sạch cho buồng phổi.
Chưa biết việc gì sẽ xẩy ra ở giây phút kế tiếp, anh nhủ lòng chờ đợi.  Mọi thứ không còn trong quyền hạn của anh quyết định, ngay cả mạng sống cũng không biết còn hay mất vào thời gian sắp tới đây.  Anh không thể nôn nóng, vì bình tĩnh là điều cần thiết trong trường hợp này.
Khoảng hơn 10 giờ cửa phòng bật mở.  Hơi nóng trong phòng như cuồn cuộn tuôn ra ngoài.  Tên cán bộ võ trang vừa ló đầu vào đã vội lùi ra ngay, như choáng váng vì bị sức nóng và mùi hôi đẩy hắn ra.  Ánh sáng chói chan ập vào phòng, tẩy xóa phần nào không khí dơ bẩn bên trong.  Kim bước ra ngoài khoan khoái đón luồng gió mát.  Anh được tháo còng tay, có 10 phút ăn bữa cơm trưa và làm vệ sinh cá nhân.
Anh chạy qua mặt người cán-bộ võ trang tới phòng tắm chung, tháo bỏ bộ quần áo trên người.  Anh phải thật nhanh, chỉ có 5 phút tắm rửa và vệ sinh, còn 5 phút dành cho bữa ăn trưa. 
Nhìn bát cơm gạo hẩm như đã giữ trong kho lâu ngày để giữa lối đi.  Chén cơm đã nguội, một miếng cá hấp mặn chát trắng chợt lớn bằng hai đốt ngón tay, nằm dưới mấy cọng rau muống luộc khoanh tròn.  Bữa trưa chỉ có thế.  Anh cố ăn mặc dù không thấy đói vì quá mệt mỏi.  Vị tanh của miếng cá làm anh lợm giọng.  Anh cố nuốt cho nhanh và nhủ thầm sẽ phải làm quen với những bữa ăn như thế này.  Anh cần một chút gì vào bụng để đủ sức chịu đựng trong những ngày sắp tới. 
Mười phút ngắn ngủi qua nhanh, tên cán bộ dục anh vào phòng khi chưa ăn hết bát cơm.  Hai tay anh lại xỏ vào vòng xích.  Cánh cửa sắt đóng mạnh phía sau lưng, âm thanh vang lên thật dữ dội.
Bây giờ đã quá trưa, mặt tường bên phải hướng tây bị hâm nóng như vỉ sắt nướng, hơi nóng từ mái tôn, vách tường đốt nóng không khí trong phòng.  Mồ hôi đã nhơm nhớp trên mặt da.  Anh muốn cởi áo cho bớt nóng, nhưng hai tay bị bị xích phía sau, hàm răng không cởi được hàng khuy áo trước ngực.  Anh nằm xấp xuống vạc gỗ hầu xa phần nào mái tôn đang bốc lửa, hy vọng hơi mát từ mặt đất làm dịu cơn nóng đang hừng hực trong người. 
Kim nhớ đến một người bạn bị Việt cộng bắt khi đi công tác tại miền Trung, chúng bắt nạn nhân nằm ngửa, chân tay dang rộng, cổ chân tay buộc vào cọc, không thể cử động.  Dưới ánh nắng cháy da của mùa hè, hơi nóng hắt từ mái tôn chỉ cách mặt hơn thước, khiến nạn nhân như chiếc khăn khô vắt hết nước. 
Sự chịu đựng của Kim chưa đáng kể, nhưng có qua cảnh này mới hiểu được cái đau khổ mà người khác phải chịu đựng.
Ðêm qua thật lạnh lại không có áo ấm, bây giờ quá nóng lại không cởi được áo.  Năm giờ chiều là bữa cơm tối.  Cửa phòng vừa mở, chiếc còng tay vừa tháo, anh vội chạy qua phòng vệ sinh.  Thời gian hạn hẹp thực quý báu.  Anh chợt thấy nửa dưới chiếc bình nhựa loại 2 lít để bên đầu nhà.  Anh nhặt chiếc bình vừa tắm vừa rửa sạch, hứng đầy nước vòi.  Không hiểu trước đây nó được dùng vào việc gì, sạch hay bẩn.  Chắc để đó đã lâu, đất bẩn bám vào, mầu trắng đã đổi thành nâu nhạt, không cần biết, anh đang cần nó, khuất mắt trông coi.  Anh nghĩ chiều và tối nay sẽ có nước uống, không bị chết khát như sáng hôm nay, vì phần nước uống trong bữa ăn không đủ kiềm chế cái khát trong căn phòng nóng như lò bếp.
Anh và vội chén cơm.  cũng lại chén cơm nguội gạo hẩm, mấy cọng rau và miếng cá hấp muối mặn chát đã lạnh tanh.  Dù không ngon miệng anh vẫn phải nuốt cho nhanh.  Cơ thể anh đang cần nó, phải ăn hết bát cơm, không thể bỏ dở như sáng nay.  Còn lâu lắm anh mới có bát cơm kế tiếp, mà có thể nhiều việc xẩy ra khiến anh không có bữa ăn này.
Kim để bình nýớc trên bực cửa ra vào, chỗ ðầu vạc gỗ gác lên, trýớc khi anh cho hai tay vào còng. Anh nghĩ để bình nước nơi đây, có thể nằm xấp trong lúc hai tay ở phía sau lưng, dùng răng cắn nghiêng bình uống nước khi thật khát.  Nhưng anh chợt nghĩ tới phương tiện vệ sinh, khát đã có nước uống còn phần nước thừa trong cơ thể lại không có chỗ chứa, mà chiếc bình nhựa không thể làm hai việc một lúc.
Trời đã tối, anh chờ đợi một ngày dài vẫn chưa có gì xẩy ra.  Chẳng lẽ họ đợi lúc nửa đêm khi tù vừa an giấc tới dựng dậy mang đi lấy cung.  Một hình thức có ít nhiều hiệu qủa, vì tù nhân kém minh mẫn trong giấc ngủ chập chờn.  Chưa biết những gì sẽ xẩy ra vào thời gian sắp tới. 
Anh muốn ngủ một giấc hầu lấy lại sức khỏe, vì hôm qua đã thức trắng đêm.  Nhưng nằm ngửa sợ đè vào còng, nằm xấp chẳng được bao lâu vì mùi nước cống xông lên.  Anh thử nằm nghiêng cũng không ổn, vì cả thân người đè lên lên một phần cánh tay, khiến cánh tay tê bại.  Anh cố uốn cong người lại, để mông có thể lọt qua vòng tay hầu đưa hai tay về phía trước, nhưng vẫn không xong, chiếc còng xiết nơi cổ tay quá chặt, vòng tay vì vậy nhỏ lại nên mông khó lọt qua.
Kim ngồi tựa vào tường, nghĩ tới cảnh tối qua khi đến bắt anh, chúng hùng hổ như muốn ăn tươi nuốt sống, canh chừng cẩn thận như sợ con mồi vuột chạy.  Bây giờ lại hững hờ thong thả, để anh thấp thỏm trong cảnh đợi chờ.  Anh suy nghĩ liên miên, ôn lại chuyện cũ.  Anh cần dựng câu chuyện cho lớp lang.  Ðiều gì cần khai mới khai, cần dấu là dấu, nhẩm tính thật kỹ, vì từ đây nó sẽ là lý lịch trước sau như một của anh.
Anh muốn ngủ nhưng đàn muỗi đói chẳng để yên.  Những nốt muỗi đốt đã nổi trên mặt da ngứa ngáy khó chịu.  Anh trăn trở nhiều lần, hết ngồi lại nằm....
Tiếng gà đã gáy sáng.  Tiếng vó ngựa, tiếng máy xe  dồn dập trở lại.  Ðêm qua đi thật nhanh.  Một ngày đã bắt đầu.
Ánh sáng bừng lên ngoài cửa sắt, len vào phòng sua bớt bóng tối.  Phân tán đàn muỗi với chiếc bụng căng phồng, nặng nề vỗ cánh.  Những con dán đã theo nhau nối đuôi nơi góc trần....

      &

Khác với ngày hôm qua, mới 8 giờ sáng ngày thứ hai sau khi anh tới đây, Kim đã nghe thấy tiếng chân người bước tới gần.  Anh tự hỏi không hiểu có gì xẩy ra đây.  Tiếng mở ổ khóa phía ngoài.  Cửa phòng mở, cán bộ võ trang nói vọng vào: 
-"Anh có 10 phút làm vệ-sinh cá nhân và sửa soạn đi làm việc."
Anh ngờ ngợ với danh từ "làm việc", nó khác lạ với thói quen của anh.  Anh vội vào buồng tắm, giòng nước mát giúp anh tỉnh táo, mới hai ngày không cạo râu mà đã cảm thấy ngứa ngáy khó chịu.  Anh vuốt những giọt nước bám trên người trước khi mặc lại những bộ quần áo đã lê lết mấy ngày chưa giặt. 
Anh được dẫn tới một căn phòng ở giữa dẫy nhà ngang,  gặp lại tên cán bộ đã đến bắt anh tại nhà.  Hắn tên Ba Cẩm như vừa xưng danh.  Bây giờ ban ngày anh mới nhìn rõ mặt hắn, đúng là một thứ con đẻ của cách mạng.  Thứ tự ghép vào tên không phải là thứ tự đầu con trong gia đình, mà mục đích chỉ giúp tên hắn không trơ trẽn, có vẻ hòa đồng với dân địa phương. Không rõ có phải tên cúng cơm, hay chỉ là thứ tên gọi cho ra vẻ hiền lành, như một bí số, một danh xưng thường dùng để ngụy trang trong thời gian nằm vùng, quấy phá khủng bố tại miền Nam. 
Nhưng không hiểu sao, nghe tên hắn anh vẫn không thấy âm hưởng dịu dàng, giản dị, thân thiết của người miền Nam mà Kim thường nghe mỗi lần đi công tác tại các tỉnh Hậu giang.  Còn hình dung hắn thật đặc biệt, khuôn mặt không ra chữ điền, nó giống như một hình thang kéo dài xuống, xương hàm bạnh ra qúa lớn.  Da xám mét, mầu sắc cố hữu sau một thời gian nằm dưới hầm sâu, hay tại các tụ điểm trong rừng núi đợi thời cơ phá hoại đời sống an bình của nhân dân miền Nam.  Hàm râu quai nón chưa cạo sạch còn lởm chởm, đôi mắt nhỏ ẩn dưới hốc mắt sâu khiến khuôn mặt hắn không cân xứng, chỉ lộ nét gian ác thủ đoạn. 
Hắn qủa không chọn lầm nghề, hay đó chỉ là sản phẩm của chính-sách "trăm năm trồng người".  Hắn dang rộng đôi tay như ôm lấy chiếc bàn.  Bộ quần áo dân sự hồ ủi thẳng tắp vẫn không làm bớt đi phần nào vẻ thô kệch nặng nề còn nặng tính giai cấp.  Khẩu súng lục để trên bàn trong tầm tay với, tập hồ sơ cá nhân của Kim để trước mặt đã mở sẵn trang đầu.
Hắn hất hàm bảo anh ngồi trên chiếc ghế đẩu cao, không có lưng tựa và gỗ kê chân.  Hai chân anh buông thõng không chấm đất, khiến thế ngồi không vững vàng.  Nét mặt hắn hầm hầm như muốn ăn tươi nuốt sống người đối diện, khác hẳn vẻ mặt dịu dàng của hai ngày trước đây.  Có lẽ hắn có ý định làm anh khiếp sợ để thuận lợi khi lấy cung.  Gương mặt hắn thay đổi, lúc đỏ ửng căng phồng, khi xám xịt co dúm khó coi, càng để lộ nét bất nhân đanh ác.
Hắn gằn giọng mở đầu câu hỏi liên quan đến hoạt động của anh trước tháng 4 năm 75.  Rồi bất chợt chuyển câu hỏi về hoạt động chống đối Nhà Nước và hình thành tổ chức này ra sao.
Anh trả lời hắn y như lời khai trong bản lý lịch anh đã khai tại phường khóm về hoạt động của anh trước ngày 30/4, và không khai một lời nào về hoạt động chống cộng-sản sau ngày miền Nam bị xâm chiếm.
Sau mấy giờ hỏi cung kết qủa không được như ý muốn, hắn nổi cáu dơ tay đập mạnh xuống bàn miệng hét "đồ ngoan cố".  Hắn đứng bật dậy như không dằn được cơn tức giận làm mặt hắn tím ngắt, hắn quay lại bảo nhỏ tên cán bộ võ trang đứng phía sau. 
Anh thấy tên cán bộ võ trang đổi sắc mặt như lây sự tức giận của Ba Cẩm.  Hắn còn quá trẻ để có chỗ đứng tốt trong guồng máy bạo quyền, hay chỉ là một thứ tiểu anh hùng vùng lên vào ngày miền Nam xụp đổ.  Hắn đã được hướng dẫn học tập, nhồi sọ tư-tưởng xã-hội mới, hầu theo kịp bước chân của các bậc đàn anh.
Khi choàng chiếc còng thép vào cổ tay Kim, hắn xiết mạnh như muốn trút hết cơn tức giận đang tràn ngập trong lòng.  Anh dướn người lên như một phản ứng tự nhiên, khi làn thép lạnh ôm chặt hai cổ tay làm anh đau nhói.  Ðã quá giờ cơm trưa, không thấy chén cơm để trên lối đi trước cửa phòng như mọi lần.  Anh bị đẩy vào phòng, cánh cửa sắt đóng mạnh phía sau lưng.
Kim ngồi tựa vào tường, duỗi thẳng hai chân mỏi nhừ sau bốn năm giờ ngồi trên ghế đẩu không gỗ kê chân và chỗ tựa lưng.  Những đốt xương sống như rời ra từng khúc làm lưng anh muốn xụm xuống.  Anh cảm thấy đói, vì những hạt cơm ăn chiều hôm qua chắc đã biến mất từ nửa đêm.  Hai tay đã nặng hơn, máu chuyển mạnh chỗ còng sắt xiết vào, như trái tim đang đập nơi cổ tay đau xót.  Anh nắm bàn tay, các ngón đã căng phồng, như máu đã ngưng lại.  Anh có cảm giác đau tức ở đầu ngón tay, giống như khi quấn sợi giây thung vào đầu ngón tay lúc còn nhỏ.  Anh vội nằm xấp xuống vạc gỗ, hy vọng với thế nằm này, hai tay ở sau lưng được dơ cao sẽ giúp cho máu dễ luân chuyển và ít đọng nơi bàn tay.  Nhưng vô ích, cảm giác nhức nhối vẫn còn, tay càng sưng vòng thép càng chặt hơn.  Anh mong mỏi tới bữa cơm chiều, không phải vì không có bữa ăn trưa khiến anh đói bụng, mà muốn được tháo chiếc còng dù chỉ trong mười phút ngắn ngủi.  Ðể bàn tay anh được dễ chịu, vì mỗi lần máu dồn xuống như có nhiều mũi kim, hàm kiến đâm chích các đầu ngón tay.
Bữa cơm chiều vẫn chỉ là 10 phút.  Khi còng tay, anh bảo hắn:
-"Cán bộ còng nới một chút, vì chặt qúa tôi không cử động được."
Nghe anh nói hắn hừ một tiếng, nét mặt đanh lại, lạnh tanh trên khuôn mặt còn búng ra sữa:
-"Nếu thế thì sao còn gọi là kỷ luật." và bóp vòng còng chặt hơn.
Cửa phòng đóng lại, anh bước vào bóng tối.  Trong phòng giờ này nóng như lửa đốt.  Sức nóng làm anh chóng mặt nhức đầu, vào phòng không được mấy phút người đã  ướt đầm mồ hôi.
Hành lang yên lặng, không còn nghe thấy tiếng nói của đám cán bộ phía ngoài sân, ngoại trừ tiếng sáo miệng của tên cán bộ võ trang nơi vọng gác đầu nhà.
Anh nhớ đến gia-đình, không hiểu giờ này cha mẹ, hai đứa em gái và vợ con anh ra sao.  Chắc vợ anh buồn lắm.  Anh nhớ mãi nét mặt ướt sũng nước mắt, hai mắt đỏ hoe như đang lên cơn sốt của nàng.  Anh nhìn thấy lòng yêu thương xót xa và niềm thất vọng nơi mắt nàng.  Nàng như đoán trước được tai ương, hay vì hình ảnh, những chuyện kể về hành động tàn ác trong xã hội cộng-sản trước năm 75, đã rõ nét sau ngày miền Nam bị xâm chiếm.  Những hành động thù hận, bắt bớ xẩy ra như cơm bữa đã ám ảnh nàng.
Nhiều đêm nàng khuyên anh phải cẩn thận.  Những tối anh đi gặp bạn về khuya nàng vẫn chờ cửa, như khó chợp mắt khi anh chưa về, như thấp thỏm lo âu trong giây phút anh vắng nhà.  Nàng đã khóc thật nhiều và có lần bảo anh: “…nếu anh gặp chuyện không may, thì mẹ con em bơ vơ. ở vào giai đoạn giao thời trong một xã-hội đang sàng lọc trả đũa hận thù, mặc dù thù hận đó do họ gây ra, anh làm sao tránh khỏi …"
Anh nhìn thấy hiểm nguy luôn đe dọa, nhưng không hiểu sao vẫn hăng say, có phải vì lòng yêu mảnh quê hương mà anh đã sống những ngày hạnh phúc, một tổ ấm mà mọi người miền Nam tận tình bảo vệ, hay đã một lần thoát khỏi nanh vuốt cộng-sản miền Bắc năm 1954.  Tựu trung vẫn chỉ là nghiệp dĩ, số kiếp đã lạc vào chốn ba đào sóng gió.  Phận anh ở đây kể như đã xong, nhưng đem đến cho gia-đình những đau thương lo lắng.
Cách đây hơn tháng anh nhắc chừng Trần Thế Nghiệp, bảo hắn hãy lưu tâm, tình hình an ninh không mấy thuận lợi.  Ấy thế, người gặp chuyện không thuận lợi lại chính là anh.  Dù chẳng mấy tin vào tướng số may rủi, nhất là ở vào giai đoạn đảo lộn này.  Nhưng tại quốc gia này, ở vào thời điểm quá phức tạp mà chiến tranh và sự bất ổn đe dọa đời sống  người miền Nam, người ta vẫn chờ đợi một phép lạ dun dủi, dựng lại những gì vừa thay đổi, vì sự thay đổi không hợp với ý người.
Khi lại thăm bác Ðạt, cụ nhắc chừng: "anh sẽ gặp cảnh không may, khó tránh khỏi vòng tù tội".  Kim đã bụng bảo dạ, sống trong xã-hội cộng-sản có gì bảo đảm cho tự-do, an toàn cá nhân.  Quyền sinh sát nằm trong tay Nhà Nước, huống hồ anh đã nhúng tay, đi đêm hẳn có ngày gặp ma.  Và bây giờ cái đến đã đến.
Bên ngoài trời đã tối hẳn, không còn một chút ánh sáng lờ mờ chiếu qua khe lá sách dưới chân cửa sắt.  Anh chìm trong bóng tối, bước vào thế giới của kẻ què người chột.  Hơi nóng trong phòng đã dịu bớt, chỉ còn vài giờ nữa anh lại đón nhận cái lạnh se da.
Kim tựa lưng vào tường cố dỗ giấc ngủ.  Không rõ anh thiếp đi bao lâu, nhưng chợt choàng thức giấc khi vai phải đổ xuống vạc gỗ nằm, người đè lên chiếc còng tay khiến nó xiết chặt thêm.  Anh nhịn đau, một lần nữa cố gắng cong người, đẩy mông qua vòng tay nhưng vẫn không lọt.  Còng xiết chặt quá, như lún sâu xuống rãnh thịt, đã thấy hơi xót nơi cổ tay chỗ chiếc còng xiết vào. Anh xoay cổ tay nhưng chiếc còng bất động, các ngón tay căng phồng, ngón cái và út đã dại đi, mất dần cảm giác.  Có lẽ những cố gắng vừa rồi đã làm hai cổ tay trầy da rớm máu.  Anh ngồi dựa tường đợi sáng…
Nhiều ngày liên tiếp anh tiếp tục “làm việc” với Ba Cẩm.  Vẫn đi từ sáng và trở về phòng trước bữa cơm chiều.  Hắn dùng mọi thủ đoạn để lấy lời khai, anh vẫn ầm ừ chịu đựng.  Hắn quá tức giận, không hài lòng về lời khai của anh, và như muốn chứng tỏ cho anh thấy rằng sự kiên gan của anh khó chống lại hình phạt kỷ luật.  Hắn bảo nhỏ tên cán bộ võ trang và cho anh về phòng.
Khi cửa phòng đóng lại, Kim ngạc nhiên thấy anh không bị còng, anh nghĩ sắp tới bữa ăn chiều nên hắn cho anh thong thả.  Hai tay rảnh rang, anh thu dọn lại chỗ nằm.  Chiếc chiếu rách nhiều mảnh chỉ đủ che kín chỗ đặt lưng, dưới vạc gỗ là miệng cống nước lấp xấp mặt nền.  Không hiểu đường nước chảy qua những đâu mà khi tới đây   mầu nước đen thui.  Không có gì để quét sạch hay che miệng cống cho bớt mùi hôi.  Hai bàn tay anh đã sưng tím, các ngón căng phồng, ngón út cử động đã thấy ngượng.  Vết thương nơi cổ tay sẽ trầm trọng hơn nếu còn còng theo cách này.
Sau bữa cơm chiều, tên cán bộ võ trang đẩy anh vào phòng.  Ðôi tay anh làm thủ tục như mọi ngày, khi hắn bóp vòng sắt anh phải nghiến răng chịu đau.  Hắn bảo anh ngồi xuống vạc gỗ, lấy thêm chiếc còng thứ hai xích nốt hai chân.  Mọi ngày trong phòng tối anh chỉ là kẻ mù người cụt, hôm nay anh có món ăn chơi, thêm chữ què cho đủ bộ.  Vẫn cùng một kiểu như còng tay, hai vòng sắt mạ kền sáng loáng dính liền bằng sợi giây xích nhỏ ngắn. 
Kim quay mặt ra phía cửa sắt, ánh sáng chiếu qua khe lá sách khiến anh nhìn rõ chiếc còng chân, trên thân còng khắc sâu dòng chữ chỉ nơi sản xuất tại Hoa-kỳ.  Anh tức cười, đúng là mình được hưởng sản phẩm của phe ta. 
Khi chỉ có còng tay, anh thường đếm bước trên phần đất ngoài vạc gỗ hầu giúp cho cơ bắp hoạt động, hai chân không bị tê bại.  Bây giờ thêm chiếc xích chân, anh không có cơ-hội đi lại trong phòng như trước, nhưng cố nhích từng bước dù khoảng cách mỗi lần chỉ bằng nửa bàn chân.  Anh vẫn muốn cho cơ thể hoạt động để đầu óc được tỉnh táo.
Trong tuần lễ đầu lấy cung, anh đã nếm trải mấy món ăn chơi.  Từ còng tay ra sau, nới lỏng hay xiết chặt đều do cảm hứng của người cai ngục, vào lúc nhân hòa hay tức giận.  Ðược ít ngày có thêm chiếc xích chân vì ghi nhận là ngoan cố, không thành thật khai báo với cách mạng.  Anh có cảm tưởng mình như con lợn bị trói bốn chân, chỉ cần xâu chiếc đòn tre là khênh đi thọc huyết.
Sau một thời gian, hỏi mãi không có kết qủa như mong muốn, chúng cho anh đổi món, anh nếm kiểu còng số 8.  Tay phải vắt qua vai xích với tay trái từ dưới đưa lên phía sau lưng. Kiểu xích này thật tàn nhẫn, hai vai đau nhức vì tay trái phía dưới có chiều hướng kéo tay trên xuống.  Lồng ngực căng dãn, người luôn luôn phải ngồi thẳng khiến xương sống đau buốt.  Hai tay phải ở vị thế bất động, vì nếu hơi cúi xuống khoảng cách hai tay dài ra, vòng xích sẽ xiết vào cổ tay đang sưng mọng.
Anh không thể để hai tay kéo co, sự cố gắng ở vị thế khác thường này làm anh đau điếng.  Cái đau mới mẻ đang lan nhanh khắp cơ thể, đau nhói trái tim, nhức nhối xương vai, xương sống mỏi nhừ làm anh quên vết thương nơi cổ tay đang tấy sưng.  Hai cánh tay co lên kéo xuống khiến chiếc còng làm vết thương trầy da rỉ máu. 
Sự đau đớn len lỏi vào từng thớ thịt, khích động ý chí vượt thoát.  Lồng ngực như sôi sục rách vỡ, thúc đẩy lòng căm hờn, như con thú bị thương muốn lao người tới phá vỡ bức tường trước mặt. 
Lúc này anh mới cảm thông với Phan, nhận thức được điều mà Phan phải chịu đựng vì tập thể.  Phan chết sau một trận đòn ác liệt, bầm dập thân thể, rồi bị treo lên với kiểu còng này.  Thật tội nghiệp, anh có nhiều kỷ niệm với bạn trong những lần công tác tại các tỉnh miền Tây trước ngày miền Nam bị chiếm đoạt.  Anh mới gặp bạn cách đây không lâu.  Phan hăng say trong hoạt động chống cộng, dù nguy hiểm luôn luôn đe doạ mạng sống.  Phan thường bảo các bạn là anh không thể sống chung với chế độ cộng sản, và sẽ chống đến hơi thở cuối cùng.   
Ba Cẩm như không kiềm chế được sự tức giận khi thấy anh không "thành thật khai báo", hắn thẩy tập cung ghi lời khai cuả một sinh viên trước mặt anh.  Nhìn bản ghi anh biết đã đến lúc phải đối diện với sự thật.  Anh biết  nhóm nào bị vỡ.
Ba Cẩm gằn giọng:
-"Anh giữ địa vị nào trong tổ chức sinh-viên chống cách mạng?"
-"Tôi là người tổ chức các nhóm sinh-viên."
Mặt hắn vẫn hầm hầm tức giận, nhưng đôi mắt vụt lóe sáng khi nghe lời khai của anh.  Hắn hỏi tiếp:
-"Ai là người cầm đầu các anh?"
-"Tôi là người tổ-chức nên không có ai cầm đầu."
-"Anh phải khai rõ đã liên hệ với các lực lượng chống phá cách mạng nào?"
-"Tôi không liên hệ với lực lượng nào ngoài các sinh viên đã bị các anh bắt giữ."
-"Các anh thuộc lực lượng Phục quốc?"
-"Dù lực lượng Phục quốc hay người Việt Tự do cũng chỉ là người Việt Quốc gia với tư tưởng dân tộc tự do." 
 Hắn vẫn chưa hài lòng câu anh trả lời, nên hỏi đi hỏi lại nhiều lần, rồi bất chợt hắn nói:
-"Nước nhà đã độc lập thống nhất tại sao các anh lại tổ-chức lực lượng sinh-viên chống lại cách mạng và nhân dân?"
Câu cần hỏi hắn đã hỏi và buộc anh phải trả lời:
-"Không nói các anh cũng đã biết là người miền Nam không chấp nhận chế độ cộng sản..."
Anh nhìn thấy gương mặt hắn tức giận đến cực độ, bất chợt hắn nhoài người tới trong khi anh mắc kẹt trên ghế đẩu cao...
Anh đã nhận là người cầm đầu, không có ai trên anh và chẳng có ai là bạn đồng hành.  Ðường giây đã đến nút thắt, và anh là nút chặn cuối cùng... 

&

Kim bước qua khung cửa căn phòng thường lên lấy cung, nhìn thấy hắn, vẫn Hai Vân, một công an trong lực lượng công an Hà-nội vào tăng cường.  Vẫn chưa chịu buông tha anh, hắn chỉ anh ngồi ghế đối diện, lại chiếc ghế đẩu cao không có lưng tựa và gỗ kê chân.  Hắn vào đề ngay:
-"Anh có quen một người tên Jean?"
Sau câu hỏi, hắn đánh vần cái tên ngoại quốc này bằng một âm thanh quê kệch.  Hắn đưa ra một cái tên thật đơn giản, không có lời phụ họa đó là tên một người ngoại quốc, hay là người miền Nam mang thêm một tên gọi.  Hắn nhìn anh đăm đăm soi mói, mong bắt gặp một ánh mắt, một cử chỉ khác lạ mà từ đó phăng ra manh mối.  Anh làm ra vẻ suy nghĩ và trả lời:
-"Tôi không quen và chưa nghe thấy tên này."
Hắn dường như không hài lòng về câu trả lời ngắn gọn với vẻ mặt tỉnh bơ của anh, lại hỏi tiếp về hoạt động của anh trước ngày 30 tháng 4.  Hắn hỏi đi hỏi lại mặc dầu anh đã trả lời nhiều lần.
Bất chợt có tiếng ho ngoài cửa ra vào, hắn nhổm đứng dậy đi ra ngoài.  Kim nhìn theo, anh nhận ra người ngoài cửa, một nhân chứng nguy hiểm.  Anh tự hỏi tại sao hắn có mặt ở đây trong khung cảnh này.  Dáng người của hắn đã thay đổi, bộ quần áo bốn túi ngắn tay mầu xanh ủi thẳng nếp, vẫn mái tóc cắt cao, khi nói để lộ hàm răng vàng sáng chói.  Hắn đang múa tay trước mặt Hai Vân như một người có chút địa vị tại địa phương.  Không hiểu hắn thuộc thành phần nào, nằm vùng hay chỉ là một thứ cách mạng 30 (30/4), mong tìm một chỗ đứng trong xã-hội mới. 
Dù sao đối với anh trong lúc này vẫn bất lợi.  Anh ôn lại những ngày gặp hắn, đã đối xử với hắn thật tử tế, thân thiết.  Nhưng bây giờ hoàn cảnh đổi thay, con người hắn đã thay đổi.  Hắn nói chuyện với Hai Vân thật lâu, lúc to khi nhỏ, nét mặt đôi lúc thật nghiêm trọng.     
     Hai Vân trở vào bàn, như có thêm dữ kiện, hắn vẫn quay quanh vấn-đề về sự liên-hệ của anh với người ngoại quốc.  Anh giữ nguyên câu đã trả lời.  Ðột nhiên hắn hỏi:
-"Anh làm chức vụ gì trong tổ-chức công nhân thuộc Tổng Công đoàn Tự-do?"
Một câu hỏi đẩy anh vào lối rẽ, nhưng anh muốn biết hắn được nghe nhũng gì, nên trả lời:
-"Không, tôi không có chân trong tổ-chức này vì tôi không phải là công nhân, hơn nữa là công chức tôi không được phép tham gia nghiệp đoàn."
-"Có người nhận ra anh thường xuyên liên lạc với tổ chức này qua nhiều trường hợp, nhất là liên-lạc mật thiết với tên Tổng Thư ký."
-"Tôi thỉnh thoảng có tới văn-phòng Tổng thư ký, vì hai gia-đình chúng tôi là chỗ thân tình."
-"Anh và Tổng Công đoàn đã có hành động chống lại nhà nước, anh khai rõ hoạt động của anh với tên Tổng Thư ký."
Sự việc phức tạp đã đến, chắc Hai Vân vừa được mớm lời.  Hơn ai hết, người mặc quần áo xanh, mọi người trong công đoàn thường gọi là anh Tư, là người giúp việc trong văn-phòng Tổng thư ký, nên biết rõ sự hiện diện và liên hệ của anh với Tổng Công đoàn.
Vào đầu năm 1974, hải quân Trung cộng tấn công và chiếm cứ quần đảo Hoàng Sa khiến nhân dân miền Nam rất căm phẫn hành động xâm lăng của Trung cộng.  Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã ra tuyên cáo về chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngoài khơi bờ biển Việt Nam, mà theo sử liệu các quần đảo này đã được giám sát từ thế kỷ 15 dưới triều đại nhà Lê.  Còn về phương diện địa dư, các quần đảo này đều ở gần bờ biển Việt-nam hơn các nước khác.
Trước sự tấn công của Hải quân Trung cộng, Lực lượng Hải quân của Việt nam Cộng hòa đã chiến đấu anh dũng để bảo vệ phần đất quê hương.  Chiến hạm Nhật tảo và một vài hải thuyền đã bị hư hại, gây thương vong cho một số quân nhân miền Nam.
Tình hình trận chiến sôi động.  Các đoàn thểchính trị và nhân dân miền Nam đã đồng loạt biểu tình, đưa ra lời phản đối hành động xâm lấn chủ quyền của Trung cộng với cộng đồng quốc tế, nhưng về phía chính quyền cộng sản Hà-nội đã không có một tiếng nói nào về hành động xâm lấn này.
Anh Bùi Lượng bảo Kim:
-"Chính quyền cộng sản Hà-nội đã có hành động bán nước mà lịch sử dân tộc sẽ phê phán, chúng ta phải có tiếng nói trước hành động xâm lăng lãnh hải Việt nam của Trung cộng… "
Thực ra chính quyền cộng sản Hà-nội rất khó mở lời trước hành động xâm lăng của Trung cộng, vì vào năm 1958 Thủ tướng cộng sản bắc Việt Phạm-văn-Ðồng đã gửi cho chính phủ Trung cộng một công hàm ghi nhận và tán thành hải phận 12 hải lý như Trung cộng đưa ra.  Với công hàm này, nhà cầm quyền cộng sản Hà-nội đã triệt để tuân theo ý muốn của Trung cộng và chối bỏ chủ quyền quốc gia tại quần đảo Hoàng sa và Trường sa.
Ngay khi xẩy ra vụ xâm chiếm quần đảo Hoàng sa của Trung cộng, anh Bùi Lượng nhân danh Tổng công đoàn Tự do đã đưa ra một bạch thư gửi tới các tòa đại sứ tại Sài-gòn, với lời nhắn nhủ các nhà lãnh đạo Hà-nội, "nếu nhận giải đất Hoàng sa là phần đất của quê hương Việt nam, hãy tỏ thái độ với nước ‘Trung hoa cộng sản anh em' đang mạnh tay xâm chiếm".  Kim đã góp phần hoàn thành bức thư này, và anh Tư là người chuyển thư tới các toà Đại sứ tại Sài Gòn.
Nhớ lại chuyện cũ lòng Kim thật tê tái.  Anh tự hỏi, với hành động nhượng đất này chính quyền cộng sản Hà-nội đã đạt được mục đích gì, hay chỉ vì muốn có phương tiện hầu chiếm đoạt miền Nam, mà không ngần ngại nhượng đất cho ngoại bang.
Sau khi chiếm được miền Nam, ông Phạm-văn-Ðồng đã đưa ra lời giải thích về "Công hàm ủng hộ chủ quyền của Trung cộng về quần đảo Hoàng sa và Trường sa", là vì cần nhắm mục đích "chống lại đế quốc Hoa-kỳ", một lời giải thích cho có, vì vào năm 1958 chưa có sự hiện diện của người Mỹ tại miền Nam và Hải đảo Hoàng Sa – Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam Cộng Hoà.  Nhưng thực tế chứng tỏ cộng sản Hà Nội đã gây chiến tại miền Nam chỉ vì nghĩa vụ đối với Quốc tế cộng sản.
Dù lời giải thích dưới hình thức nào cho hành động nhượng đất này của chính quyền cộng sản miền Bắc, đã chứng tỏ bản chất biện minh "phương tiện với cứu cánh".  Và dưới bất cứ hoàn cảnh nào cũng đã gây cho người dân hai miền, dù Bắc hay Nam Việt Nam, đau lòng khi nhìn thấy phần đất quê hương lọt vào tay ngoại bang.  
 Kim nhìn Hai Vân, câu hỏi của hắn thật mập mờ, không có nét chính xác của nhân chứng.  Anh trả lời nước đôi:
-"Tôi không thấy Tổng Công Ðoàn có hành động nào chống lại nhà nước.  Theo tôi, Tổng Công Ðoàn đã giúp công nhân làm chủ tài-sản của mình, có làm có hưởng, và đó không phải là hành động chống Cộng sản."
Hắn chưa hài lòng với câu trả lời của anh nên đặt lại câu hỏi:
-"Anh cho biết anh có liên-hệ thế nào với Tổng Công đoàn?"
Không hiểu khi bước chân vào Nam, hắn có nắm vững tình hình kinh-tế của dân chúng, nhất là giới công nhân.  Hắn có biết tiền kiếm được hàng tháng của người công nhân nhiều hơn lương công chức như anh gấp hai, ba lần không.  Chắc hắn lầm tưởng người công nhân miền Nam đã sống khổ cực như người công nhân miền Bắc.
-"Với Tổng Công đoàn tôi không có liên hệ gì?"
Hắn chợt gằn giọng:
-"Tôi muốn anh trả lời rõ rệt là anh có liên hệ với Tổng Công Ðoàn Tự Do trong hoạt động chính-trị nào?"
Anh nhớ trước ngày bầu cử Tổng thống, hai ông Thiệu Kỳ tách rời thành hai liên danh.  Ông Thiệu được bên Tổng Liên Đoàn Lao Công (Nhà Kính) của ông Trần Quốc Bửu hỗ trợ.  Anh Bùi Lượng bảo Kim: "Thiệu đi bên Nhà Kính, nhân ngày lễ Lao động Tổng Công Đoàn Tự Do tổ chức kỷ niệm, ta giúp Kỳ một tay, Kỳ sẽ tới dự buổi hội.  Chú hãy lo việc tổ chức buổi hội và tiếp tân ..."  Phút chót ông Kỳ không tới, chỉ có Tướng Loan đại diện ông Kỳ đến trao thư. 
Người miền Nam vẫn tự hào có một nền dân-chủ tự-do, nhưng tiếc thay sau này, vì quyền lợi ông Thiệu đã tìm mọi cách loại đối thủ, biến cuộc bầu cử tự-do thành độc diễn, làm mất ý nghĩa tự-do dân chủ vẫn được coi là ưu điểm của miền Nam, và là lợi khí tuyên-truyền của cộng sản Hà-nội.   
-"Như đã trả lời anh, tôi không có chân trong tổ chức công nhân thuộc Tổng Công Đoàn, và vì vậy không thể tham gia hoạt động của Tổng Công đoàn."
-"Anh gặp gỡ những người ngoại quốc tới Tổng Công đoàn như thế nào?"
-"Tôi không phải là thành viên của Tổng Công đoàn, nên không được dự phần trong sinh hoạt nội bộ của Tổng Công đoàn."
Mặt hắn cau lại sau câu trả lời, anh thấy hắn nổi giận nên sửa soạn tinh thần để chịu đựng những gì xẩy ra.  Nhưng không hiểu sao, vì lý do nào hắn không cho anh nếm mùi đau khổ như những lần lấy cung trước đây, khi anh không làm vừa lòng chúng.
Hai Vân chợt đứng dậy, cầm tập hồ sơ của anh đi ra khỏi phòng.  Còn lại một mình, anh biết chúng chưa chịu buông tha khi câu trả lời của anh chưa đáp ứng những điều chúng mong muốn.  Chúng vẫn giăng bẫy đẩy anh bước vào, hầu vây bắt những người có liên-hệ.  Chúng bảo anh là tay sai cho CIA, đúng là cái lối cộng sản thường dùng, gán ghép cho người Quốc gia nhãn hiệu gián điệp, một thứ làm chúng vừa sợ vừa căm thù.
Kim nhớ tới anh Bùi Lượng, không hiểu giờ này ra sao.  Anh là người đã dành tâm huyết của tuổi trẻ như những thanh niên cùng thời, gia nhập phong trào chống thực dân đô hộ từ hồi đầu cách mạng, với lý tưởng góp công sức vào công cuộc đưa dân tộc thoát ách nô lệ.  Anh đã theo "Bác", và đã xa "Bác" khi thấy con đường "Bác" đi không phải là con đường mà dân tộc này hướng tới.  Anh trở về thành, nổi lên lực lượng chống cộng.  Anh đứng chung với những công nhân cùng khổ, thành phần mà "Bác" từng lợi dụng biến họ thành những công cụ có lợi cho mục đích của "Bác".
Miền Bắc mất, anh di cư vào Nam cùng những người không thể sống chung với chế-độ Cộng-sản. Anh tiếp tục con đường chống Cộng.  Nhưng trời chẳng chiều người, bắt con người phải vượt qua thử thách, nếm trải đau thương trước khi hưởng một nền hòa-bình hạnh-phúc toàn vẹn.
Sau hiệp định Ba-Lê ký kết năm 1973, anh Lượng đã chua sót nói với Kim :"Ðến nước này chúng ta bị phải chấp nhận cảnh chung cư hoà bình, chủ nhà ở buồng trong kẻ thù ở căn ngoài".  Anh Lượng càng dốc tâm thực hiện các chương trình gây lợi ích cho tập thể công-nhân, giúp họ trở thành chủ nhân những chiếc xe Lam, xe Bus mặc dù không có sự trợ giúp của chính quyền.
Quân đội Hoa-Kỳ và lực lượng Ðồng minh đã rút ra khỏi miền Nam, sự yểm trợ về nhu cầu quân-sự kém hẳn đi trong khi Trung-Hoa và Nga Xô ồ ạt tăng viện cho cộng-sản Hà Nội, hầu miền Bắc có phương tiện tiến chiếm miền Nam.   Ông Thiệu trao quyền cho ông Hương để nhẹ gánh ra đi.  Mặt trận miền Nam càng khốc liệt, và một lần nữa chức vụ Tổng thống lại chuyển tay từ ông Hương sang ông Minh với hy vọng ông Minh là người hòa giải được với cộng-sản miền Bắc.  Khi đó anh Lượng đã bảo Kim :"Qủa thực họ làm một công việc vô ích, cộng-sản đời nào chịu mất miếng mồi ngon khi đã kề bên miệng, nhất là khi chúng ta không còn là lực lượng ngang tay..." 
Anh Lượng chấp nhận ở lại mặc dù có nhiều cơ-hội vượt thoát ra ngoài, như nhiều người đã bỏ miền Nam.  Anh quyết-định ở lại vì muốn nhìn thấy một cuộc đổi đời.  Khi bức màn sắt vén lên, người dân hai miền sẽ nhìn thấy bộ mặt thật của chế-độ Cộng-sản, như anh đã từng phát hiện nhiều năm về trước.  Sau ngày miền Nam bị chiếm, anh bị chúng bắt mang đi biệt tăm.
Hai Vân trở lại, hắn liệng tập hồ-sơ cá nhân của anh xuống bàn trước khi ngồi.  Hắn lật từng trang, đến trang cuối cùng anh nhìn thấy bên lề trang giấy có ghi chữ CIA, nét chữ in tô đậm bằng mầu chì đỏ.
Hắn đặt nhiều câu hỏi, vẫn chỉ xoay quanh những hoạt động của anh trước ngày miền Nam bị mất.  Lời hắn hỏi lúc dồn dập như không che dấu được sự tức giận.  Có khi lại khoan hoà hời hợt, đôi mắt lim dim như chẳng chú ý tới lời khai.  Chắc hắn muốn anh rối trí khi đặt câu hỏi dồn dập gay gắt, hoặc lơ là ở lúc khoan thai, sẽ để lộ dấu vết, hầu hắn nắm gọn và gán cho anh thêm tội làm gián điệp.
Thời gian trôi qua thật mau, anh đã gạch dấu trên tường từ ngày rồi đến tháng.  Sau đó anh bỏ quên vì biết mình không cần phải nhớ.  Anh đã cầm cự với nhiều cán bộ từ Quận đến Thành, đã nhẵn mặt bọn họ, từ Ba Cẩm, Hai Tỷ, Ba Kỳ đến Hai Vân...Trong đó có tên gốc miền Nam đến những tên trong lực lượng công-an Thành phố Hà-nội đưa vào tăng cường, hầu trấn áp các cuộc nổi dậy của người miền Nam.
Anh đã trải qua một thời gian khó quên, nó theo anh cả trong giấc ngủ.  Nhớ mãi những cảm giác lạ.  Anh có cảm giác cái đau như đang gậm nhấm cơ thể, nằm ngồi không yên, chén cơm ăn đã không thấy ngon miệng dù bụng thật đói, chỉ thèm những hớp nước mát làm dịu cơn nóng đang đốt cháy tâm can.  Chúng muốn bắt hết tóm trọn, đạp đổ những trở ngại trên con đường thực hiện mộng bá quyền.
Trở về căn phòng tối, chiếc còng tay cái xích chân vẫn theo anh như hình với bóng.  Anh phải chịu đựng cho đúng cương vị là mấu chốt cuối cùng, để bạn hữu tiếp tục con đường về phần anh đã bỏ dở.       

&

Bẵng đi mấy ngày không thấy chúng gọi đi lấy cung, Anh tự hỏi những gì sẽ xẩy ra vào thời gian sắp tới đây.  Anh chờ đợi đã cả tuần, rồi một buổi sáng, được bỏ chiếc xích chân.  Ðôi chân anh yếu đi nhiều vì lâu ngày ít hoạt động đi lại. 
Anh sống trong căn phòng này đã nhiều tháng, phải chịu đựng qua những lần lấy cung, sức khỏe kiệt quệ dần.  Vào một buổi sáng, anh không còn nhớ vào ngày thứ mấy trong tuần, cửa phòng bật mở, khác với giờ giấc thường lệ.   
  Anh yên lặng ngồi nhìn, chờ đợi những gì xẩy đến cho mình.  Chắc chúng ghi nhận anh vẫn ngoan cố, không thành thật khai báo.  Anh sẽ được hưởng những món ăn mới, chọn lựa kỹ càng cầu kỳ hơn.  Những món kỷ luật, những thứ anh trải qua chưa phải đã tột cùng.  Sau khi lấy cung, chưa lần nào anh phải bò ra khỏi cửa như có người ở đây đã trải qua.  Ðối với anh, hẳn còn nhiều thứ mới lạ sẽ tới.  Tên cán bộ võ trang gọi anh ra ngoài, chính hắn cũng không muốn bước vào nơi mà điều kiện sống không phải dành cho con người.
Hắn tháo chiếc còng tay, anh có cảm tưởng vừa trút bỏ một gánh nặng trên vai.  Theo thói quen, anh vươn vai, căng hai tay kéo dãn lồng ngực, hít thở hơi dài như muốn trút hết hơi nóng, không khí dơ bẩn đang chứa trong buồng phổi.  Anh không đợi hắn nói, chạy vội vào phòng tắm, anh phải xả hết phần nước thừa trong cơ thể mà mỗi lúc một gia tăng.  Kim chạy qua vòi nước tắm, trút bộ quần áo mặc trên người đã nhiều tháng chưa giặt.  Anh có cảm tưởng bộ quần áo dầy hơn, nặng hơn vào ngày đầu mới mặc.  Nó đã thấm nhiều mồ hôi trộn lẫn với đất bẩn khi anh lê lết trên nền đất.  Chiếc áo đã nặng mùi nhưng anh không phân biệt được đó là mùi mồ hôi, hay đã ướp đậm mùi nước cống dưới sàn nằm.  Dù chỉ là lần vải mỏng, nhưng đối với anh nó là tấm áo giáp, che chở cho anh phần nào cái nóng rát trên cơ thễ, và đã thấm bớt phần máu rỉ ra từ vết thương nơi còng xích xiết vào.  Dù đã sống với nó thật lâu nhưng anh vẫn không muốn đo độ nồng bằng hai lỗ mũi.
 Nước chẩy từ vòi tắm trùm kín mái tóc, phủ dài xuống thân thể, gột bớt lớp mồ hôi còn bám trên mặt da.  Anh bước ra khỏi phòng tắm, vuốt những giọt nước bám trên người.  Mặc lại bộ quần áo bẩn.  Anh cẩn thận lấy vạt áo thấm nhẹ hai cổ tay mà vòng còng còn in lại dấu vết đỏ au sưng tấy, còn loang máu vì chưa kịp khô mặt.  Cảm giác xon xót nơi mặt da đang sưng, nhiều chỗ vỡ mặt đã rỉ nước vàng.
Tên cán bộ võ trang bảo anh đi theo, hắn không dẫn anh tới căn phòng lấy cung đầy ắp tiếng kêu thét nguyền rủa như mọi lần.  Anh theo hắn rẽ về phía bên phải tới phòng giam tập thể.  Một căn nhà vách mái lợp tôn , ngoài phủ một lớp kẽm gai đan ô vuông, trông như tấm lưới nhện khổng lồ ôm trọn con mồi bất động.
Anh được cắt tóc cạo râu, một công việc mà anh quên hẳn trong thời gian vừa qua.  Anh được tắm gội kỹ càng thong thả, không bị hối hả vì thời gian 10 phút như trước.  Bạn tù cho anh chút sà-bông, gột rửa lớp đất bụi bám trên người, nhất là lớp da giấy trong nhiều tháng thiếu ánh nắng mặt trời, đã dộp lên như vẩy cá trong chảo dầu sôi.  Anh giặt bộ quần áo ngoài, mặc lại chiếc quần đùi đã vắt khô.
Kim được chỉ chỗ nằm trên nền xi măng cạnh buồng trưởng sát cửa ra vào.  Kế bên anh là Nguyễn-Tiến-Ðạt, cùng vừa với anh từ khu kỷ luật xuống phòng giam tập thể.
Anh nằm chỗ mà cách đây mấy ngày một người can tội chống Cộng-sản tự tử.  Anh tên Thanh, không ai biết anh bị bắt từ bao giờ, ở đâu tới, nhưng khi tới phòng giam này thì sức đã kiệt.  Anh đã chọn con đường riêng cho anh, hầu bảo-vệ được bí mật và an-toàn cho bạn hữu còn  hoạt động ngoài kia.  Những liều thuốc ngủ và thuốc trị bệnh sốt rét rừng Chloroquine đã giúp anh có một giấc ngủ dài thật êm đềm.
Trong phòng đủ mọi lứa tuổi , từ em bé lên 9 lên 10 đến cụ gìa râu tóc bạc phơ.  Ðủ mọi thành phần từ tội hình sự trộm cắp đến vượt biên, không trình diện theo lệnh gọi và chống Cộng-sản. 
Anh hỏi mấy em nhỏ 9, 10 tuổi tại sao chúng bị bắt.  Giọng rất thơ ngây chúng nhắc lại cho anh nghe lời đã khai với cán bộ: "Bố con hút thuốc lào, nhà lại không có đóm nên con có xé một miếng bích chương dán trên tường về làm đóm".  Có em khác bị bắt vì ngày Tết lấy pháo nhét vào hình ông Hồ đốt.  Tựu trung vẫn được ghi nhận là "chống phá cách mạng".  Còn những em 14, 15 tuổi bị bắt vì có hành động chống lại Nhà nước, vì lập toà án kết tội ông Hồ chí Minh đã đưa miền Nam vào chỗ tang thương cơ cực.  Các em bị nhiều h́nh phạt, tra tấn vẫn một mực trả lời: "Cộng-sản vào miền Nam đã phân tán, chia rẽ hàng triệu gia đình.  Cha em đi cải tạo, mẹ mất việc làm vì có chồng đi cải tạo.  Các em bị thất học, dè bỉu vì là con cái Ngụy..."
 Những bữa ăn no hơn đã giúp Kim lấy lại phần nào sức khoẻ.  Vết thương nơi cổ tay đã khô miệng, lên da.  Anh được ngủ đẫy giấc bù lại những đêm thao thức vì hình phạt kỷ luật trong xà lim.  Ở phòng tập thể được ít ngày anh lại chuyển đi....
________________

Chú thích:
Luật và Sắc Lệnh số 174-NV do Tổng Thống
Ngô Đình Diệm ký ngày 13-7-1961 tại Sài Gòn
đặt Quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam.

5.
Lò thiêu
(Trại Phan-đăng-Lưu)
Kim vào phòng 6 khu A trại Phan-đăng-Lưu, một căn phòng gần cuối sân, căn chót là phòng 7, đối diện với khu nhà bếp.  Những căn nhà xây cũ, lâu ngày không quét vôi trông thật tăm tối.
Anh đứng nơi cửa hướng vào anh em nói: "Tôi tên Kim, can tội phản động chống Cộng-sản"...Anh đã gặp những nụ cười, ánh mắt vui vẻ của các bạn trẻ.  Sự báo danh thật cần thiết, ít ra cũng giảm thiểu được những ngờ vực, e ngại buổi đầu. 
Phòng quá chật, bệ nằm xi-măng lót gạch bông không đủ chỗ cho 70 người, mặc dù mỗi người được chia không quá 50 phân chiều ngang, không đủ rộng cho đôi vai.  Vì không đủ chỗ nằm nên phần đất lối đi cũng chia nhau trải chiếu.  Phía trong là khu vệ sinh lộ thiên, chỉ cách chỗ nằm bằng vách tường ngăn cao ngang thắt lưng, vì vậy mất vệ-sinh và thiếu thẩm mỹ.       
 Trong phòng có nhiều thành phần, đa số chống Cộng-sản tới những thành phần khác như tham gia chính quyền miền Nam trước đây, tôn giáo, đảng phái chính-trị và tư-sản mại bản.  Anh gặp nhà báo Lý Đại Nguyên và nhà tư bản Phan Bá Thúc.
Sinh-hoạt trong phòng vì vậy trở thành đặc biệt.  Thành phần tư-sản gốc Hoa cũng như Việt có đời sống riêng, ít liên-hệ với người xung quanh.  Những người có tuổi thích yên lặng, còn lại giới trẻ có sinh-hoạt năng động hơn, vẫn tin tưởng và chờ đợi những biến động ở ngoài.
Sau ít ngày làm quen, tìm hiểu sinh-hoạt trong phòng, anh khuyến khích các anh em trẻ nên vận động thân thể thay vì nằm ngủ đến giờ cơm trưa.  Sinh-hoạt từng nhóm học hỏi kinh-nghiệm, hiểu biết cuả những người lớn tuổi để tránh thì giờ nhàn rỗi.  Nêu cao tinh-thần tương trợ, người có thân nhân gửi quà chia xẻ cho người không có gia đình thăm nuôi hay đau ốm.  Sinh-hoạt trong phòng vì vậy thân thiết hơn, đùm bọc nhau hơn.
Khi ở trại Băng-Ky, anh đã nghe nói nhiều về đám "ăng ten", những người tin tưởng vào lời hứa cuả Cộng-sản sớm được về xum họp với gia đình, đã theo rõi, báo cáo sinh-hoạt trong phòng lên cán bộ trại.  Anh công nhận Cộng-sản có tài dùng lời hứa làm mồi nhử những người nhẹ dạ sau khi bị đe dọa.  Đám ăng-ten quên một điểm quan trọng, đám cướp chỉ nhất thời xử dụng “kẻ phản bội”, như trái chanh sau khi vắt kiệt nước, nhưng không chấp nhận kẻ “lưu manh hơn” vào hàng ngũ của họ.  Mọi người đều cay ghét thành phần này, vì một chút quyền lợi riêng tư đã gây cho anh em nhiều đau khổ.
Khi vào phòng 6, anh em trẻ đã cho hay ai là "ăng ten" trong phòng.  Giới trẻ đã dằn mặt, bảo cho hắn biết chỉ chờ có cơ hội là thanh toán hận thù.  Anh đã quan sát  thấy hắn có dấu con dao để phòng thân, một điều mà những người khác không được làm vì vi phạm kỷ luật trại giam. 
Một buổi sáng hắn đến nói với anh: "Tôi biết anh em sinh-viên trong phòng không ưa tôi, đã từng dọa giết, xin anh nói hộ và giúp tôi...."
Anh thấy hắn xuống nước, nhưng khó có thể tin ở con người đã có những hành-động phản bội, thành tích của hắn thật đáng kể.  Ban quản giáo trại muốn tìm hiểu những hoạt động phản động của một Linh mục hiện giam trong tủ sắt.  Một buổi chiều, họ đẩy hắn vào nơi giam vị Linh mục, hắn chỉ có chiếc quần đùi trên người, đầu tóc rối bời, thân thể bầm tím, mặt mũi phờ phạc như vừa trải qua một trận đòn thừa sống thiếu chết.  Hắn nói với vị Linh mục hắn là một phản động, rải truyền đơn chống Cộng bị bắt.  Vị Linh mục từ tâm săn sóc, an ủi hắn.  Hắn tâm sự mong tìm hiểu những điều mà vị Linh mục còn cất dấu về hoạt động chống Cộng của ông.  Sau một tuần, không lấy được tin gì hắn ra khỏi tủ sắt và chuyển về phòng này.
 Anh biết thế nên bảo hắn: "không ai chấp nhận những kẻ phản bội, dù Quốc gia hay Cộng sản, Cộng sản đã lợi dụng hắn, sẽ vắt chanh bỏ vỏ, bằng chứng là chưa có ai trong bọn hắn được về.  Anh sẽ giúp hắn được an toàn, nếu hắn không phản bội tập thể..." Chẳng hiểu hắn có thực tâm, nhưng từ đấy trong phòng tạm yên.  Hắn cho hay trước khi đi gặp cán bộ và nói lại những gì được hỏi và đã trả lời mỗi khi về.  
Thành phần chống Cộng sản bị bắt khá đông, tinh thần chống Cộng tại các phòng lên cao.  Phòng 7 khu A trở thành phòng kỷ luật tập thể, vì các phòng kỷ luật trong trại không còn trống, hàng chục người được xích chùm thành từng xâu.  Chắc bọn cán bộ trại nghĩ rằng, với cách kỷ luật này sẽ làm nản lòng thành phần phản động không dám chống đối.  Nhưng sự thực trái lại, chính hành động hành hạ tập thể này đã khích động tinh thần chống Cộng tại các phòng mãnh liệt hơn.
Vì tình trạng bất ổn tại các phòng, trại bắt các phòng viết bản tự khai về quá trình hoạt động từ 7 tuổi đến khi miền Nam bị mất vào tay Cộng sản.  Thành phần phản động phải khai rõ từng chi tiết về hoạt động chống Cộng sản sau ngày 30 tháng 4.
Nói chung các lời khai đều ẩn chứa tinh thần đấu tranh, đòi hỏi tự-do cho quyền sống con người, nhấn mạnh tới sự bạc đãi của Cộng sản đối với tù nhân. 
Về phần Kim, lời khai của anh ở trại Băng Ky còn nóng hổi, những hình phạt kỷ-luật đang làm cơ thể anh rêm nhức.  Anh phải nói rõ cái "vô nhân đạo" của "chính-sách khoan hồng" của nhà nước, mà ý chí bất khuất thể hiện trong câu nói: "Nếu bảo quốc gia này đã độc-lập thống-nhất tôi nhận là đã độc lập, nhưng nếu còn hơi thở tôi vẫn tranh đấu cho tự-do."
Kim bị gọi đi "làm việc".  Anh tự hỏi chắc có lời khai nào liên hệ với anh nên bọn cán bộ cần kiểm chứng. Hay những lời khai trong bản kiểm điểm chọc giận bọn họ, chứng tỏ anh vẫn ngoan cố.  Hay sinh hoạt chống đối của anh đã tổ chức, hướng dẫn cho giới trẻ trong phòng tới tai chúng mà cần phải dằn mặt.
Anh được đưa tới khu B, gặp một cán bộ người miền Nam tên Ngọc theo như bảng tên trên miệng túi áo.  Hắn đặt câu hỏi, và một lần nữa anh nhắc lại lời khai trong bản lý-lịch cá nhân, và hoạt động của anh trong bản kiểm điểm vừa khai cách đây không lâu.  Bất chợt hắn hỏi anh một câu lạ hoắc, chưa một lần nghe hỏi trước đây:
-"Tại sao anh chống lại chính-sách kinh-tế mới của nhà nước mà bọn anh đã tuyên truyền với dân chúng?"
Kim nhớ là trong các buổi sinh hoạt đều nhằm mục đích đả kích chính sách kinh tế mới.  Anh em sinh-viên học sinh đã khích động mọi người chống lại dã tâm của Cộng-sản, khi đưa dân chúng thành phố, thành phần chưa có kinh nghiệm phát hoang làm rẫy, tới nơi rừng thiêng nước độc. Với mục-đích cô lập, tách rời những thành phần mà Cộng-sản thấy nguy hại cho chúng.  Chúng nhắm vào thành phần gia-đình có thân nhân đi cải tạo bằng cách, hứa hẹn nếu gia-đình tới vùng kinh-tế mới thì thân nhân cải-tạo sẽ sớm được về đoàn tụ.  Mặt khác, chính quyền địa phương chèn ép gây khó khăn trong sinh-hoạt kinh-tế, lương thực cấp phát bị cắt xén.  Một khi bận rộn với mưu sinh, khó còn ý chí phản đối chính sách lầm lẫn của Nhà nước.  Và ưu điểm của chính-sách này là cán bộ địa-phương đã trưng dụng căn nhà của những gia-đình đi vùng kinh-tế mới. Trong hoàn cảnh thiếu thốn về nơi ăn chốn ở, đời sống quá cực nhọc, không cần giết cũng chết vì bệnh tật, đói khổ. 
Phương pháp rỉ tai rất kết qủa, đã gây ra hoang mang trong dân chúng đối với chính-sách của nhà nước. Dân chúng tìm mọi cách ở lại thành phố, và khối người này trở thành bất hợp tác với chính quyền, là một gánh nặng về kinh-tế cho chế độ Cộng-sản.  Các khu chợ trời mọc lên như nấm, đã giải quyết đời sống cho những người không công ăn việc làm, nhất là thành phần gia-đình có thân nhân đi cải tạo.
Trong thời gian ở trại Băng Ky, anh biếi nhóm nào bị vỡ. Cán bộ Cộng sản chỉ mới biết được một phần hoạt động, anh nghĩ mình phải dấu kỹ, để không ảnh hưởng tới những người còn lại. 
Anh chậm rãi bảo hắn :"chính-sách kinh-tế mới là cách duy nhất mà Nhà nước phải làm để giải quyết số dân chúng quá đông của thành phố mà hiện tại không có phương tiện sống.  Hơn nữa khả năng kinh tế của nhà nước không đáp ứng nổi nhu cầu..." Anh nhấn mạnh là chỉ nói lên một thực trạng mà không cần xuyên tạc.
Hắn quả không hài lòng với lối trả lời cuả anh.  Anh  đi lại lấy cung nhiều ngày.  Hắn dằn mặt lên lớp, ca tụng học thuyết Mác-Lê bách chiến bách thắng.  Anh đã nóng mắt nói thẳng vào mặt hắn, "thứ học thuyết mà hắn học thuộc lòng, ca tụng là vĩ đại, là bách chiến bách thắng kia đã lỗi thời.  Nó không phải là khuôn vàng thước ngọc, là kim chỉ nam cho quốc gia này noi theo.  Nó chỉ là thứ thiên đường mộng tưởng, vì kết quả đã mang lại đói rách và chậm tiến như người dân miền Bắc phải chịu đựng trong mấy thập niên vừa qua."
Mặt hắn chợt tím lại, vụt đứng dậy, đập mạnh tay xuống bàn.  Cơn giận làm hắn mất bình tĩnh, hắn chồm người qua chiếc bàn nhỏ, vung tay đấm tới.  Anh vội đứng dậy, lùi lại phía sau tránh đòn đánh cuả hắn.  Không hiểu trong đời cán bộ, hắn đã có lần nào gặp hoàn cảnh như hôm nay.  Còn Kim, anh tự hiểu đến nước này, còn gì để cho anh khiếp sợ, chùn bước.
Cuộc lấy cung chấm dứt, hắn bảo anh về phòng.  Ra đến cửa anh ngước nhìn xung quanh, dẫy xa-lim phía đối diện vẫn im lìm.  Sau ô cửa nhỏ của xà-lim đối diện anh thấy gương mặt một người, tự xưng thuộc lực lượng Phục-Quốc.  Kim thấy vui vui khi người bạn dơ đứng ngón cái, nét mặt anh bạn thật vui như coi thường kỷ luật.  Kim mỉm cười gật đầu đáp lại.  Ðấy là anh Lê-thiên Bảo, mà sau mấy năm trôi nổi Kim gặp lại ở trại Thanh Cẩm, Thanh-Hoá.
Trở lại phòng, không có cán bộ võ trang mở cửa.  Anh cho các bạn hay lần lấy cung này không thuận lợi.  Anh ngồi đợi nơi bờ tường hoa cuối sân sát bên phòng 7, duỗi thẳng hai chân, tận hưởng làn gió mát, ánh nắng dìu dịu mà từ lâu đã trở thành hiếm muộn, qúy báu. 
Nhìn vào phòng 7, anh gặp một số bạn quen.  Vẫn còn cảnh xích chùm thành từng xâu người, một người đi tiểu cả bọn đi theo.  Anh chưa thấy ở đâu có cảnh nào như cảnh này được viết lại qua sách báo.  Có lẽ chỉ có tại nước cộng-sản Việt Nam anh hùng. 
Tên cán bộ võ trang đi tới cằn nhằn:
-"Sao anh ngồi ngoài sân, về phòng mà không cho tôi biết?"
-"Tôi biết cán bộ ở đâu mà tìm."
-"Anh phải chuyển phòng."
-"Cán bộ mở cửa tôi vào lấy đồ dùng."
-"Anh không cần vào trong, bảo các anh trong phòng đưa đồ qua khe song cửa."
 Anh tới cửa bảo các bạn anh phải chuyển phòng, nhờ anh em gom đồ cá nhân.  Anh cảm động khi  các bạn trẻ thu xếp tư trang của anh, gom nhau mỗi thứ một chút, từ thức ăn cho đến thuốc hút, biểu hiện tình tương trợ giữa người cùng cảnh.  Mặc dầu quả đất tròn, giang sơn này nhỏ bé, nhưng có nhiều người bạn anh không gặp lại một lần.
Kim được đưa vào tủ sắt, nghe nói Linh mục Hòa đã ở chỗ này trước anh.  Chiếc tủ khá nhỏ, không đục lỗ cửa sổ thông hơi, nên hoàn toàn là một hộp sắt kín mít.  Nơi góc để sẵn thùng đựng đạn đại liên làm phương-tiện vệ-sinh.  Vào ngày nóng nực, nhiệt-độ trong tủ lên cao, khiến tù nhân dễ ngộp thở.
Nằm tủ sắt ít ngày anh được chuyển qua khu C1, một khu mới xây sau này vì nhu cầu tù nhân gia tăng.  Anh vào xà lim số 3.  Một căn phòng nhỏ tường xây cao, trần đúc.  Trên cánh cửa sắt có một ô cửa gíó chữ nhật, mỗi chiều 10x20 phân, là nơi chuyển phần ăn trong ngày, và hứng một chút ánh sáng mặt trời.  Mỗi khi đóng lại căn phòng trở lên tăm tối.  Bệ nằm bằng xi măng cao khỏi mặt đất, chiều ngang độ 80 phân trải đủ một chiếu nằm, đầu nằm chạm tường chân chạm vách ngăn bàn vệ-sinh.  Khoảng đất còn lại sát bệ nằm vừa đủ hai gang tay.  Vì mới xây nên bệ nằm chưa khô, qua một đêm chiếc chiếu trải ướt sũng do hơi đất ẩm.  Dù sao căn xà-lim này vẫn khá hơn những chỗ anh vừa trải qua.
Phòng số 2, phía bên trái phòng anh là một nữ sinh viên can tội phản động.  Cô rất trẻ, khoảng hai mươi tuổi, nét mặt xanh xao nhưng đầy cương quyết mỗi lần lấy cung trở về.  Cô đã hất cả phần cơm trưa qua lỗ gió vào người tên ăng-ten giữ nhiệm vụ đưa cơm buông lời khiếm nhã. 
Khi ở trại Băng Ky, anh đã nghe nói tới vụ nhà thờ Vinh-sơn, hầu hết những người liên-hệ đều vào trại này.  Căn số 1 là nơi giam cha Nghị, cha Xứ An Lộc.  Ông bị bắt khi nằm trên giường bệnh, bị cáo buộc là người cầm đầu của cuộc biến động nhà thờ Vinh Sơn chống lại chính quyền Cộng-sản.  Ông bị kết án tử hình.  
Anh Phú-Sơn ở cách đây mấy căn, vừa lãnh án 20 năm tù vì có chân trong vụ Vinh-sơn.  Ali Hùng, người lính chiến can đảm chống trả đám bộ đội bao vây nhà thờ, cũng lãnh án tử hình, ở căn trong cùng.  Mỗi lần đi qua xà lim của Kim, với áo chemise mầu sắc mùa hè bỏ ngoài, nét mặt Hùng vẫn vui vẻ, coi thường cái chết cận kề. 
Căn số 4 dành cho tử tội Nguyễn-hồng-Thành, đang đợi ngày thi hành án-lệnh.  Hắn thường đấm vào tường gọi Kim ra nói chuyện.  Hắn còn quá trẻ, vừa 30 tuổi.  Anh an ủi và khuyên hắn đọc kinh cầu nguyện.  Hy vọng lời kinh sẽ giúp hắn lấy lại bình tĩnh, trấn áp được phần nào sự sợ hãi đang dấy lên trong lòng.  Tâm trạng hắn càng ngày càng trở lên bất thường.  Khi im lặng chỉ nghe thấy tiếng khóc thút thít như một đứa trẻ sau những roi đòn.  Rồi bỗng trở lên sôi động, phá phách như con thú bị thương đang vùng vẫy mong thoát khỏi bẫy rập.  Tiếng thét vừa thoát ra ngoài bỗng chợt tắc nghẹn, như lưỡi dao của người đồ tể vừa cắt ngang cuống họng con vật hy sinh.  Tiếng nấc kéo dài thật thê thảm. 
 Anh thông cảm với tâm trạng của hắn, biết mình càng lúc càng xa rời sự sống, mất tất cả những người yêu thương.  Hắn đang níu kéo sự sống một cách tuyệt vọng. Hắn đã chống án nhưng sự việc không thay đổi.  Có lẽ Nhà nước cần tới sinh mạng hắn để răn đe người khác.  Ðể chứng tỏ có bạo lực, có uy quyền của một chủ-nghĩa gọi là "xã-hội thuộc về nhân dân và vì nhân dân."
Hôm qua là lần chót gặp mặt gia-đình trước khi từ giã cõi đời.  Hắn nói vợ hắn còn quá trẻ lại có ba đứa con dại làm sao chịu đựng nổi trong cuộc sống khắt khe này.  Hắn vẫn còn muốn sống để tiếp nối cuộc đời, nhưng đành bất lực trước luật-pháp cách mạng.
Anh đã thấy nhiều trường hợp nạn nhân bị bắn gục vì tội danh không đáng chết.  Người ta cho nhau cái chết thật dễ dàng, đơn giản, người buộc tội chẳng đại diện cho lẽ công bằng mà vì mang nặng những hận thù.  Anh nghĩ đến đời sống của mình và những người quanh đây liệu có hẩm hiu như thế không.
Phòng Cha sở vẫn yên lặng, không hiểu ông nghĩ gì về tội tử hình mà Cộng sản ghép cho ông.  Có phải đó là phần thưởng dành cho việc ông đã tham gia, hay chỉ là lý do thanh toán những người đối đầu vì thành kiến.  Nhưng dù sao âm vang của vụ Vinh-sơn thật lớn mạnh, là ngọn đuốc thắp sáng con đường đã tưởng chừng tăm tối.  Ðã thổi bùng ngọn lửa đã tưởng chừng tắt lịm.  Là ánh sáng cuối đường hầm thắp sáng niềm tin đã tưởng chừng vô vọng.  Là một đòn vũ bão giáng mạnh vào chế độ đang say men chiến thắng.    
Kim trở lại với chiếc còng sau nhiều ngày vắng bóng.  Chúng lại dùng hình thức kỷ-luật để buộc anh cung khai.  Anh đã trải qua khá lâu trong các phòng kỷ luật, không hiểu sẽ còn được hưởng những gì mới mẻ vào những ngày sắp tới.  Anh đã nếm đủ cả còng tay lẫn xích chân, còng hai tay trên dưới phía sau lưng với mỹ danh số 8, và bây giờ anh lại nếm mùi vị mới còng tay này với chân kia.  Chẳng hiểu tên thật của nó là gì, hay nó không có tên.  Nhưng để phân biệt với các kiểu khác, bạn tù cho nó mang tên: còng kiểu số 4.  Không hiểu có phải vì khi mang còng, tù nhân phải khom người như hình số 4, chân cao chân thấp, vì vướng sợi xích nên tướng đi không thoải mái, ngay ngắn.  Dáng dấp đi đứng lom khom như con khỉ, nhưng dù sao cũng đỡ khổ hơn những kiểu còng trước.
Còng hai tay ra phía sau trông thật đơn giản, có vẻ nhàn hạ như thế đứng nghỉ để hai tay ra sau lưng, nhưng không thoải mái như mọi người lầm tưởng.  Vì không đưa hai tay ra phía trước được, nên nằm ngả lưng thật khó, sự mỏi mệt làm hao mòn sức khỏe dần dần.  Kim nhận ra một điều, dù với kiểu còng nào, mỗi thứ đều có cái sâu sắc riêng của nó, và sự đau đớn của cơ thể cũng biến đổi theo.  Với các kiểu còng trước, xương sống phải thẳng, lồng ngực bị dãn căng, luôn luôn cảm thấy xương vai nhói buốt.  Còng càng lâu càng mất dần cảm giác nơi vai, đôi tay thật nặng nề vì không có chỗ dựa. 
Trái lại, với kiểu còng số 4 này, xương sống được uốn cong vòng, khi di chuyển người phải lom khom.  Muốn nằm phải bắc chân chữ ngũ, xương sống thấy dễ chịu vì trải thẳng trên chiếu nằm.  Nhưng chân bị còng không duỗi thẳng nên mỏi nhừ, có cảm giác như tê bại lan dần khắp cơ thể.  Vào khi say ngủ, những giấc mơ hãi hùng, những hình ảnh tra tấn trong dĩ vãng ám ảnh, và trong lúc nửa mê nửa tỉnh, bản năng tự nhiên muốn vùng thoát vuột chạy, hay lòng căm thù bùng cháy muốn dơ chân đạp phá gông cùm.  Chân còng đạp thẳng, lôi theo cánh tay kéo bật người dậy.  Chỉ là giấc mơ, nhưng sự lôi kéo làm cổ tay và xương vai đau nhói.
Anh đi lấy cung trở lại.  Một cán bộ ngồi sau một chiếc bàn lớn, khẩu súng lục để trên bàn, thỉnh thoảng hắn cầm lên nhắm nhắm như muốn bóp cò.  Anh đã chịu đựng cả ngày với hắn trong căn phòng này, trả lời những câu hắn hỏi, giọng nói đang ôn tồn bỗng bật thành tiếng quát, xương hàm bành ra, mắt như đổ lửa.  Hắn chồm tới, làn thép lạnh ấn vào thái dương anh, Kim nhắm mắt chờ đợi một lần ân huệ.  Khi chấm dứt buổi lấy cung, bước ra cửa, anh thấy chỗ anh đứng cách xà lim anh đang nằm không bao xa.
Anh trở lại căn phòng này nhiều lần, hết ngày này đến ngày khác, bất kể sáng, trưa, chiều, tối.  Anh đã bỏ nhiều bữa ăn vì trở về phòng không đúng giờ.  Sức khỏe xuống dần vi ăn ngủ thất thường.
Sau mấy tháng nằm xà lim số 3, anh được đưa qua phòng tập thể.  Phòng 6 khu C2 ở vào cuối dẫy.  Căn phòng mái lợp tôn quá nhỏ với hơn 30 người.  Trong phòng có nhiều thành phần, thêm các vị nhà văn nhà báo trong chiến dịch hốt trọn vào tháng tư vừa qua.  Trong phòng có anh Hồ Văn Đồng, Thái Dương…
Trong một khung cảnh thật đặc biệt, lẫn lộn những người chống Cộng và những người thân Cộng.  Như lời ức đoán sau khi hội đàm Ba-Lê kết thúc là, chúng ta những người miền Nam sẽ phải chấp nhận cảnh "chung cư hoà bình", chủ nhà ở buồng trong kẻ thù ở căn ngoài. 
Khi đó anh chua xót cho tương lai dân tộc mình, một cuộc trả gía đã xong.  Miền Bắc đã trở thành "dân tộc anh hùng" có chính nghĩa, còn nhân dân miền Nam là nạn nhân, không được quyền lựa chọn sự tự-do, mặc dù đó là quyền sống của chính mình.  Ðến năm 75 chuyện ức đoán trở thành sự thật, kẻ thù không những chỉ ở phòng khách mà chiếm trọn cả căn trong, đẩy chủ nhà sống vất vưởng ở ngoài đường.  Hay vì lòng nhân đạo trong chính sách khoan hồng, tìm cho người miền Nam một chỗ ở nơi vùng kinh-tế mới hay tập trung trong các trại học tập cải tạo.
  trong căn phòng giam nhỏ bé này anh gặp những khuôn mặt trong thành phần thứ ba, từng theo sát Huỳnh-tấn-Mẫm, Ngô-bá-Thành ...trong hành động quấy rối, gây bất ổn cho chính quyền miền Nam, làm công việc nối dáo cho giặc.  Nhân dân miền Nam đã nuôi ong tay áo.  Có lẽ bản chất tình cảm của người miền Nam giầu lòng thương, tôn trọng quyền sống tự-do của con người, nên bọn này đã lợi dụng phản bội.  Thay vì xây dựng lại phá hoại, đâm sau lưng người miền Nam.  Anh thấy tội nghiệp cho họ, chỉ là những con tốt theo đóm ăn tàn, đã hết gía trị nên được vào đây hưởng một chút ân huệ của Nhà nước.  Như thế mà chúng vẫn chưa mở mắt sau khi đã nhìn thấy cái lưng của Cộng sản.  Họ lớn tiếng kể thành tích hoạt-động nội thành, quấy phá chính-quyền và nhân dân miền Nam, coi đó như là một chiến công lẫy lừng muôn thuở. 
Anh hiểu đặc tính của mỗi chế độ.  Khác hẳn với đường lối nhổ cỏ nhổ tận gốc của Cộng-sản, miền Nam nhân đạo quá, vẫn đãi ngộ con em mặc dù cha chú chúng làm tay sai cho Cộng-sản.
Vì tình người anh vẫn thấy thương hại hắn, mặc dầu hắn là một trong những phần tử làm miền Nam thêm điêu đứng.  Con người hắn đôi lúc bộc lộ sự hân hoan, như vững tin sớm được trở về xum họp với gia-đình, nhưng có khi im lặng thở dài.  Có lẽ, thâm tâm hắn đã phát hiện dã tâm của chế độ mới, nhưng chót dấn thân nên khó diễn tả niềm chua xót trong lòng.  Hắn đã hy sinh vào ra nguy hiểm để mong được hưởng một chút vinh quang.  Thật ra tất cả chỉ là ảo tưởng, vinh quang không dành cho hắn hưởng. Hắn lạc lõng trong một tập thể mà lòng căm hờn đang dâng cao, oán ghét hành động phản bội mà tập đoàn hắn đã làm.
 Vụ nhà thờ Vinh-sơn còn nóng hổi, như hơi ấm hâm nóng tâm tư tưởng như đã gía lạnh của người miền Nam.  Như liều thuốc bổ vực dậy niềm tin cho con bệnh đã hầu như thất vọng.  Vụ Song-vĩnh, Phước-tuy lại tiếp theo.  Theo các nạn nhân cho hay, cộng-sản đã điều động hàng sư đoàn, với đầy đủ xe tăng đại pháo có máy bay yểm trợ, bao vây cả một vùng tỉnh Phước-Tuy.  Hàng ngàn người bị bắt gồm đủ mọi thành phần dân chúng và Tôn giáo.  Hoặc có hành động chống đối, hay vì cư ngụ trong khu vực chiến dịch vây bắt phản động.  Thượng tọa Trần-Sử vì thế có mặt trong phòng.  Ông chỉ là nạn nhân của chính sách bắt lầm chứ không tha lầm.
Kim nhớ khi anh em trong phòng đưa ra lời trách người Mỹ đả bỏ rơi miền Nam, anh nghe người nằm bên cạnh trả lời:
-"Các anh hận người Mỹ bỏ rơi, gây ra nhiều tang thương cho miền Nam.  Hoàn cảnh các anh lấy gì làm đau. Chẳng qua các anh với người Mỹ chỉ là một cặp tình nhân nay ở mai đi, có gì ràng buộc để mà đau đớn tang thương.  Nếu có đau thì phải nói là chúng tôi đây.  Có thể nói chúng tôi đau hơn hoạn.  Chúng tôi với Cộng-sản miền Bắc không phải chỉ là cặp tình nhân quen nhau cho qua ngày, mà trên giấy tờ truyền thống, chúng tôi là cặp vợ chồng đầu gối tay ấp, đã có với nhau mấy mặt con.  Chúng tôi đã chia xớt với chúng những cay đắng mà chưa được hưởng một chút ngọt bùi.  Bây giờ đến lúc gọi là vinh-quang, chúng đã quay lưng lại…"
Lúc này anh mới hiểu tâm tư của người nằm bên cạnh.  Ông gốc người miền Nam, ngoài 60 nhưng trông rất quắc thước, thường im lặng như suy nghĩ điều gì.  Không hiểu tập đoàn ông có biết mình chỉ là một thứ công cụ, hay vì bản chất chân thật, với lời hứa ban đầu, nên vẫn tưởng là có quyền đòi lẽ công bằng về quyền lợi.  Nghe tâm sự, ông vốn là sĩ quan cấp tá của "Mặt trận Giải-phóng Miền Nam", đã từng theo sát Tướng Trà khắp nơi trong nhiều năm chinh chiến.
Sau tháng 4/75, ông và một số đông bạn hữu thất sủng, vì Mặt trận Giải-phóng miền Nam bị khai tử.  Ông chán ngán cảnh đời thay đổi, trở về căn nhà nhỏ mới đựng trong vùng Song-Vĩnh để an dưỡng tuổi già, chữa chạy căn bệnh hiểm nghèo đã theo đuổi ông suốt thời gian dài chiến đấu.  Người vợ yêu thương của ông đã qua đời trong một lần công tác.  Còn lại một mình, ông muốn ẩn danh, trôn dấu dĩ vàng đã từng gợi nhớ cho ông những kỷ-niệm thiết tha, nhưng cũng dậy trong lòng ông những tủi hận.  Nhưng trời chẳng chiều người, ông vướng vào vụ Song-Vĩnh.
Cộng-sản chấp nhận bắt lầm nên đưa ông vào đây.  Hoặc gỉa chúng đã thấy sự bất mãn, chống đối bằng cách bất hợp tác của tập đoàn ông, nên đã không tha lầm.  Dù sao, ông cũng để lộ sự hối tiếc, lầm lẫn để tuổi xuân qua đi cho mục đích phi dân tộc, mà chính-nghĩa là danh xưng vẫn được nêu cao chỉ là tấm bình phong che đậy những hành động đi ngược lại nguyện vọng của con người.  Ông đã thấu hiểu sự việc nên đã quay đầu trở lại.  Dù không có lợi cho dân tộc, nhưng ít nhất đối với lương tâm, coi như một hành động xám hối.  Nhưng biết có còn cơ hội hay không.
Về phía những người chống Cộng hết mình phải nói tới già Thông.  Ðúng là ông già gân, bị bắt vì can tội "chống phá cách mạng".  Khi cán bộ lấy cung nạt nộ, bác tức mình chỉ tay bảo: "may cho các anh, chỉ chậm một giờ nữa là tôi cho nổ thành phố Sài-gon". 
Bác khuyến khích Kim hút thuốc lào cho vui.  Chính anh muốn biết cảm giác khi đầu óc quay cuồng trong khói thuốc, trí óc không còn kiểm soát được hành động.  Bác vê điếu thuốc nhỏ hiệu ba số 8, thứ sợi nhiễn, dẻo mầu nâu thẫm bỏ vào nõ điếu.  Anh ngồi xếp bằng tròn, tay cầm chiếc ống điếu dã chiến làm bằng bình nhựa, châm lửa hít một hơi dài, ngậm miệng nuốt khói.  Anh chợt thấy một cảm giác lâng lâng, thân mình nhẹ tênh, vội bỏ điếu chống hai tay cho khỏi ngã.  Khói thuốc vào phổi, len vào máu, chạy rần rần từ xương sống lên gáy.  Chân tóc như muốn dựng đứng, mồ hôi vã ra.  Mọi người vỗ tay cười, bảo anh khi say thuốc trông giống như Tây Ðộc Âu-dương Phong đang luyện ham mô công. 
Nhìn Kim hút thuốc "ông Mặt trận giải-phóng" nằm kế bên tâm sự: "Lúc mới gia nhập phong-trào tôi hút thuốc lào để tìm vui.  Tuổi trẻ là như vậy, mình muốn biết một cái gì mới lạ, nhất là sau những giây phút thành công hay thất bại.  Ðôi khi nó giúp trấn áp được sự sợ hãi sau những lần công tác.  Còn bây giờ tôi hút thuốc lào để tìm quên..."  Kim hiểu đó chỉ là cách ông tự lừa dối mình.  Liệu ông có thể quên được không, khi hành động phản bội dân tộc đang tiếp diễn trước mắt.
Trời Sài-gon trở nóng dữ dội.  Căn phòng nhỏ mái tôn lợp thấp đầy ắp hơi người.  Hơi nóng từ mái tôn dội xuống khiến căn phòng như lò hấp.  Mọi người phải chia nhau thời gian tắm.  Vào lúc thiếu nước, vòi nước chảy nhỏ giọt, nước phải chia từng ca nhựa chưa được nửa lít, số nước cho mỗi người để tắm trong ngày.  Vào lúc này, anh dội thật chậm từ đỉnh đầu, nước chẩy dần xuống vai, không dám cọ mạnh sợ không đủ nước gột sạch chất bẩn bám trên người.  Anh vuốt toàn thân hầu nước mát thấm vào da, xóa bớt phần nào những giọt mồ hôi đang thi nhau chẩy.
Trong phòng thật ổn định.  Phần đông là thành phần chống Cộng-sản, nên đời sống tập thể rất có kỷ-luật.  Nhưng đó là điều trái với ý muốn của cán bộ trại.  Họ muốn trong phòng luôn xáo trộn hầu dễ phát hiện sinh hoạt và những điều tù nhân còn che dấu.
Vào một ngày sau bữa cơm chiều, tên cai ngục đẩy một thanh niên vào phòng, quần đùi chân đất.  Hắn bảo vừa ở kỷ-luật ra.  Kim thấy hắn có vẻ là lạ, vẫn phong độ tươi tỉnh, không giống người đã nhiều ngày nếm mùi xà lim.  Anh thầm nghĩ khổ nhục kế lại tái diễn, nhưng không còn ăn khách nữa.  Anh em trong phòng nhìn hắn mỉm cười, lại có thêm một người mong được sớm về đoàn tụ với gia đình.
Ở phòng tập thể chưa được bao lâu, anh lại bị gọi đi lấy cung.  Khi anh tới, hắn đang lui cui đánh bóng chiếc xe Honda nữ dựng trước cửa phòng.  Hắn chừng 50 tuổi, bên cạnh hắn là người đàn bà trẻ trên dưới 30, đang bế đứa con nhỏ.  Chắc hẳn là người vợ trẻ vừa kết nghĩa sau ngày thắng lợi.  Thấy anh, hắn hất hàm ra hiệu bảo anh vào phòng.  Kim biết anh đến không phải lúc.  Hắn đang bỏ tâm trí vào việc bảo vệ chút tài sản qúy báu như một phần thưởng sau bao nhiêu năm khổ cực.
Anh phải đợi khá lâu, hắn vào phòng, chỉ anh ngồi nơi chiếc ghế đẩu cao.  Vẫn lại chiếc ghế không chỗ tựa lưng và gỗ kê chân, xa bàn hắn ngồi và cách bức tường sau lưng anh cả thước.  Tự nhiên anh có linh tính phải đề phòng con người trước mặt. 
Dáng đi của hắn không hài hòa như người ở vào tuổi này.  Không phải vì có tuổi hay thân thể gầy còm mà con người cong vòng, hay do thói quen nằm võng lâu ngày.  Hắn đủng đỉnh để tập hồ sơ trước mặt, sửa lại vị trí chiếc radio nhỏ có da mầu nâu bọc ngoài, cầm khẩu súng lục trên bàn cho đạn vào nòng, khóa an toàn rồi bỏ vào ngăn kéo trước mặt.  Hành động này càng làm hắn khác với những tên cán bộ mà anh đã gặp.  Có lẽ hắn tin ở bản lãnh mà không cần đe dọa trước khi lấy cung, nhưng vẫn cho anh hay là hắn có vũ khí, đừng chọc giận hắn.  Hắn nhìn anh, nét mặt đanh lại.  Khuôn mặt xương xương, hai má hơi hóp, mắt trũng sâu càng làm hắn khó nhìn. 
Hắn dở tập hồ sơ, đưa ngón tay trỏ theo hàng chữ viết từ trên xuống dưới ghi nơi mặt trong trang bìa, nhẩm tính điểm danh từng tên cán bộ đã lấy cung anh, cất giọng lạnh ngắt:
-"Trong thời gian vừa qua anh đã gặp 6 cán bộ lấy cung, tôi đã nghiên cứu lời khai, thấy anh vẫn ngoan cố không thành thật khai báo với cách mạng...."
Hắn ngưng nói, tay dở tiếp các trang trong, mắt nhìn anh, bất chợt tiếp:
"Hôm nay tôi làm việc với anh, hãy cung khai đầy đủ,  dấu diếm vô ích.  Ðỡ mất thì giờ của tôi và cũng tránh phiền phức cho anh."       
Cũng vẫn một lời đe dọa vào đoạn chót.  Hắn hỏi anh từ hồi còn đi học ở ngoài Bắc, di cư vào Nam đi học rồi đi làm.  Công việc làm trước ngày miền Nam bị mất.  Liên hệ với các hội đoàn.  Hắn nhấn mạnh về hoạt-động của anh vói lực lượng sinh viên chống Cộng.  Anh trả lời hắn như đã khai trước đây và phủ nhận lời hắn buộc thêm tội cho anh.
Sau hơn 5 giờ hỏi cung, hắn có vẻ thất vọng vì vẫn không có gì mới mẻ.  Chắc hắn đã mệt, ly nước trà trên bàn đã rót thêm mấy lần.  Hắn ngưng hỏi, để anh ngồi đó, đứng lên đi vào cửa phía sau gọi một cán bộ võ trang đưa anh về phòng.
Anh trở về phòng cũ chấm dứt một ngày lấy cung.  Khi tới cửa, tên cán bộ võ trang mở khóa cửa và nói:
-"Anh có 10 phút sửa soạn đồ dùng cá nhân".
Tín hiệu thật đơn giản ngắn gọn, anh lại đổi phòng.  Như một thói quen, anh thu xếp tư trang nhanh nhẹn, chào các bạn bước ra khỏi phòng.  Anh vẫn thấy quyến luyến các bạn dù mới tới đây một thời gian thực ngắn, mà mỗi khi bước ra khỏi cửa chưa biết mình đi về đâu, còn gặp lại những người bạn vừa biết hay không.
Anh được dẫn tới xà lim số 24 trong khu C1.  Chắc cán bộ trại nhận thấy anh không còn tốt, nên cho ở riêng để anh có thêm thời gian suy nghĩ.  Anh gặp lại khung cảnh cũ mới xa chưa được bao lâu.  Vẫn thềm xi măng nhỏ, lối đi chiều ngang không quá hai gang tay.  Vẫn ba bức tường cao nhẵn thín, cánh cửa gió nhỏ đã đóng lại, biến khung cảnh bên trong thành một thế giới riêng biệt, tối tăm. 
Cửa phòng mở, anh bước vào trong, nhưng tên cán bộ võ trang gọi lại.   Anh biết hắn muốn tặng chiếc còng, một dấu hiệu thưởng phần ngoan cố của anh.  Anh quay lưng lại phía hắn, hai tay để sát vào nhau chờ đợi.  Nhưng không, hành động của anh không hợp với ý hắn.  Hắn ấn anh ngồi xuống sàn, bảo anh quay mặt ra ngoài.  Anh biết hắn muốn cho anh "con số 4", lại cổ tay trái để sát cổ chân phải.
 Anh chọn tay trái phải hy sinh, anh thuận tay phải.  Anh cần nó để đập muỗi giết rệp, gãi ngứa sau lưng, và còn nhiều việc khác phải làm.  Anh đã quen với kiểu còng này, nhưng kiểu nào cũng cho anh một nỗi khổ riêng.  Ðêm nay chắc khó ngủ vì phải đánh vật với đàn muỗi đói.
Anh mới "dọn" vào căn này, tường phẳng lỳ, không có lấy một khe hở hay lỗ nhỏ để nhét cây tăm làm chỗ treo màn. Phải đợi đến giờ cơm trưa ngày mai, giữ lại một chút cơm dẻo làm keo dán miếng giấy báo có kèm một đoạn giây nhựa gấp đôi, thò đầu có thòng lọng ra ngoài, để máng đầu giây màn có buộc cây tăm tre nằm ngang.  Dùng cơm dán chỉ được vài ngày, vì khi cơm khô dễ bong khỏi tường.  Anh lom khom đi lại như một tên gù.  Cũng may diện tích ngoài bệ nằm chẳng còn bao nhiêu, chiều ngang lối đi rộng 40 cm, chiếu dài 2 m, nên sự di chuyển cũng hạn hẹp.
Mới hôm qua đứng ở cửa phòng tập thể nhìn qua dẫy xà lim, trông không khác gì những ngăn giam thú, nhất là khi cửa gió mở, từng khuôn mặt hiện ra chỉ còn lại đôi mắt và cái mũi.  Và bây giờ anh đang ở trong chiếc hộp kín mít, nhìn qua các phòng giam tập thể với cửa ra vào có song sắt to, anh em thay nhau đứng nơi cửa để hưởng một chút gió mát, chẳng khác nào bầy khỉ ở thảo cầm viên.    
Ðã nhiều tuần qua đi, Kim ra khỏi xà lim từ sáng và trở về trước bữa cơm chiều.  Thế ngồi trên ghế đẩu cao không lưng tựa và gỗ kê chân làm lưng anh mỏi nhừ, anh mệt mỏi thực sự.
Dẫy xà lim anh nằm như không còn chỗ trống.  Nghe nói anh Doãn-quốc-Sĩ ở căn cuối.  Nhiều lần qua ô cửa gió anh thấy ông Cầu, can tội "phản động", với bộ quần áo ngủ mầu xanh xọc trắng đi lấy cung.  Một bên chân còn mang chiếc còng, mà mỗi bước chân nửa vòng kia còn văng qua văng lại.
Người ở phòng 23 là anh Ðỗ-hồng-Phấn, nhà xuất nhập cảng miền Tây ở Phú Nhuận, gần khu anh ở, cũng được tặng tội phản động.  Có lẽ chỉ có tội danh này Nhà nước mới dễ dàng “quản lý tài sản” người dân.  Vào lúc này, nguồn tin về các đơn vị thuộc quân đội miền Nam vẫn chiếm ngụ tại một số địa điểm, đã làm nhân dân miền Nam hứng khởi tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng.  Vào một buổi tối, qua lỗ gió phòng kỷ luật, anh Phấn tâm sự: "...Tôi đã xuống vùng Hậu giang, đi theo người cháu nguyên là một Trung tá bộ binh, vào tận nơi gặp rất đông anh em với quân trang đầy đủ...khi về đến nhà thì tôi bị bắt vì can tội tư sản mại bản."
Anh ở phòng số 22 còn trẻ.  Ðược nghe anh kể chuyện qua ô cửa gió vào buổi tối, khi lính gác ở mãi cổng ngoài lối đi.  Anh ở Hố-nai lên Sài-gon, bị bắt và tịch thu 30 bánh thuốc lào.  Chúng bảo anh phản động, giữ chân liên lạc cho lực lượng Phục-Quốc.  Cửa gió phòng anh luôn đóng kín, để tránh lời anh chửi rủa các nhân vật lãnh đạo nhà nước vang dội khắp khu.  Bẵng đi mấy ngày không nghe thấy tiếng anh chửi, trại nghĩ chắc anh đã mỏi mệt nên mở cửa gió để anh dễ thở.  Nhưng vào buổi sáng hôm phái đoàn Ba-Lan có quay phim tới thăm trại, anh buồng 22 đã không tiếc lời chửi từ Mác tới Lê, từ Hồ tới Duẩn. 
Chắc anh bị kỷ luật lâu ngày, nên hôm đi lấy cung chỉ có chiếc quần cụt trên người, cổ chân trái còn dính chiếc còng, vòng còng lún sâu vào thịt.  Chân kia còn in dấu vòng còng vết thương còn đỏ hỏn.  Anh không tỏ một chút sợ hãi trước bọn cán bộ.  Hành động của anh là tấm gương cho mọi người noi theo, đã khơi dậy lòng can-đảm đấu-tranh trước bạo quyền Cộng-sản.
Kim đã gặp cán bộ tên Phan-v-Ri này cả tháng nay, hắn không còn giữ được bình tĩnh, bản lãnh lúc đầu.  Hắn lập lại câu hỏi anh đã nghe khi còn ở Quận:
- "Anh biết những gì về tên Jean?"
Hắn không đặt câu hỏi như những người trước, mà làm như đã xác định sự quen biết của anh với người nước ngoài.  Hắn vẫn xoay quanh vấn đề này, như còn quan tâm về danh hiệu CIA.  Anh lập lại câu đã trả lời nhiều lần:
-"Tôi không biết người nào có tên này."
Hắn nổi cáu đập bàn quát lớn:
-"Ðế quốc Mỹ đã thua chạy, chúng để lại tàn dư là những loại người như các anh, nằm vùng để phá cách mạng...", hắn ngừng lại để lấy hơi hay muốn dằn câu tức giận mà bản chất có thói quen hay chửi thề.  Hắn tiếp:
"Tôi nói cho các anh hay, đất nước này đã độc-lập thống-nhất.  Chúng đang hô hào phản đối chúng tôi vô nhân-đạo bắt nhốt các anh.  Mặc xác chúng nó, việc của chúng tôi chúng tôi vẫn làm...."
Lòng Kim cảm thây ấm lại, lời nói của hắn không lấy gì bảo đảm về việc gì đang xẩy ra trong cộng-đồng quốc-tế, phản đối hành-dộng phi nhân quyền của Cộng-sản.  Nhưng anh tin hắn nói ra sự thật, mà vì quá tức giận đã nói ra những điều không nên nói. Anh trả lời sau mỗi câu hắn hỏi, và đợi hắn có thì giờ viết tờ biên bản cung khai.  Thấy anh ngừng nói, hắn trừng mắt giọng gay gắt:
-"Sao anh không tiếp tục nói mà ngừng lại?"
Kim bực mình bảo hắn:
-"Tôi nghĩ anh chưa viết xong thì ngừng lại đợi.  Nếu tôi nói liên tục làm sao anh viết kịp."
Như chạm tự ái, hay chứng tỏ có uy quyền, hắn hất hàm bảo anh:
-"Tôi đã bảo anh cứ tiếp tục nói, không phải đợi, tôi muốn viết gì tùy theo ý tôi."  
Kim im lặng nhìn hắn, thâm tâm anh luôn hiểu những lời cung khai của anh chỉ là cho có, tội trạng của anh đã thành lập trước khi chúng tới bắt anh.  Nhưng chúng vẫn mong tìm ra những chỗ hở hầu bắt thêm bạn hữu anh.  Giọng anh bỗng đanh lại, như không kìm giữ những uất hận trong lòng đã dồn nén từ lâu:    
-"Như thế sao còn gọi là lời cung trung thực như chính sách nhà nước đề ra.  Nếu anh viết theo ý anh thì cần gì tới lời khai của tôi." 
Hắn tức giận đập bàn:
-"Anh học luật phải không.  Lời cung của anh như lời biện hộ.  Anh không có tội gì với nhà nước, chỉ tại cách mạng vô cớ bắt các anh vào đây mà thôi."
Kim không kìm giữ được sự tức giận, anh sẵng giọng:
-"Tôi tiếp tục trả lời câu hỏi của anh, còn anh muốn viết thế nào tùy ý."
Anh nói như lần giở các trang sách viết sẵn, thuộc nằm lòng trăm lần như một.  Khi chấm dứt lấy cung, hắn đẩy tập hồ-sơ vừa ghi thêm lời cung tới đầu bàn gần chỗ anh ngồi, bảo anh ký tên.  Anh cầm tập cung vừa ghi đọc lại từ đầu đến cuối, gạch dưới những hàng chữ ghi không đúng lời anh khai, và bảo hắn là anh không đồng ý những đoạn này.  Anh đánh dấu ngoài lề và cho hắn biết anh muốn sửa những chữ dùng sai với ý anh diễn tả.
Hắn tức giận trước câu anh nói, đứng bật dậy chỉ tay vào mặt anh:
-"Anh là một thứ cặn bã, một thứ tay sai của đế quốc.  Ðảng đã khoan hồng không giết, các anh lại quay ra phá hoại.  Các anh tổ chức lực-lượng sinh-viên chống lại nhà nước.  Xử-đụng chiến tranh nhân dân để chống lại cách mạng."
Anh nghĩ hắn nói ra điều này cũng đúng phần nào.  Sau khi Saì-gon mất, cán-bộ Ðỗ-Việt tới tiếp quản Bộ Nội Vụ đã nói trước mặt các anh là: "... đến nơi nào mà thấy bóng dáng cán bộ áo đen là chúng tôi phải di chuyển ngay, nếu không trước sau gì cũng bị phát hiện...".  Lời nói tuy đơn giản nhưng thể hiện thành kiến sâu xa với tập thể này.  Không phải cộng-sản chỉ né tránh người cán bộ "Xây dựng Nông thôn" vì đã nắm vững sinh-hoạt tại mỗi địa phương qua bản “Lượng Giá Ấp”, nhưng bằng hành động giúp đỡ người dân trong mọi trường hợp, chia sẻ với người dân trong hoàn cảnh bị khủng bố bởi Việt cộng, đã ngăn chặn hữu hiệu các hoạt động của cộng-sản tại nông thôn. 
Nghĩ lại anh còn thấy tiếc, vào đúng thời gian sôi bỏng nhất, tập thể này đã trở thành một thứ con rơi.  Ðá qua hất lại như một trái banh, không Bộ Nha nào nhận.  Người ta không muốn duy trì, mặc dù khả năng chiến đấu rất cao, là tai mắt của chính-quyền tại nông thôn, không khác gì công-an khu vực của chế độ Cộng-sản.  Chỉ khác một điều, người cán bộ áo đen đã cùng nhân dân chiến đấu để bảo vệ mảnh đất tự-do của mình trước hoạ Cộng-sản, còn người công an khu vực đã vì Ðảng, buộc nhân dân đi theo đường lối của Ðảng.
Nắm vững phương thức này, anh và các bạn kết hợp thành phần sinh viên học sinh từ Thành đến Tỉnh, thành lực lượng nòng cốt song song hai mặt vừa nổi vừa chìm.  Là thành phần có tinh-thần Quốc-gia vững chắc, cả về hai mặt kỹ-thuật và trí thức.  Sẽ là gạch nối, giữ vững được truyền thống không phân hóa, từ trung ương đến địa- phương, xuyên qua các vùng kinh-tế khác biệt.  Sự nhất thống sẽ giảm thiểu được địa-phương tính, một điều mà giai-cấp công nông không thể thực hiện được qua hệ thống Ðảng như thường xẩy ra tại các tỉnh miền Bắc, và càng trầm trọng hơn nữa sau khi Cộng-sản xâm chiếm miền Nam.  Ðịa phương tính càng rõ nét, đào sâu hố cách biệt Nam Bắc, khiến phép vua thua lệ làng, Trung ương với địa phương như trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Trăm điều khổ cực lại đổ lên đầu đám dân nghèo.
Các nhóm sinh viên đã tạo dư luận trong quần chúng, chống lại việc cộng-sản đưa đồng bào thành phố, nhất là các gia-đình có thân nhân đi cải tạo tới vùng kinh-tế mới để có dịp lấy nhà, cướp của.  Sự chia rẽ tình cảm gia-đình tại miền Nam đã nuôi dưỡng lòng căm thù, cộng-sản càng sắt máu, lòng bất khuất càng gia tăng.  Không khí miền Nam vì vậy mà bất ổn.
Hắn chưa muốn ngừng, giọng đầy tức giận:
-"Chỉ với tội này anh đã đi cải tạo lâu rồi.  Hơn nữa anh là một thứ CIA nằm vùng, cài người ở thế chiến đấu trường kỳ.  Anh cứ đi cải tạo đi, khi có đủ chứng cớ anh sẽ trở về đây làm việc tiếp tục...."
Quả thực hắn hơi dao to búa lớn, đánh gía anh quá cao với tội trạng "đầu não phản động".  Trong thâm tâm anh và các bạn luôn đặt nặng về mặt chìm, vì cán bộ nòng cốt là căn bản cho cuộc chiến đấu lâu dài.  Nhưng quả thật khó khăn, sau ngày miền Nam mất, Sài-gon như vừa trải qua một cơn sốt nặng.  Mọi người chưng hửng vì hạnh phúc phút chốc vuột khỏi tay mình.  Thành phần thanh niên trẻ bị khích động trước hoàn cảnh nhà tan cửa nát, nên quyết tâm chống lại cộng-sản.  Các hoạt-động như thả truyền đơn, phá hoại và kể cả ám sát các cán bộ cộng-sản đã xẩy ra khắp nơi.
Buổi lấy cung chấm dứt, anh trở về xà lim.  Anh không nhớ rõ đã ở đây bao lâu, mọi thứ đã trở thành quen thuộc, có cũng như không.  Từ ca cơm chén canh lạt mỗi bữa đưa qua lỗ gió, hay chịu bụng đói khi anh trở về trễ giờ. 
Sau hai tháng lấy cung không ngưng nghỉ, anh cảm thấy mệt mỏi, muốn tạm quên trong giấc ngủ , nhưng khó mà chợp mắt.  Từ sáng sớm đến chiều tối anh đã điên đầu vì chiếc loa phóng thanh cỡ lớn luôn ở vị-trí hướng vào dẫy xà lim, với lời lẽ sắt thép của "người nói", hòa lẫn giòng nhạc đỏ đầy máu lửa, mà âm thanh cuồn cuộn dưới mái che, dội xuống lỗ trần xà lim như những mũi kim xoáy vào óc, làm xót trái tim người ngồi trong.  Anh có cảm nghĩ mình như người bị nhốt trong chuông, âm thanh từ chiếc vồ vỗ vào chuông làm người ngồi trong đau đớn gấp nhiều lần hơn là tra khảo đến rách da chẩy máu.  Nhiều lúc anh phải lấy mền che kín đôi tai, hầu đỡ đi phần nào âm vọng của chiếc loa với lời hiệu triệu tôn vinh.  Ðôi khi tiếng loa đưa ra lời kêu gọi đoàn-kết, yêu thương để có hoà-bình.   Biểu tượng chim bồ câu được hòa lẫn trong sóng nhạc, nhưng âm hưởng vẫn còn nhuốm đầy sắt máu, khó mà có hoà-bình đằng sau.
Nhưng vào những buổi trời mưa như tối nay, căn phòng tối đen, không có một chút ánh sáng lọt vào.  Ô cửa nhỏ đã đóng kín, không có lấy một chút gió lùa qua khe.  Nỗi buồn từ đâu đó dâng lên bất chợt. Anh có cảm tưởng mỗi ngày một xa dần gia-đình, khó còn cơ hội trở về…
Sau vài ngày nghỉ ngơi, Kim tiếp tục đi lấy cung.  Anh gặp những khuôn mặt mới.  Anh đã ra khỏi phòng từ sáng sớm đến trước giờ cơm chiều, từ sau buổi trưa và trở về phòng khi đã lên đèn.  Nhiều lúc anh bị dựng dậy khi giấc ngủ chập chờn.
Tập hồ sơ cá nhân của anh ngày càng dầy, có lẽ chỉ ghi chú những lời nhận xét gắt gao.  Lâu ngày trong tù anh đã nhận thức được thực tế, không còn gì phải ngán sợ.  Không cung khai thì tội cũng đã thành lập, cái gía mà anh phải trả cùng lắm là tội chết.  Nếu anh phải chết, đối với bọn cộng-sản, có van lậy kêu xin cũng thế thôi.  Huống hồ anh có phải là hạng người có hành động hèn nhát này không.  Mặc dầu là người tầm thường, anh cũng không thể để vết nhơ cho bạn hữu, cho những người xung quanh.
Khi gặp Hai Tiến anh mới biết mình gặp thư thiệt, không phải loại cắc-ké kỳ-đà mà anh đã gặp trong thời gian vừa qua.  Hắn là một tên Bắc Kỳ, một thứ Bắc Kỳ mà các bạn anh thường gọi là "Bắc Kỳ gian". Không phải loại Bắc Kỳ di cư như anh mà nhà nước đã tặng cho biệt danh để dễ nhớ, "B 54".  Một bí số kỳ lạ, nhưng chẳng qua để chỉ lớp người đã chán ghét chế-độ cộng-sản, phải bỏ nơi chôn nhau cắt rốn di cư vào Nam năm 1954.  "B 54" là kẻ thù của cộng-sản Hà-nội, mà hành động di cư vào Nam đã nói lên ý nghĩa không thể sống chung với chế độ bạo tàn.
Trông hắn phải ngoài bốn mươi, trắng trẻo cao ráo, nét mặt lời nói chứng tỏ có học thức.  Trông vẻ ngoài của hắn không phải gốc "bần cố" là thành được ưu đãi, vậy phải có một sự lột xác hay có thành tích kinh người như thế nào mới được tin dùng để hội nhập vào thành phần này, gốc Ðảng hẳn cũng không tầm thường.  Hắn chỉ chỗ anh ngồi.  Cả năm nay anh mới được ngồi trên ghế có tựa lưng, sự thoải mái thật hiếm có, khác hẳn giây phút ngồi trên ghế đẩu cao trước đây.  Hắn hỏi:
-"Anh có uống trà nóng không.  Chắc lâu rồi anh chưa uống, vì nhà bếp chỉ có điều kiện cung cấp nước đun sôi."
Không đợi anh lên tiếng đồng ý hay không, hắn tự ý rót một ly trà nóng trong chiếc bình thủy nơi bàn nhỏ phía sau lưng, để trên bàn trước mặt anh. 
Hắn hỏi lan man khi còn ở ngoài Bắc, anh đã ở tỉnh nào, học trường nào.  Rồi tình trạng gia-đình anh hiện giờ ra sao?  Vừa dứt câu hắn hỏi, anh trả lời:
-"Từ ngày bị bắt đến giờ tôi không có tin nhà.  Có thể vợ con tôi nghĩ là tôi đã đi xa lắm, không hiểu còn sống hay đã chết."
Hắn tiếp tục hỏi giọng thật đầm ấm, không giữ dằn, không tỏ thái độ trước câu trả lời của anh.  Kim nhủ thầm đây đúng là tay tổ, một thứ mật ngọt chết ruồi, giết người chưa chắc đã đổi sắc mặt.  Anh hiểu là hắn đã đọc kỹ lời khai của anh trong suốt thời gian qua,  nhớ không sót điều gì.  Hoàn cảnh gia-đình anh hắn đã biết tường tận, và bây giờ hắn có thể đoán biết anh sẽ trả lời ra sao.  Một cuộc đối thoại không ra hỏi cung nhưng cực kỳ nguy hiểm.  Ðột nhiên hắn bảo anh:
-"Anh ở kỷ luật đã khá lâu, lâu hơn nhu cầu của chúng tôi.  Anh cần ra đời sống tập thể, một nơi có đủ ánh sáng và sinh-hoạt bình thường để anh không bệnh tật."
Hắn liếc nhìn hai cổ tay anh, vòng còng còn in dấu đỏ, như vết bỏng vừa lột lớp da mỏng.  Nhất là khi anh cầm ly nước bằng hai bàn tay áp lại, trừ ngón cái và ngón trỏ cử động ngượng ngịu, những ngón còn lại duỗi thẳng ngay đơ.  Chắc hắn cũng hiểu chiếc còng đã tác hại trên hai tay anh.  Kim chậm rãi trả lời:
-"Cám ơn ý tốt của anh.  Ðã là nhà tù thì ở đâu cũng vậy thôi.  Có cửa sổ thoáng khí, ánh nắng chan hoà hay là nơi không phân biệt được ngày đêm, ngoại trừ hai bữa cơm là dấu hiệu của ngày, cũng chẳng khác nhau bao nhiêu."
-"Nhưng đời sống tập thể giúp anh vui hơn là sống một mình trong phòng kỷ luật."
-"Anh nói đúng, qủa có sự khác biệt giữa hai lối sống.  Ở tập thể có vui thật, vì đông anh em truyện trò giúp quên được thời gian tù đầy, và thoải mái nhất là tay chân không bị cùm xích.  Còn sống một mình trong phòng kỷ luật mặc dù cùm xích làm cho bất tiện, nhưng có cái hay là tránh được ồn ào xung quanh."
Kim thấy hắn chưng hửng, vì câu trả lời không mấy tha thiết với ý định của hắn. Chắc hắn nghĩ khi mở lời cho anh ra sống tập thể như một ân huệ đặc biệt, anh sẽ đồng ý ngay.  Hoặc giả cũng không trả lời ngang bướng bất cần, vì cả năm nằm trong phòng kỷ luật không sợ thì cũng phải chán và sẽ chấp nhận điều kiện của hắn.
Tay dở tập hồ sơ, hắn nói:
-"Hôm nay gặp anh, tôi mới tin lời anh em báo cáo anh là một người ngoan cố, không thành thật khai báo về hoạt động của các anh.  Theo như lời cung và ý-kiến của cán bộ chấp pháp ghi nhận, anh can hai tội:
." Xử dụng chiến tranh nhân dân chống lại Cách mạng.
.  Là tay sai của CIA nằm vùng cài người trong thế chiến đấu trường kỳ. 
Quả thực chúng tôi thiếu khả năng để khai thác, tôi sẽ gửi anh tới nơi có đủ phương tiện hơn ở đây."
Anh hiểu chẳng cứ gì cá nhân hắn chụp cho anh cái mũ CIA nằm vùng, mà tất cả những tên trước hắn đã ghi chữ này trên tập hồ sơ của anh, và chúng kế tiếp nhau tô cho đậm nét, ghi thêm dấu hỏi bằng mầu chì đỏ ở phía sau. Hẳn chúng thất vọng không khai thác được gì hơn.  Anh là nút thắt sau cùng, và anh đã nhủ lòng chấp nhận mọi tình huống là người cuối cùng.
Kim nhìn Hai Tiến, sắc mặt hắn vẫn không thay đổi. Giọng nói vẫn điềm đạm, không có một cử chỉ nào thô bạo. Nhưng vẫn chỉ là lời nói và suy tư của một tên cộng-sản.  Chúng sẽ đưa anh đi nơi khác, chắc không phải là Chí-hoà, vì đó không phải là nơi anh được hân hạnh tới.  Hay anh sẽ tới F gì đó như lời đồn.  Anh rùng mình khi nghĩ tới bí số này, đã có nhiều người đến đây không thấy trở về.  Ở đó có cả tầu bay lẫn tầu ngầm, cả ướt lẫn khô, với vòi nước có pha một chút sà bông cho nổi bọt.  Có cả màn nước nhỏ giọt vào miệng qua lớp khăn dầy che kín mặt.  Khăn thấm nước kín như tấm vải nhựa, phải há mồm ra thở, không muốn uống nước vẫn chẩy vào miệng.
Hai Tiến gọi một cán bộ võ trang đưa anh về phòng. Hắn im lặng nhìn anh, có phải đang thắc mắc hay ước định con mồi trước mặt.
Kim trở lại phòng kỷ luật, vui vẻ đón nhận chiếc còng, một phần thưởng mà anh không thể chối từ.  Khi anh bước qua bậc cửa, tên cán bộ phụ trách an ninh trại giận giữ nói lớn:
-"Anh vẫn ngoan cố, không thành thật khai báo tội lỗi của anh với cách mạng."
Anh quay lại nhìn khi hắn còn đứng giữa lối đi, phía sau lưng hắn là dẫy phòng tập thể, anh lớn giọng bảo hắn:
-"Tôi nói những gì tôi biết, còn ngoan cố hay không là quyền của các anh."
Anh phải tỏ thái độ với tên công-an này.  Một phần vì lòng căm hờn, mặt khác vì tập thể.  Anh không thể bôi nhọ danh thơm các tấm gương can đảm của những người xung quanh anh.  Dứt câu nói anh quay người bước vào xà lim, để mặc tên cán bộ ngỡ ngàng trước hành động của anh.  Cửa phòng đóng mạnh phía sau, nhìn qua lỗ cửa gió, anh em bên phòng tập thể đang cười vui dơ cao ngón cái.
Anh đã nghe chuyện về cụ Phan Vô Kỵ.  Vào ngày đi lấy cung, một cán bộ trẻ tới xà lim giam cụ, mặt hắn non choẹt, giọng nói đặc sệt miệt vườn miền Nam, cao giọng cộc lốc:
-"Anh Phan đi làm việc."
Cụ Phan đủng đỉnh đi ra cửa, bảo hắn:
-"Cậu gọi anh cái gì.  Cậu chỉ bằng cháu nội tôi, sao lại vô lễ với người lớn tuổi."
Sau câu nói cụ vào sàn nằm, để tên cán bộ đứng đợi ngoài cửa.  Phải, cụ thất vọng vì đạo đức dân tộc đã mất.  Ðiều thương tổn, mất mát của người miền Nam không phải chỉ là của cải vật chất, một đời sống tự do, mà là nền tảng gắn bó của gia đình đã tan vỡ, đạo lý làm người bị hủy hoại.
Bẵng đi mấy tuần không thấy chúng gọi anh đi lấy cung, cũng không thấy chúng chuyển anh đi tới nơi như Hai Tiến bảo anh trước đây.  Anh không hiểu những gì sẽ xẩy ra.  Thôi mặc, khoẻ lúc nào biết lúc ấy. 
Một buổi chiều sau giờ cơm, chợt nghe tiếng mở khóa phía ngoài, anh nhủ thầm việc đến đã đến.  Nhưng sao lại vào giờ này, sắp sửa tới giờ lên đèn, đi xa hay gần.  Cánh cửa mở, anh ngồi nhìn ra chờ đợi, tên sĩ quan an ninh đứng trước cửa nói vọng vào:
-"Trong suốt thời gian kỷ luật vừa qua, anh chứng tỏ đã có tiến bộ, nên ban giám thị quyết-định cho anh ra tập thể."     
Kim cười thầm.  Anh đã quen với phương thức này.  Chúng vừa bảo anh ngoan cố, không thành thật khai báo tội lỗi với cách mạng..., thế mà bây giờ chúng lại bảo anh có tiến bộ, là cải tạo tốt.  Anh nhớ lại câu thường nghe nói khi còn nhỏ, "nói như vẹm", có phải vì bản chất nên hay thay đổi, không làm ai tin tưởng.
Sau khi tháo còng, anh trở vào thu xếp đồ dùng cá nhân.  Nhìn quanh, anh ở căn phòng này đã lâu, chắc không trở lại nơi đây.  Không có gì để lại cho người đến sau, ngoài 4 vòng giây treo màn đã dính trên tường.
Anh bước ra khỏi phòng, theo tên cán bộ đưa anh tới căn đầu sát với cổng gác phía ngoài.  Anh vào phòng 1 Khu C1.  Chỗ ngủ chật chội nhưng vui, có dịp biết thêm bạn mới, nghe được lắm chuyện hay.
Khi vào phòng, anh gặp nhà văn Duyên-Anh làm trật tự phòng.  Thực ra trước kia anh chỉ nghe tên qua các tác phẩm xuất bản, nhưng chưa một lần gặp mặt.  Theo lời anh Duyên Anh kể, mới hay anh là giai tế của một gia đình đại điền chủ miền Tây.  Kim cám ơn khi anh Duyên Anh xếp cho chỗ nằm.  Anh thấy thoải mái được duỗi thẳng hai chân, không phải chân co chân duỗi co quắp như mọi ngày.  Anh nằm bên mấy em sinh viên can tội phản động, nghe các em kể chuyện đã làm trước khi bị bắt, Kim cảm phục những người bạn nhỏ này.  Kim gặp anh Nguyễn Ngọc Đỉnh, một nhà báo ở trong phòng.
Trong thời gian tù đầy vừa qua, anh đã gặp những bộ mặt thật hèn nhát khiếp nhược.  Chỉ vì miếng cơm cho no bụng, một lời hứa xuông sớm được về xum họp với gia-đình mà phản bội anh em, báo cáo sinh hoạt trong phòng hầu củng cố lòng tin nơi kẻ thù.
Anh thông cảm vì hình phạt tra tấn tàn nhẫn, con người mất đi lòng tự chủ nên có hành động lầm lẫn.  Nhưng khó có thể chấp nhận khi thấy một em học sinh được húp vài thìa nước cặn bát mì gói trước khi đi rửa tô, hay được hút vài hơi còn lại của mẩu thuốc lá Vàm-cỏ đã cháy quá ngấn chỉ vàng trước khi em đi vất tàn.  Con người ở trong hoàn cảnh này đã không chia nhau tình thương thật sự, vẫn còn tính lợi dụng xưng tụng đại ca với các em nhỏ.  Ðúng ra các em phải được nâng dắt, hướng dẫn về mặt tinh thần để có đủ can đảm chịu đựng.  Mọi người trong phòng có nhận định, với loại người này dùng thời gian đời người cho hắn tù đầy với những tủi nhục, vẫn không làm hắn mở mắt thay đổi được bản chất.
Nhưng cũng ở nơi này, anh đã thấy những gương mặt kiên cường, một tấm lòng thật dũng cảm ở bất cứ tuổi nào.  Từ cụ già tóc bạc gần đất xa trời, đến những khuôn mặt còn măng sữa chưa hẳn có một lần lầm lẫn trong đời.  Anh  khâm phục lòng quả cảm, gương hy sinh, tình đoàn kết huynh đệ của họ.
Vào buổi sáng tháng giêng năm 1977, có lệnh các phòng tập trung nơi hành lang sát cổng.  Ban giám thị mang từng chồng hồ sơ tới.  Anh em thắc mắc có gì khác biệt giữa hai mầu bìa xanh với vàng.  Bốn chữ TTCT viết ngoài bìa mầu vàng còn quá xa lạ.  Kim được gọi tên, tập bìa mầu vàng theo anh lên đây từ trại Băng Ky, bây giờ lại thêm chữ TTCT thật lớn phía ngoài.  Anh trở về phòng, cũng chẳng biết cuộc đời của mình có gì thay đổi trong những ngày sắp tới.
Hơn một tuần sau, anh được gọi tên đi làm việc, không phải đến nơi lấy cung cá nhân như những lần trước, mà là hiện diện cả nhóm.  Anh gặp lại Nguyễn-tiến-Ðạt và một số anh em khác sau một thời gian xa cách.  Người anh gặp là Năm Trà, cán bộ cao cấp nhất của trại.  Hắn nói nhiều về chính sách khoan hồng của Ðảng và Nhà nước, ca tụng chế độ.  Hắn đặt câu hỏi:
-"Sau khi đánh đuổi bọn xâm lược ra khỏi quê hương, nước nhà đã thống-nhất từ Bắc vào Nam, đã độc-lập tự-do, vậy nguyên động-lực nào thúc đẩy các anh tham gia lực lượng phản động, chống phá cách mạng...."
Hơn ai hết, trước khi tiến chiếm miền Nam, họ đã hiểu rõ tâm ý của người miền Nam là không thích chế độ Cộng-sản.  Nhưng sao vẫn lại là câu hỏi này, hay họ vẫn mong tìm lời giải cho một thực tế làm họ ngỡ ngàng.  Họ luôn đề cao chính-nghĩa giải-phóng dân tộc , đã mang cho nhân dân toàn vẹn ý nghĩa câu nói "VN dân chủ cộng hòa độc lập tự do hạnh phúc", mà cuộc Nam chiếm ghi nhận như một đại thắng, mới chỉ thực hiện được vỏn vẹn mặt ngoài của hai chữ độc-lập.  Còn Dân chủ có phải thể hiện cho hành động người dân làm chủ, là ý niệm tiên khởi thúc đẩy giai cấp đấu tranh, làm nên cuộc cách mạng tháng 8, nhưng tiếc thay vẫn nằm trong sự quản lý của nhà nước.  Hay dân tộc này còn ngu dốt, vẫn cần một thứ cạp-rằng để phân phối nhân quyền.  Vì vậy người ta đã dùng nét thật đậm để đóng khung hai chữ Tự-do.
Hắn chỉ từng người phát biểu.  Bác Nam Kinh trả lời:
-"Các ông có hành động không đi đôi với lời nói.  Trước khi chiếm miền Nam, các ông biết miền Nam không chấp nhận chế độ cộng-sản, nên đã tuyên bố Trung lập hóa.  Sau khi chiếm trọn miền Nam các ông đã đi ngược lại lời nói, phản bội nhân dân miền Nam…"
Hơn ai hết, khi phát biểu lời nói tự sát này bác đã hiểu câu nói từ ngàn xưa "mạnh vì gạo, bạo vì tiền", nhưng cộng sản sâu sắc hơn, họ áp dụng câu "mạnh vì gạo" nên xiết cổ họng, túm dạ dầy người dân, Và hơn thế nữa, họ còn mạnh vì "bạo".  Phải, họ có bạo lực, một thứ vũ khí thường dùng để đạt được mục đích.
Thành phần trẻ diễn tả dứt khoát hơn:
 -"Chúng tôi nổi dậy phong trào chống cộng vì nhân dân miền Nam không chấp nhận chế-độ cộng-sản."
Ý nghĩa các câu trả lời thật rõ rệt.  Nó chứng tỏ cộng-sản không phải là của nhân dân, đã vì nhân dân và cũng chẳng phải từ nhân dân mà ra.


 6
Chân trời cải-tạo
(Trại Gia-rai Long-khánh)
Qua khỏi khung cửa tò vò Kim mới biết chắc là mình sẽ không trở lại nơi này, một hỏa ngục trong xã-hội loài người.  Một nơi không có công lý, chẳng chút tình người, chỉ thể hiện bạo quyền cưỡng chế, đang bóp chết những tinh-hoa miền Nam.  Một nơi đang được củng cố, tô điểm, hóa trang trở thành "trung tâm cải tạo trường kỳ" dành cho những người chống Cộng bằng tư-tưởng.
Nơi đây anh đã tập quen trong bóng tối, với nếp sống cô đơn, như con tầm ngủ quên trong kén hẹp.  Anh đã chịu đựng những hình phạt tàn phá cơ thể, mà thời gian kéo dài đôi lúc tưởng chừng lòng kiên trì như chùng xuống, tan biến vì những đau thương khổ ải.  Rồi bất chợt lòng bất khuất vùng dậy, như lây tính kiên cường của những người xung quanh, như anh đang uất hận về niềm đau của chính mình, của các bạn tù đang trải qua sóng gió.
Anh đã ở trong khuôn tò vò này cả năm.  Khung trời cao, làn gió mát thật hiếm muộn.  Anh có cảm giác như ở sâu dưới đáy giếng, chơi vơi nơi chín tầng địa ngục.  Xa hẳn bầu trời trần thế, kiếp sống con người thật vất vưởng tầm thường.
Kim bước lên xe chở khách, hưởng chung chiếc còng với người bạn đồng hành.  Không hiểu họ đưa anh tới đâu, có phải như Hai Tiến đã nói, sẽ đưa anh tới nơi nhà cao cửa rộng, đời sống "dư thừa phương tiện".  Anh sẽ được nhìn thấy bầu trời cao, hưởng làn gió mát và nắng vàng sẽ làm lành vết thương đang rêm nhức trên cơ thể, hay anh sẽ tới nơi tối ám, thê thảm hơn những gì đã trải qua.  Chẳng có gì báo trước. Nhưng dù sao anh vẫn mong có sự thay đổi, dù xấu hay tốt, vẫn là một điều mới lạ.
Xe qua khỏi cổng gạch, anh cảm thấy lòng mình vẫn dửng dưng, không chút lưu luyến dù ở đã lâu.  Có chăng, anh nhớ tới các bạn đang tiêu hao cuộc đời sau cánh cửa kia, khó hẹn một lần gặp lại.
Bây giờ gần Tết Nguyên Đán mà Lăng Ông vắng bóng người cúng lễ.  Chẳng bù mọi năm, vào lúc này đã đông người.  Còn ngày Tết thì khỏi nói, anh như mất hút trong biển người, đèn nến sáng rực, khói hương nghi ngút.  Khung cảnh trang nghiêm như cho con người có thêm niềm tin trong sự sống.
Ðến chợ Bà Chiểu, các dan hàng hoa qủa dựng trước chợ thưa vắng.  Người mua bán ít hẳn đi.  Trước kia vào giờ này, muốn đi qua đây là một điều vất vả.  Xe không dám chạy nhanh, vì đi bộ còn phải lo tránh người.  Người miền Nam tận dụng câu "no ba ngày Tết", tận hưởng giây phút hạnh phúc, gia-đình xum họp để bù khi vất vả cả năm. 
Nhưng bây giờ cũng ở trên phần đất này, vẫn thời điểm này sao cảnh cũ đâu mất.  Có phải đời sống đã thay đổi, cơ hội xum họp của người miền Nam không còn, vì cha lìa con vợ xa chồng.  Sự chia rẽ đột ngột, đau thương đã làm người dân miền Nam chết lặng.  Ðã uống cạn chua xót thay thế cho hân hoan, biến đổi không khí vui tươi của ngày Tết trở thành buồn tẻ, tang tóc.
Xe lọt vào xa lộ Sài-gon Biên-hòa, qua khu nghĩa trang quân đội, gợi nhớ bức tượng tiếc thương, tủi phận cho những người con đã hy sinh để bảo vệ mảnh đất tự-do miền Nam, lại một lần tan nát. 
Con đường càng trở lên rộng thênh thang vì vắng bóng xe hơi.  Qua Thủ-đức rồi Biên-hòa, vượt qua khu rừng trồng gỗ giá-tị thẳng tắp hai bên đường là tới Dầu Giây, Long-khánh.  Kim nghe nói tới trại Long-giao, chả lẽ họ đưa các anh tới đây.  Trại đã chứa cả chục ngàn cải tạo.  Khi xe vào địa phận Long-khánh, thấy xuất hiện nhiều quân nhân cải tạo, quần áo trận rách tả tơi.  Họ tin lời Nhà nước đi học một tháng, bây giờ mới hơn một năm mà thân thể đã xơ xác.  Xe tiếp tục đi thẳng tới Gia-rai, rẽ vào đồi Phượng Vì, đối diện với ga xe lửa. 
Kim xuống xe, anh được tháo chiếc còng tay, mọi người vào hội trường để phân phối chỗ ở.  Ðợt này có gần 100 người, chia làm hai đội, ở hai căn nhà vách gỗ mái lợp tôn thiếc nơi cuối sân trại.
Nhân số trại đã lên gần ngàn người gồm đủ mọi thành phần.  Một nửa trại là tù hình sự di chuyển về từ trại Bù-gia-Mập, Tây-ninh.  Nghe các em nói số người bị chết rất nhiều.  Phần vì quá đói, bệnh tật không có thuốc chữa, hoặc trốn trại bị bắn khi vượt qua hàng rào, hay lọt vào bãi mìn xung quanh trại. 
Hai đội mới đi làm chung.  Sau cả năm bị cùm xích trong phòng kỷ luật, ăn uống hạn chế và thiếu dinh dưỡng nên chân tay yếu đuối, thân thể bạc nhược. 
Công việc lao động đầu tiên là vác đá làm bờ ngăn suối nước thành hồ nuôi cá đã là một thử thách lớn.  Ðội có một quản giáo và khi đi lao động có hai võ trang đi kèm.  Ngày đầu lao động bình thường, ngày thứ hai vẫn làm công việc vác đá đắp bờ.
Một buổi sáng làm đã lâu, một sinh viên tên Đinh Vượng xin phép cán bộ cho đi vệ sinh.  Cán bộ võ trang lớn tiếng nạt không cho đi và bảo Vượng về chỗ lao động.  Thấy Vượng trở về hàng, có anh hỏi:
-"Không cho đi hả?"    
Vượng vui vẻ trả lời:
-"Nó không cho đi."
Tên cán bộ võ trang tức giận khi nghe thấy Vượng trả lời, hắn gọi Vượng trở lại, bắt ngồi xổm trước mặt hắn, rồi bất thình lình hắn nhẩy tới lấy dép râu đánh Vượng.
Anh em trong hàng theo rõi sự việc, và khi hắn đánh Vượng mọi người đồng thanh nói lớn:  "Không được vô cớ đáng người." cùng lúc anh em dàn hàng ngang, tay cầm đá tiến lên.  Tên võ trang vội ngừng tay đánh, cùng hai tên kia dàn hàng ngang, đạn lên nòng hướng mũi súng về phía anh em cải tạo.
Tiếng la hét của anh em cải tạo ầm vang, khiến sĩ quan trực trại phải xuống can thiệp, cho đội nghỉ lao động và trở vào hội trường sinh hoạt.
Trong buổi sinh hoạt, tên cán bộ văn hóa trại đã phải ép mình nhận cán bộ võ trang đã đánh người trái phép, nhưng về phía anh em cải tạo cũng có lỗi vì vi phạm kỷ luật lao động, có hành động chống đối.
Có lẽ để tránh những cuộc chống đối xẩy ra khi tập trung một số đông mà đa số là thành phần chống cộng, trại tách rời hai đội trong khi lao động.  Ðội Kim lãnh phần khai quang khu đất trước trại.
Chế độ lương thực giảm sút, những bữa cơm trắng như trước không còn, đã trộn chung với khoai mì thái lát phơi khô.  Không hiểu lưu kho bao lâu, dù nấu kỹ vẫn cứng, mầu trắng đã đổi thành mầu vàng.  Số cân lượng cũng ít đi cho mỗi bữa ăn.  Không rõ độn bao nhiêu phần trăm, mà chỉ thấy lác đác vài hạt cơm bám ngoài miếng sắn.  Hay những bữa mì sợi luộc đong đủ một chén ăn cơm.  Ăn không đủ no và thiếu chất bổ đưỡng, sức khoẻ tù nhân sa sút.
Thời gian ở trại Phan-đăng-Lưu, khi chuyển ra phòng tập thể Kim được biết nhiều chuyện về thăm nuôi qua những lá thư lén gửi trong khi đưa quà.  Anh được nghe nhiều chuyện thương tâm ở ngoài.  Một lá thư gửi vào xin chồng tha thứ, vì hoàn cảnh không giữ được lòng trong sạch, dù tình vẫn mặn nồng, vẫn yêu thương như thuở nào... Người bạn tù đã nhiều đêm không ngủ.  Hay được tin khi gia đình bạn đến thăm nuôi cho hay, người vợ đã không còn ở căn nhà cũ.
Ngay khi đó anh và các bạn tù có chung một ý nghĩ, là đời sống thay đổi quá đột ngột, xô đẩy người đàn bà vào bước đường cùng.  Phải bươi chải trong một xã hội mà thành phần cầm quyền sẵn có bạo lực, dùng mọi cách chiếm đoạt những thứ trong tầm tay.  Một hành động vô tình hay do một chính sách, như xẩy ra tại các nước láng giềng, đã phá vỡ truyền thống đạo đức của gia đình người miền nam, và đào sâu lòng thù hận.
Khi đến trại này anh đã chứng kiến nhiều cảnh thăm nuôi vui buồn lẫn lộn.  Từ sáng sớm, từng gia đình mẹ con bà cháu dắt díu nhau, tay xách nách mang đi qua chỗ anh lao động.  Mới gần hai năm đổi mới, người miền Nam đã thay đổi, mất đi dáng vẻ thong thả, thoải mái ngày xưa.
Mới vào tháng 3 không khí đã oi nồng.  Căn trại mái lợp tôn thiếc nóng như lò hấp trộn lẫn hơi người chen chúc trong căn phòng nhỏ càng thêm ngột ngạt.  Sàn nằm trải đều những thân cây đước tròn cong queo gồ ghề cấn dưới đáy lưng, khiến giấc ngủ sau ngày lao động vất vả vẫn không trọn.  Muỗi rệp thi nhau hoành hành hàng đêm.  Thỉnh thoảng pha lẫn tiếng động của chiếc nón cối va mạnh vào vách gỗ.  Nhiệm vụ của đám công an trại không những canh gác ban ngày mà còn theo rõi ban đêm.
Kim nhờ người bạn cùng phòng có gia đình đến thăm nhắn tin về nhà.  Ðã hơn một năm anh chưa gặp mặt vợ con, không rõ gia đình anh có gì thay đổi trong khi anh vắng nhà, biết có an toàn hay không.  Chắc đời sống phải cực nhọc, làm sao vợ anh có thể vật lộn trong cuộc sống với 5 đứa con còn thơ dại.  Không biết các con anh có được đi học không, hay đứa lớn phải coi chừng đứa bé để mẹ chúng ngược xuôi kiếm sống.  Liệu chúng có bị gạt ra khỏi ngưỡng cửa học đường vì là con cái ngụy, như trường hợp các em nhỏ bị bắt kể lại.  Hay chúng được chính sách "trăm năm trồng người" của Bác dẫn dụ, huấn-luyện để trở thành những anh hùng Xã hội Chủ nghĩa, chỉ biết có Ðảng và vì Ðảng.  Chúng được khích lệ mong có được chiếc khăn quàng đỏ, dấu hiệu cháu ngoan Bác Hồ, như một số trẻ em sau ngày 30/4, một sớm một chiều trở thành cán bộ cách mạng, hy sinh cả tình nghĩa gia-đình.     
Anh nhớ khi còn nhỏ, cả miền Bắc sôi sục tinh thần yêu nước chống thực-dân đô-hộ.  Chiến tranh lan rộng, gia đình anh rời Hà-nội về quê Nam-định.  Cũng như những trẻ nhỏ cùng tuổi, anh được đoàn ngũ hóa, vào đội nhi đồng cứu quốc.  Hàng đêm được hướng dẫn, sinh hoạt khơi dậy lòng yêu nước thù hận thực dân.  Ở tuổi ngây thơ dễ khích động, anh đã muốn trở thành một thứ Kim-Ðồng, thần tượng trong lứa tuổi của anh, đã hãnh diện có tên trong đội "Kim-đồng", và hàng đêm ca vang: "Anh Kim-đồng ơi tuy anh qua đời, gương anh sáng ngời…"
Anh lớn dần trong khung cảnh huyền hoặc, ngổn ngang thần tượng được thổi phồng, những mong có tên trong đội thiếu niên tiền-phong, với tinh thần sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc.
Một thoáng mấy chục năm qua đi, anh có nhiều dịp để nhận định những gì xẩy ra trong quãng thời niên thiếu của mình, và sự việc trong hiện tại chứng tỏ phương pháp "trồng người" vẫn còn ăn khách.  Chiếc bánh vẽ vẫn hấp dẫn, với Kim-đồng, với chiến sĩ ôm bom ba càng công đồn phá địch, với thảm cảnh lấy thân người làm con chặn các bánh xe đại pháo tuột dốc trên đỉnh cao Ðiện-biên-phủ ngày xưa, đến các đoàn người trải thân trên đường mòn Hồ-chí-Minh ở giai đoạn này.   Một Nguyễn-văn-Trỗi ôm mìn phá xe tại cầu Công-lý, hay các cán bộ nửa vời sau ngày 30/4, là chứng tích ghi nhận sự thành công của phương pháp.
Anh khâm phục lòng yêu nước chống thực dân của người xưa, nhưng bây giờ bản chất của Cộng-sản bị phanh phui, vẫn còn những người hy sinh một cách ngây dại.  Có phải vì lòng yêu nước, hay chỉ là chút mùi thơm của bánh vẽ, hay vì kỷ-luật khống chế bản thân và gia đình qua lon gạo ký khoai.  Anh nhớ lời người anh họ từ Hà-nội vào Nam thăm gia đình anh cách đây không lâu: "Chúng tôi chẳng ưa gì chế-độ cộng-sản, nhưng làm sao được, không ai dám thò đầu qua răng bánh xe."  Cho nên anh vẫn ngờ ngợ về tính anh hùng đó, nó có vẻ ngây thơ, khờ dại như vừa húp bát cháo lú để biến thành một thứ công cụ đầy nhiệt tình, biến đổi bản chất đạo đức như anh đã từng gặp nơi đám cán bộ.
Anh đã viết mấy dòng nhắn tin về nhà, cũng mong thư tới tay vợ con. Nghĩ đến viết thư anh không khỏi tức cười.  Khi ở trại Phan-đăng-lưu, viết thư là một lợi khí mà cán bộ thường dùng để dẫn dụ tù nhân phải khai báo thành thật về hoạt động của mình hay bạn bè.  Nó trở thành đòn cân não đối với tù nhân khi bị cúp thăm nuôi, cấm gặp mặt thân nhân vì ngoan cố trong khi khai cung.
Thư viết chưa hẳn đã được gửi.  Cách viết thư phải lưu ý từ nội dung đến hình thức.  Chẳng hạn dòng chữ đầu:  "Thành phố HCM ngày…" phải viết thật tự nhiên.  Tên thành phố chữ viết đi lên hay đi xuống khỏi hàng đều bị cho là một dấu hiệu thông tin với bên ngoài, hay ghi nhận có tư tưởng phỉ báng lãnh-tụ.
Công việc khai quang khu đất trước trại hoàn tất, đội anh được chuyển tới cuốc lật vùng đất hoang phía bên trái trại, với dụng ý biến đồi cỏ tranh thành vườn trồng khoai mì.  Công việc khá cực nhọc và nguy hiểm.  Trước hết phải khai quang trên mặt đất, sau đó mới cuốc sâu để lấy hết đám rễ tranh.  Nhưng chen lẫn với rễ tranh là những trái đạn súng cối còn nguyên vẹn, lưu lại sau những lần pháo kích.  Anh em phải gom những trái đạn đào được cho xuống dưới hố sâu, lấy cỏ đốt để phá hủy.
Phía sườn đồi bên kia nguy hiểm hơn.  Mặc dù những trái mìn đã lấy đi nhưng còn nhiều trái không để lại dấu vết, dụng cụ tìm mìn lại không có, hơn nữa không phải là chuyên môn, nhiều trái phát nổ khiến nhiều người mang thương tích, què chân cụt tay.
Mới cuối tháng 3 thời tiết như thay đổi, mặt đường bốc khói khiến đôi bàn chân trần nóng bỏng.  Những ao nhỏ cạn dần chỉ còn là những vũng nước đục.  Giếng nước đã nhìn thấy đáy, nước múc lên như pha bùn.  Chiếc áo xanh trại phát đã rách tay, bạc mầu luôn ướt đầm mồ hôi khi lao động.  Nắng đã nhuộm nâu khuôn mặt và thân thể gầy còm của Kim.  Anh đang nóng lòng chờ tin nhà sau khi nhờ bạn nhắn tin. 
Một hôm ban trật tự cho hay anh được nghỉ lao động buổi sáng để gặp mặt thân nhân.  Lòng mừng vô hạn, đã hơn một năm xa nhà, không biết những ai lên thăm anh.  Anh sửa soạn lại áo quần, chiếc áo trại duy nhất đã giặt khô từ tối hôm qua, chiếc quần dài ít dùng nên khác với mầu áo.  Anh cạo lại hàm râu bằng nửa mảnh lưỡi lam, vuốt lại mái tóc đã pha nhiều sợi bạc.  Anh ngồi đợi đến lượt gọi tên mình.
Nhà thăm nuôi nằm ngoài vòng rào, ở phía bên trái cổng trại.  Căn nhà nhỏ không đủ chỗ cho thân nhân tới thăm.  Từ xa đã nhìn thấy vợ con anh đứng trước cửa.
Các con anh chạy lại khi thấy bố, chúng lớn hơn lúc anh ra đi.  Còn vợ anh, chiếc áo cánh nâu nhạt ôm sát thân hình gầy ốm.  Khi anh đến gần nét mặt nàng hớn hở, nhưng vẫn không làm sáng hơn làn da đen vì nắng gió.  Tóc nàng có uốn chải nhưng rất vội vàng.  Anh tội nghiệp cho vợ, vẻ đẹp kiều diễm ngày xưa đã giảm đi nhiều. 
Bước vào nhà thăm nuôi, chọn ghế nơi góc nhà, anh ôm các con vào lòng như muốn tận hưởng, chia xẻ tình yêu thương đã thiếu vắng từ lâu.  Anh quay sang nắm tay vợ, bàn tay nàng chai nhám, cánh tay khẳng khiu.  Nhìn các con anh thầm cám ơn vợ, nàng đã hy sinh cho chúng thật nhiều.  Nàng chẳng kể gì đến nhan sắc của mình, và bây giờ còn lo lắng cho anh. 
-"Em có khỏe không, trông em gầy quá."
-"Em vẫn thường, từ lúc anh ra khỏi nhà mấy mẹ con em lo quá.  Không biết anh ra sao, liệu còn gặp được nữa không.  Em ra Phường Quận hỏi, mặc dù họ tới bắt anh mà vẫn trả lời không biết anh ở đâu.  Em rất mừng khi nhận được tin anh nhắn về."
-"Các con có ngoan không em?"
-"Chúng rất ngoan nên em cũng yên tâm phần nào."
-"Còn bố mẹ và me ra sao?"
-"Bố mẹ khỏe dù có gầy hơn trước.  Các cụ lo lắng cho anh, nhất là mẹ khi nhắc tới anh cụ lại khóc.  Còn me cũng không được khoẻ, sáng tối cụ thắp nhang cầu xin cho anh sớm được trở về."
Nghe vợ nói anh thương mẹ vô cùng.  Cả đời bà lo lắng cho chồng con.  Còn mẹ vợ anh thật tội nghiệp, đất nước phân đôi gây ra cảnh chồng Bắc vợ Nam, đã chia cắt tình yêu thương nơi Bà.  Anh kính trọng bà đã để lại gương sáng cho các con về lòng chung thủy. 
-"Ðời sống gia đình ra sao, chắc em cực lắm phải không.  Anh thật buồn không giúp gì được cho em…"
Anh biết mình hỏi chỉ để mà hỏi, khi bước chân ra khỏi nhà anh có gì để lại cho vợ con đâu.  Những thứ có gíá trị đồng tiền đã theo nhau chạy ra đường từ ngày Bác tới.  Có chăng anh chỉ để lại cho nàng gánh nặng gia đình với 5 đứa con thơ dại, và sự lo âu khó lòng vợ gặp lại chồng.
-"Sau khi anh đi em vẫn đi buôn chợ trời.  Như anh biết, khi bán hết đồ nhà, em đi mua lại đồ dùng của các gia đình gần khu mình ở, đem bán lại tại chợ.  Khi có anh ở nhà, anh lo sửa chữa tân trang các thứ trước khi đem bán, tiền lời kiếm khá hơn.  Sau này có mình em nên đành chịu, hơn nữa số người buôn bán như hoàn cảnh em ngày một đông, hàng nhỏ hiếm dần, nên em chuyển qua buôn đồ gỗ như tủ giường bàn ghế."
-"Ðồ đạc nặng thế làm sao em khuân vác nổi?"
-"Không có anh, những gì quá nặng em không làm nổi phải thuê xe giao bán cho mối.  Vì vậy số tiền chi ra cũng nhiều.  Rồi những người đi mua đồ về bán nhiều hơn số người có hàng bán ra, vì cạnh tranh nên gía hàng lên xuống bất thường.  Em chỉ mong kiếm chút lời thêm thắt cho các con.  Nhiều khi hòa vốn, không lỗ là may."
Anh hiểu nỗi khổ tâm của nàng.  Vợ chồng anh đã làm nghề này sau khi miền Nam bị xâm chiếm.  Anh làm bất cứ việc gì để có tiền cho gia đình sống qua ngày.  Anh đã chứng kiến sự khó khăn của người đàn bà đơn độc trong một rừng người cả xấu lẫn tốt, đạo-đức và vô luân.  Nàng quá hiền lành ngay thẳng, khó có thể đương đầu với những người gian manh lừa lọc.
-"Hiện giờ em còn đi buôn chợ trời nữa không?"
-"Em nghỉ bán đã lâu vì không có lời lại gặp nhiều phiền phức, nên em chuyển qua buôn hàng chuyến.  Em thường lên Dầu giây Long-khánh buôn thực phẩm cũng như than củi về bán cho các mối ở chợ Ga."
-"Em đi buôn như thế cũng vất vả lắm, em lại không khỏe, đau ốm thì tội nghiệp.  Các con còn nhỏ quá không giúp được gì cho em."
Lòng anh quặn thắt.  Anh thương vợ con nhưng làm sao đây, biết an ủi nàng thế nào vào hoàn cảnh này.  Nàng đang phải đối diện với thực tế mà không thể nào trốn chạy.
-"Em chỉ phải dậy sớm cho kịp chuyến tầu, còn cũng không đến nỗi nào.  Anh yên tâm về mẹ con em."
-"Còn các con có đi học đều không em?"
-"Các con vẫn đi học và học khá lắm, được thầy cô khen luôn.  Hơn nữa có nội ở nhà kèm nên em đỡ lo.  Các con còn nhỏ nên chưa có gì trở ngại.  Có lẽ người ta nghĩ tuổi chúng còn măng sữa, chưa chịu ảnh hưởng nhiều với nếp sống của miền Nam trước đây, chúng sẽ dễ dàng khuyến dụ, thay đổi.  Chỉ có lớp tuổi vào Ðại-học là gặp khó khăn, khó được chấp nhận vào học khi xét hồ sơ ở thành phần có thân nhân đi cải tạo."
-"Như vậy anh cũng yên tâm phần nào về các con."
-"Nhưng có một điều làm em vẫn lo lắng là đường lối giáo-dục, vẫn nặng tính nhồi sọ về chính trị hơn là trang bị cho đứa trẻ số kiến-thức cần thiết để thích ứng và phát triển đời sống xã-hội.  Vẫn còn chiêu bài "đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào".  Vô tình làm mất bản chất tự nhiên trong sáng của tuổi trẻ, và khơi dậy lòng căm thù với cả ông cha của chúng.  Em không rõ thế hệ này sẽ đi về đâu, và Quốc gia này phát-triển làm sao khi bị ràng buộc bởi  khuôn mẫu thiển cận."
Anh thông cảm nỗi lo âu của vợ.  Chẳng ai lạ gì chính sách này, và người miền Nam đang lo ngại con em của họ thấm nhuần tư tưởng độc hại mà dân chúng miền Bắc đã phải gánh chịu trong mấy chục năm qua, đã phá vỡ nền tảng văn hóa dân tộc kéo dài hàng nhiều thế-kỷ. 
Anh đã dự buổi sinh-hoạt nhà giáo nhân ngày "nhà giáo yêu nước", vẫn đặt nặng về mặt chính-trị hơn là giáo dục.  Ðề cao ba dòng thác cách-mạng, bài xích văn-hóa miền Nam là nô-dịch đồi trụy.
Người ta làm lại công việc "đốt sách giết học trò" như lịch sử Trung-hoa đã làm.  Chỉ khác có một điều, thay vì giết chết ngay, người ta bắt chết dần mòn trong các trại cải tạo, để được tiếng là khoan hồng nhân đạo.
Rồi đến âm-nhạc mang tính dân tộc, phủ đầy tình yêu thương cũng không còn.  Cả thành phố chỉ còn một loại nhạc cách-mạng, mệnh danh là nhạc đỏ với sắc thái tử chiến.  Người miền Nam nghe mãi nhạc này thét rồi cũng chán, vì nó không đáp ứng được thói quen của một dân tộc vốn nặng về tình cảm.  Người miền Nam vẫn không quên được tiếng ù ơ, dí dầu. . . đơn giản mà nhẹ nhàng, dí dỏm mà nũng nịu, diễn tả được sự xúc động tự nhiên của con người.  Không thể chấp nhận thứ âm-nhạc cuồng bạo phủ đầy thù hận và chém giết, một thứ âm thanh chỉ dùng vào việc thúc đẩy sự hy sinh điên cuồng cho một mục đích ảo tưởng.
Có lẽ hiểu như thế, người ta đã cố thay đổi lời nhạc êm dịu hơn, với hình bóng chim hòa bình, nhưng không hiểu sao vẫn chỉ là chiếc bình xưa cũ.  Liệu con em sẽ hấp thụ được những gì làm hành trang cho cuộc đời của chúng sau này.
Kim thấy vợ vuốt nhẹ nơi cổ tay mình, anh nhìn vợ, mắt nàng đã đỏ hoe.  Những giọt nước mắt xót thương bỗng chợt từ đâu kéo đến, đang lăn dài trên má.  Nàng nói trong tiếng nghẹn:
-"Anh về đây đã lâu chưa, em đi tìm khắp nơi mà không thấy."
-"Anh mới về đây hơn một tháng.  Lúc đầu anh ở trại Băng-Ky sau đó về trại Phan-đăng-lưu.  Anh cũng nóng ruột về gia đình nhưng không có cách nào cho em hay, khi về đây anh mới nhờ bạn nhắn tin."
-"Nhìn tay anh em biết anh đã trải qua một thời gian dài khổ cực.  Em không biết làm sao bây giờ, chỉ mong anh giữ sức khỏe và ráng chịu đựng.  Mẹ con em cần anh lắm, và luôn mong anh sớm trở về."
Nghe lời vợ, cảm thương làm anh uất nghẹn.  Anh nhìn các con, đứa lớn lên 10 còn đứa nhỏ mới vừa 4 tuổi.
Mọi người trong khu anh ở thường nói đùa, muốn tìm nhà anh chỉ cần gặp chúng, vì hai con anh giống cha như khuôn đúc.  Anh đã tạo dựng ra các con trong tình thương yêu.  Chúng lớn hơn khi anh ra đi.  Ðứa con gái lớn lên tám đã biết cơm nước giúp mẹ lo toan việc nhà.  Anh thương chúng vô cùng, đã thiếu chúng phần tình cảm cha con và trách nhiệm hướng dẫn tinh thần.  Anh chỉ biết trông nhờ nơi vợ, đã giao cho nàng trách nhiệm nặng nề.
Người trật tự nhắc giờ gặp mặt thân nhân đã hết.  Anh ôm hôn các con.  Những vòng tay nhỏ quấn quanh người anh.  Anh nhắm mắt tận hưởng thứ tình cảm ấm áp như đang len vào tim, và tự hỏi không biết đến bao giờ mới có được giây phút này.  Ðã bao nhiêu lần chia tay trong cuộc đời, nhưng không hiểu sao lần này lại bịn rịn khó rời, hay anh linh cảm thấy sự tái ngộ thật mong manh.
Anh đưa tay vòng qua lưng vợ, bảo nàng:
-"Em ráng giữ sức khỏe nhé, em lo cho các con đã vất vả lắm rồi, đừng lo lắng cho anh nhiều quá, khi có điều kiện anh sẽ viết thư về nhà."
Vợ anh đưa hai giỏ xách, nàng nói:
-"Thư anh không nói rõ, nên em không biết anh cần những thứ gì.  Em chỉ kịp sửa soạn vài món ăn, ít quần áo thuốc men.  Em mua phòng hờ đôi dép vỏ xe, không hiểu anh đi có vừa không vì chân giầy chân dép khác nhau.  Em không ngờ anh thiếu thốn đồ dùng đến thế.  Ðể tháng tới em lên sẽ có đủ đồ dùng cho anh hơn."
Kim cảm động nhận quà nơi tay vợ, anh biết trong hoàn cảnh này vợ con đã nhịn ăn nhịn mặc mua quà cho anh. 
 -"Em mua nhiều lắm rồi, anh đã làm quen với nếp sống đơn giản ở đây.  Em cần giữ chút ít phòng thân, nhất là các con chúng cần phát triển.  Anh lo lắng vì sự sống khó khăn mà sự thăng trầm có thể làm tan vỡ cuộc đời.  Em đừng quá lo lắng về anh.  Cho anh gửi lời thăm bố mẹ và me, anh cũng buồn vì không đủ bổn phận làm con với các cụ."
Nhà thăm nuôi ồn ào như chợ vỡ, với những lời nhắn nhủ, với những tiếng nấc chia tay.  Kim đứng dậy, anh ôm chặt vai vợ, thoang thoảng hương thơm mùi tóc, còn một tay nặng chĩu với bàn tay các con.  Vợ anh xách giỏ quà ra tận cửa.  Anh nghẹn lời nói với vợ con:
-"Em giữ sức khỏe nhé.  Các con chăm ngoan và nghe lời mẹ, đừng làm mẹ buồn biết không.  Nhớ săn sóc ông bà nội và bà ngoại các con nhé."
Anh tách khỏi gia đình, xách hai giỏ quà theo các bạn vào hàng.  Nhìn lại thấy vợ anh đang khóc, nắm chặt chiếc khăn tay che miệng như cố giữ để khỏi bật thành tiếng nấc.  Các con anh ngơ ngác khóc theo.  Ðứa con nhỏ bỗng vuột khỏi tay mẹ, đuổi theo anh phía sau, miệng gào lên đòi bố.  Anh đã vượt qua khỏi khung cổng trại rào kẽm gai, để lại đứa con út đứng bơ vơ giữa lối vào.  Tiếng khóc trẻ thơ như níu kéo anh dừng bước.  Anh quay lại nhìn, hình ảnh trước mắt đã nhạt nhòa.
Nhìn qua người bạn tù, nét mặt thật buồn.Trong nhà thăm nuôi, anh đã nhìn thấy ba đứa trẻ trạc tuổi các con anh chạy tới khi bố chúng đến nơi. Trên tay chúng chỉ có vài ổ bánh mì và nải chuối xứ treo trên đầu sợi giây nhựa.  Quần áo chúng mặc không mấy tươm tất, mặt đẫm mồ hôi và xạm nắng vì chiếc mũ vải vừa đủ che chỏm đầu. Quà chúng mang tới thăm cha chỉ có thế.  Bốn cha con ôm lấy nhau, chúng oà lên khóc vì thương nhớ cha lâu ngày, mà ở tuổi này đang cần tới sự săn sóc, che chở của mẹ cha.  Người cha vuốt tóc từng đứa, xoa nhẹ má chúng như muốn chùi sạch những giọt mồ hôi, những vết bụi làm khuôn mặt lem luốc vì vừa qua một đoạn đường dài.  Bàn tay lao động chai nhám đang run rẩy qua cử chỉ yêu thương.  Lòng thương xót các con làm nét mặt anh chợt đanh lại, chắc tâm tư anh đang nổi sóng, vò xé giữa thù hận và sự bất lực của bản thân. Người bạn tù hỏi các con:
-"Mẹ đâu mà để các con đi thăm bố một mình?"
-"Chúng con không biết mẹ đi đâu cả tuần nay chưa về.  Nhớ hôm nay là ngày thăm nuôi, mấy bà lối xóm cho ít tiền, chúng con mua quà lên thăm bố."
Lòng Kim se lại khi nghe tiếng trẻ trả lời.  Không hiểu vì lẽ gì người vợ không đến thăm chồng, buộc lòng rời bỏ những đứa con đã rứt ruột đẻ ra.  Có phải bị kẹt ở nơi nào trên đường kiếm sống, hay xã hội thăng trầm đã đẩy người đàn bà ra khỏi nếp sống cũ của người miền Nam.
Người bạn tù ôm chặt các con vào lòng, như muốn truyền cho các con tình yêu thương che chở, hay anh muốn nhờ vào tình yêu thương các con dằn xuống lòng căm hờn đang trỗi dậy.  Anh bất lực trước hoàn cảnh, phải chịu câm nín nuốt trọn tủi nhục.  Rồi lát nữa đây các con anh đi về đâu, đời sống của chúng sẽ ra sao.  Liệu chúng còn tồn tại và trở thành người hữu dụng, hay bị xã hội mới đào tạo thành những rác rến từng thấy trên khắp các nẻo đường.  Nhìn các con dại lòng người cha tan nát, những ước vọng anh hằng ấp ủ đã trở thành ảo tưởng, mà hiện tại chỉ còn lại lòng căm hận.


7
Vũng lầy miền Bắc
(Trại Nam-Hà)
Tin chuyển trại lan nhanh.  Tên cán bộ quản giáo đội chỉ nói mập mờ với thân tín của hắn là sẽ di chuyển một số cải tạo tới Khu 4.  Hắn cũng không nói rõ khi nào lên đường, bao nhiêu người sẽ đi và tới tỉnh nào.     
Kim vẫn coi thường việc đổi phòng chuyển trại, ở đâu cũng  thế thôi.  Xã hội này đã biến thành nhà tù khổng lồ, con người ở đâu cũng không có tự do.  Cuối tháng mới tới hẹn ngày vợ con anh lên thăm, làm sao nhắn tin về nhà.  Anh muốn vợ con biết tin anh di chuyển đi nơi khác, để nàng không lo lắng khi mẹ con dắt díu lên đây.  Vừa mới được gặp mặt sau hơn một năm xa cách, bây giờ bất chợt anh lại ra đi biệt tăm.  Chắc nàng sẽ lo lắng nhiều lắm, vì không biết số phận của chồng ra sao.  Ði lần này không biết có còn gặp lại nữa không.  Thôi còn nước còn tát,  anh ghi địa chỉ gia-đình và viết vài dòng ngắn gọn nhờ mấy người ở lại nhắn tin dùm.
Khi nghe tin đồn, mọi người chỉ nghĩ tới Quân Khu 4 của miền Nam, có thể chuyển tới Côn sơn hay Phú-Quốc.  Dù sao còn ở địa phận miền Nam vẫn còn là điều an ủi, có nhiều cơ-hội liên lạc với gia-đình.
Sau bữa cơm chiều ngày 18 tháng 4 mọi người được lệnh tập trung nơi sân trại, chưa biết rõ chuyện gì sẽ xẩy ra.  Bây giờ mới hơn 5 giờ chiều, sau chiếc bàn dài, đối diện với anh em ngồi dưới sân, cán bộ giám thị trại đọc tên từng người theo hồ sơ chất đống trên bàn.  Danh sách tổng kết có 360 người, gồm đủ thành phần từ quân nhân trình diện, viên chức hành chánh, tôn giáo đảng phái.  Nhưng đông nhất vẫn là thành phần chống cộng.  Những người không có tên trong danh sách được về phòng.
Ðây là lúc chia tay cha đi con ở lại.  Có trường hợp người con xin ban giám thị cho anh đi thay, vì cha anh đau ốm bệnh tật, ở lại gần nhà còn nhờ gia đình săn sóc thuốc men cho ông, nhưng lệnh vẫn là lệnh.
Kim ngồi vào hàng, xung quanh anh có các bạn cùng chung một chiếc còng từ trại Quận lên Thành, tới trại Phan-đăng-lưu ra vào phòng kỷ luật như cơm bữa, lại chung nhau một chuyến xe lên đồi Phượng-Vĩ, và bây giờ lại chung một danh sách ra đi.  Với những khuôn mặt thật thân thiết, từ anh Nguyễn-tôn-Tính đến Nguyễn-Tiến-Ðạt, Nguyễn Ðức-Khuân, rồi Kiệt, Hòa . . .
Ban giám thị hướng-dẫn, tư trang bỏ vào bao bố lớn, loại bao gạo 100 Kg, ngoài đề rõ họ tên, và sẽ được gửi đi riêng để tránh cồng kềnh khi di chuyển.  Thực phẩm ăn đường sẽ được cấp, mọi người chỉ mang theo chén muỗng ăn cơm.
Dù gia đình mới lên thăm được ít tuần, nhưng anh cũng không có gì nhiều.  Ngoài một ít thức ăn khô, quần áo lót với chăn màn, chiếc bao bố của anh còn quá rộng.  Các anh  có 2 giờ để sửa soạn tư trang  và có mặt lúc 8 giờ tối.
Tư trang đã gửi xong từ lâu, hàng đã chuyển lên xe bít bùng, chỉ còn đợi xe tới chở người.  Tám giờ đã qua mà vẫn không thấy gì, mọi người nằm ngồi tại chỗ.  Kim tự hỏi không hiểu sẽ di chuyển tới đâu mà phải khởi hành vào lúc đêm khuya.  Chẳng lẽ chuyến đi này cần phải giữ kín, không muốn dân chúng ngoài kia nhìn thấy.  Nhưng mặt khác, anh có suy nghĩ ngược lại là miền Nam đã nằm trong tay họ, xá gì một chút hành động không mấy chính đáng mà họ phải quan tâm.
Chín giờ đã qua đi từ lâu, rồi 10 giờ đêm vẫn yên lặng, anh không một chút nóng lòng, ngả lưng trên nền sân đất, lấy dép râu làm gối.  Mọi tối vào giờ này anh đã yên giấc sau một ngày lao động cực nhọc, nhưng đêm nay mặc dù mỏi mệt, anh vẫn cảm thấy khó chợp mắt dù chỉ trong giây phút.  Anh lan man suy nghĩ về gia đình, không hiểu giờ này mọi người ở nhà đang làm gì.  Bố mẹ anh có khoẻ không, đám con anh đã ngủ chưa.  Còn người vợ yêu thương của anh giờ này đã yên giấc, hay vẫn thao thức suy tính cho buổi chợ ngày mai cộng thêm mối lo cho số phận của chồng.
Mãi tới 10 giờ rưỡi, đoàn xe chở hàng bạt phủ kín trước sau tới xếp thành hàng dài giữa sân.  Hai người chung một còng lần lượt lên xe.  Không cần biết xe chở được bao nhiêu, miễn là có đủ chỗ đứng.  Kim và bạn lên xe sau chót, cuối xe là bốn cán-bộ võ trang.  Bửng xe đã đóng, bạt xe phủ kín.
Kim thấy xe đi ngược về phía Sài-gon, lọt vào xa lộ, rồi rẽ vào bến Tân-thuận.  Bạt sau được mở rộng, quang cảnh bến tầu về đêm hiện ra lờ mờ, chỉ có khu cầu tầu đèn thắp sáng.  Một chiếc tầu sắt lớn đang đậu nơi cầu tầu.  Xe vào tận cầu tầu, xếp theo hàng dọc.  Các anh từng xe một xuống, ngồi theo hàng đôi song song với con tầu.  Anh vẫn không mấy quan tâm về cuộc di chuyển này, vì biết là mình sẽ phải đi xa.
Thang lên tầu đã bỏ xuống, đầu và cuối hai nơi.  Ðoàn xe của anh có 360 người ngồi gần mũi tầu.  Ðèn tháp canh và phòng lái thắp sáng soi rõ phía mũi con tầu. 
Bây giờ đã gần nửa đêm, chỉ ít phút nữa bước sang ngày 19 tháng 4.  Bầu trời đầy sao, gió đêm thấm lạnh, nhờ mặc chiếc áo trận xanh nên anh được ấm phần nào.  Những người hàng đầu đã đứng lên, từng cặp tiến dần tới chân cầu thang lên tầu.  Ðằng phía lái, một đoàn xe chở hàng bít bùng như đoàn xe anh đi cũng vừa tới, mọi người xuống xe xếp thành hàng dài, không rõ ở trại nào tới.
Kim và bạn được tháo còng tay khi tới chân cầu thang.  Anh bước lên thang, chiếc thang lắc lư theo nhịp sóng vỗ mạn tầu đang rung rinh dưới chân.  Khi tới nấc thang trên cùng, nhìn xuống sân thấy bạn mình nhỏ lại.  Thành phố ở phía xa đã lẫn vào bóng đêm, im lìm không tiếng động.  Anh đang đứng trên con tầu mang âm thanh quen thuộc "Sông Hương", chiếc tầu cũ chở hàng còn lại sau trận chiến.  Anh theo thang bước xuống hầm tầu.
Hầm tầu thật sâu, trống trải.  Một góc hầm để mấy xô nhựa phía ngoài có che tấm vải nhựa làm nơi vệ sinh.  Chắc tầu vừa xuống hàng, bụi than còn đọng lại trên đà sắt vách tầu.  Mỗi lần gió lùa từ mái hầm xuống đã khuấy động lớp bụi than bay lên mờ mịt.  Bụi than rơi xuống trộn lẫn với nước rửa sàn tầu thành một lớp hồ nhơm nhớp.  Quá mệt mỏi, mọi người chia nhau chỗ nằm.  Không có lấy một manh chiếu, Kim ngả lưng xuống sàn tầu ẩm nước, gối đầu lên đôi dép râu vợ anh mới đưa hôm đến thăm.  Bây giờ đã hơn hai giờ sáng, bước qua ngày 19/4, anh thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn.
Kim thức giấc khi trời hừng sáng.  Anh vùng dậy theo cầu thang lên boong tầu, cửa boong khóa phía ngoài.   Qua khe cửa sắt, mặt biển trải rộng mông mênh mờ phủ một lớp sương pha trộn với ánh hồng, mặt trời đang ló lên từ mặt nước. Anh phân định mũi lái để biết hướng đi con tầu.  Nếu xuống Quân Khu 4 của miền Nam, con tầu theo hướng Nam, và mặt trời buổi sáng phải nằm về bên trái.  Nhưng bây giờ mặt trời ở phía bên phải, như vậy con tầu đang đi theo hướng Bắc.  Nó không xuống Quân khu 4 của miền Nam như anh em phỏng đoán, mà ra Khu 4 của miền Bắc, theo thói quen người miền Bắc vẫn gọi là Khu Tư.
Không hiểu tầu chạy xa bờ bao nhiêu, hay nhờ biển lặng nên tầu chạy rất êm.  Kim nhớ lần di cư vào Nam hơn 20 năm trước, cũng hải trình từ Bắc vào Nam, khởi hành từ vịnh Hạ Long, sau 3,4 ngày đường tầu cặp bến Sài-gon.  Bây giờ anh đi hải trình ngược lại, không rõ tới tỉnh nào miền Bắc,nhưng chắc cũng cần một thời gian tương tự.   Anh trở xuống hầm tầu, các bạn đang từng nhóm xúm quanh ống thuốc lào.  Mọi người đặt câu hỏi không hiểu mình sẽ tới đâu. 
Miền Bắc là quê hương của anh, đã ghi trong lòng anh thật nhiều kỷ niệm thời niên thiếu.  Nhưng giây phút này anh cảm thấy xa lạ, không hứng khởi khi được trở về nơi cũ.  Nếu có, chỉ là nuối tiếc những gì đã qua đi trong cuộc đời.
Mười giờ sáng mọi người mới được cung cấp bữa ăn trưa.  Mì gói ăn liền và nước sôi được thả từ trên boong xuống. Phần ăn ba gói cho một người mỗi ngày.  Ðể có thêm chút đường, mỗi người được phát một miếng dưa đỏ.  Khẩu phần ăn đi đường được lo lắng chu đáo chỉ có thế. 
Anh vốn chẳng quan tâm tới lời hứa hẹn, vì chính sách luôn đi ngược.  Từ buổi đầu theo thông cáo, anh em quân nhân chỉ đi học tập có 10 ngày hay một tháng, mà bây giờ đã 2 năm vẫn còn tiếp tục hành trình.  Rồi khi đến nhà anh, tên công-an Quận nói đã sửa soạn chỗ ăn nằm cho anh thật tươm tất, anh được đẩy vào một nơi mà điều kiện sống không phải dành cho con người.  Ðến bây giờ, trong khung cảnh này anh liên tưởng tới đàn lợn bị nhốt trong chuồng, đang đợi đổ thức ăn vào máng.  Anh tập quen dần với khung cảnh mỗi ngày một mới mẻ, và hành động đối xử mỗi lúc một thay đổi, mà chứng nghiệm đã phản ảnh một chính-sách mang danh "nhân đạo, khoan hồng."
Khu vệ-sinh hạn chế.  Nước dơ đã trào ra ngoài khiến sàn tầu thêm bẩn và thâu hẹp chỗ nằm.
Anh em đang trao đổi về hướng đi con tầu, bất chợt có tiếng ồn ào nổi lên ở một góc hầm.  Kim thấy anh trật tự trại Gia-rai đang rên rỉ, cuộn tròn trên sàn tầu.  Hắn cố thu mình để tránh những cái đá, cú đấm của mấy anh em trẻ.  Anh nhớ khi mới tới trại Gia-rai, anh em tới trước cho hay về hành động của hắn.  Nguyên gốc thuộc ngành thông-tin chiều hồi, chẳng hiểu do cơ hội nào hắn được ban giám thị trại cho làm trật tự, một gạch nối giữa tù nhân và cán bộ.
Trong thời gian vừa qua anh nhận ra một điều là ban giám thị thường giao nhiệm vụ này cho những người tín cẩn.  Vì là tai mắt của cán bộ nên phải theo rõi hoạt động của anh em, nhất là thành phần "phản động chống cộng sản."  Do đó, đa phần người làm trật tự đứng về phía cán bộ mà đối đầu với anh em cải tạo, và hắn trở thành người có quyền hành.  Về phía cán bộ, họ vốn có ý-định cho hắn một chút quyền, muốn hắn phải dựa vào họ, có như vậy hắn mới làm việc đắc lực. 
Quả là hắn đã nắm quyền sinh sát trong tay, vẫn tệ nạn tham nhũng đội trên đạp dưới.  Không ai dám làm gì hắn vì sau lưng hắn có cán bộ.  Phải biết "phải trái" với hắn nếu không sẽ bị cúp thăm nuôi, hay cho nhận quà mà không được gặp mặt thân nhân.  Hắn tự đẩy mình lún sâu vào con đường làm tay sai cho cộng-sản. Chẳng qua cũng chỉ vì một lời hứa sớm được về với gia-đình.  Một lời hứa làm hắn tin tưởng nên tận tụy phục vụ, đạp trên sự đau khổ của anh em.
Khi hay mình có tên trong danh sách ra đi, hắn muốn xỉu vì biết con đường tù đầy của mình còn dài.  Hắn vỡ mộng vì đã tin tưởng vào chế độ trước sau không như một.  Hắn quên hẳn một điều mà người miền Nam đã đoan chắc, mà chính hắn thường nhắc lại trước đây: "đừng nghe những gì cộng-sản nói…" và bây giờ cái gì đến đã đến.  Hắn phải trả lại anh em những gì hắn đã lấy, hắn phải nếm mùi vị đau khổ cay đắng mà hắn đã gây ra trước đây.  Khuôn mặt hắn sáng sủa, thân hình mập mạp trắng trẻo vì được nuôi dưỡng tốt trong tù.  Vào lúc này khuôn mặt hắn càng no tròn vì những qủa đấm cái tát.  Hắn không còn sức chống cự tránh đòn, thân xác đổ xuống như một đống rẻ rách.
Anh đưa lời can anh em, cho hắn một con đường sống.  Tạm đủ cho một bài học, mặc dù anh biết rằng, nếu có cơ hội những con người hèn nhát như hắn sẽ trỗi dậy, lại đi vào vết xe cũ như nhiều trường hợp đã xẩy ra.
Khi biết con tầu hướng mũi về miền Bắc mà không theo hướng Nam tới Quân khu 4 như anh em nghĩ lúc đầu, mọi người cùng đồng ý là phải chiếm con tầu.  Ðã tới lúc phải liều, nhưng cũng cần tính toán kỹ, không phải là thất bại hoàn toàn, mà có phần thành công dù phải hy sinh.
 Anh em quan sát địa thế ngay khi bước chân xuống tầu, Phía mũi chỉ có một ổ súng máy, còn buồng lái cũng vắng vẻ.  Ðợt hành động đầu gồm thành phần có kinh nghiệm tác chiến sẽ theo vách hầm vượt lên nóc  để vào phòng lái và đoạt ổ súng máy.  Người có khả năng chuyên môn được phân công điều khiển con tầu.  Thời điểm hành động dự trù là giữa đêm nay.
Sau bữa ăn chiều mọi người nằm nghỉ lấy sức cho giờ hành động.  Còn lại mình Kim bên ống thuốc lào, trước một hành động quyết định đời sống anh khó có thể yên lòng nằm nghỉ.  Anh nghĩ liên miên về sự việc có thể xẩy ra, con đường sống thật mong manh.  Mọi người mong mỏi trong cái chết sẽ tìm thấy con đường sống. . . .
Chỉ còn mấy giờ đồng hồ nữa là bước sang ngày 20/4, con tầu đã vượt gần hai vòng ngày đêm.  Bầu trời không có lấy một vì sao,  như hoàn toàn bị che khuất bởi màn mây đen thẫm.  Gió thổi mạnh dần, đẩy những hạt mưa xiên lọt qua chỗ hở nắp hầm.  Gió hú từng hồi, âm vang như tiếng rít trong lòng ống sắt.  Cơn mưa nặng hạt đang trút xuống mỗi lúc một nhiều.  Con tầu lắc mạnh, như đang chuyển mình trong giông bão dữ.  Mọi người đã dồn vào góc hầm dước mái che.  Gió thổi mạnh hơn trước, mưa đan dầy phủ mờ ánh đèn vàng trên tháp canh. 
Nắp hầm đã đóng kín lại, trong hầm tối hơn dưới ánh sáng ngọn đèn dầu nhỏ.   Mưa gió càng lớn, con tầu càng lắc mạnh, như được các đợt sóng nhồi lên cao rồi hạ nhanh xuống, lắc lư như đưa võng.  Kim cảm thấy cơn mệt mỏi cồn cào từ đâu chợt đến.  Ðã có nhiều tiếng nôn oẹ trong đám anh em nằm la liệt nơi góc hầm.  Kim nhìn qua các bạn còn thức, như có chung một ý nghĩ mong cho cơn bão mau qua, để anh em có thể lấy lại sức trước giờ hành động.
Ðã một giờ sáng, bây giờ đang ở đầu ngày 20, qúa giờ hành động dự trù đã một tiếng đồng hồ.  Không hiểu con tầu tới đoạn đường nào, nhưng anh có cảm tưởng con tầu nhồi mạnh hơn thời gian vừa qua, như lọt hẳn vào vùng biển động.  Các bạn anh trù tính, với vóc dáng con tầu và thời gian trải qua, giờ này tới Ðà-nẵng là cùng.  Nhưng có điểm làm anh thắc mắc là hải phận miền Nam có vùng nào sóng gió như thế này, hay đã tới Vinh một vùng biển dữ dằn có tiếng.  Anh nhìn qua các bạn, hầu hết đang nằm dài trên sàn như bao nhiêu sức lực đều tiêu tan.  Kim giữ sự lo âu trong lòng, anh nằm xuống sàn tầu chờ đợi một cơ may.
Khoảng 3 giờ sáng con tầu mới êm.  Nóc hầm hé mở không đủ chỗ cho một người chui lọt, gió biển mang hơi lạnh lùa xuống hầm tầu.  Nhìn qua các bạn ai nấy thiểu não, tiều tụy như vừa qua cơn bệnh nặng. Kim nằm im nhắm mắt, cảm giác buồn nôn không còn nhưng tứ chi rã rời bải hoải.  Hy vọng đào thoát đã tiêu tan.  Mệnh số là như vậy.
Tầu đang lướt trên mặt biển lặng gió như chạy trên mặt bằng.  Trời hừng sáng, ánh sáng lọt qua khoảng hở của nắp hầm chiếu rõ cảnh vật trong hầm, một khung cảnh thật hỗn độn.  Mọi người nằm la liệt, những sô nhựa vượt khỏi tấm vải ngăn khu vệ sinh, nghiêng đổ lênh láng trên sàn tầu.
Kim theo cầu thang lên nóc hầm, tới chỗ cửa sắt thông ra boong tầu, qua khe hở anh sửng sốt khi thấy những cánh buồm nâu.  Con tầu đang lọt vào giữa vùng núi đá thắt đáy như những giọt nước trồi lên từ đáy biển.
Khung cảnh thật yên lặng, không còn những ngọn sóng, những cơn gió mạnh. 
Cảnh biển quen thuộc hiện ra, vịnh Hạ-Long, một thắng cảnh của miền Bắc Việt-Nam.  Âm thanh của tên gọi thật dịu ngọt êm đềm, nhưng lại dậy lên trong lòng anh niềm chua sót thất vọng.  Anh trở lại chốn cũ sau 22 năm cách biệt.  Chính nơi đây, anh đã ra đi tìm  phương trời mới, và cũng chốn này anh trở lại bước đường cùng.
Tầu đã ngừng hẳn, tiếng xích sắt buông neo ở phía mũi.  Mọi người vẫn chờ đợi, chưa có dấu hiệu rời tầu.
Trời về chiều, ánh nắng không còn chói chang, bây giờ vào cuối mùa xuân, gió chiều mát dịu.  Ðã tới bữa ăn, vẫn mì gói nước sôi.  Hơn 6 giờ chiều, cửa khoang mở, anh em được lệnh rời tầu. 
Kim bước qua khỏi khung cửa sắt ra boong, bến cảng hiện ra trước mắt.  Mặt sông rộng, bờ bên kia đang chìm dần trong màn sương.  Một dẫy tủ sắt xết thành hàng dài dọc theo cầu tầu.  Anh đang đặt chân lên bến cảng quân sự của thành phố Hải-phòng.
Trời xẩm tối, nơi cổng bến cảng những mái nhà tranh nằm sát nhau, leo lét những ngọn đèn dầu.  Bóng đèn đường ửng vàng trên đầu cột không chiếu sáng hết phần đất dưới chân, càng làm bến cảng tiêu điều buồn tẻ.
Một đoàn xe chở khách, giống như xe đò Củu-Hiệp chạy đường Sai-gòn Hóc-Môn vào cuối thập niên 50, đang đợi dưới sân.  Vừa tới nấc thang cuối cùng, Kim và người bạn đi cùng đã hưởng chung chiếc còng số 8, một kiểu còng sản xuất tại miền Bắc, gồm hai vòng sắt dính với nhau bằng một đinh ốc.  Hai cổ tay gần sát nhau vì không có sợi xích nối giữa hai vòng, vì vậy cử động cũng hạn chế khó khăn hơn.  Anh có cảm giác đau cấn nơi cổ tay, vì vòng còng chưa được mài nhẵn, cạnh còn sắc lại không có lớp mạ ngoài nên dễ rỉ sét, khiến mặt còng nhám hơn bình thường dễ bị trầy da mỗi lần xoay trở.  Anh xếp hàng đôi sau những người bạn xuống trước.
Trời tối hẳn, bóng đêm như xoa một lớp phấn xám trên cảnh vật.  Ðã hơn 7 giờ tối, bến cảng mờ dần, con sông rộng thêm trông giống như sa mạc mênh mông, không thấy bờ bên kia.
Từng cặp bước lên xe.  Khoảng cách ghế ngồi thật tiết kiệm, anh ngồi thẳng lưng tựa vào ghế mà đầu gối vẫn tì vào lưng ghế trước.  Khung cửa sổ bằng kính đóng kín.  Anh muốn mở một phần cho gió lọt vào mà không được phép vì lý do để tránh nguy hiểm dọc đường.
Mỗi người được phát một chiếc bánh mì lớn bằng cổ tay, dài không quá một gang.  Bánh còn mềm, nhưng mùi bột thật nồng, chắc để lâu trong kho trước khi viện trợ.  Anh được phát bánh không, còn người bạn ngồi gần trong ruột bánh lại có thịt nguội.  Chắc lại một lần trở ngại kỹ thuật ngoài dự trù, hay vì chính sách xén chặn nên kẻ không người có.
Cán bộ võ trang lên xe, cửa xe đón kín.  Ðoàn xe chuyển bánh chạy chậm về phía cổng.  Vừa qua khỏi cổng, phía trước không xa, từng đoàn trẻ em trên dưới 10 tuổi, xếp hàng dài hai bên đường.  Ðứng lẫn với các em là thầy cô cán bộ đang điều khiển các em ném đá vào đoàn xe. 
Từng nắm cát đá lộp độp ném vào cửa kính.  Có phải đó là nguy hiểm các anh gặp phải trên đường di chuyển, là lòng căm phẫn của nhân dân miền Bắc đối với kẻ thù miền Nam, mà ngay từ lúc mới vào trại, các anh được nhắc nhở là có nợ máu với nhân dân. 
Người miền Nam nhận ra một nghịch lý, có chút gì không ổn trong câu nói.  Cộng-sản miền Bắc đem quân xâm chiếm, phá hoại bắn giết người miền Nam trên mảnh đất miền Nam thì được coi là có chính nghiã, còn người miền Nam vì bảo vệ hạnh phúc đời sống của mình, bảo vệ nền tự-do dân-chủ mà mình lựa chọn thì lại không có chính nghĩa, là có nợ máu với nhân dân.
Anh đã từng bảo cán bộ lấy cung là anh không có nợ máu với nhân dân miền Nam, vì anh đã cùng với họ bảo vệ mảnh đất tự-do của mình trước hiểm họa cộng-sản.  Anh cũng không có nợ máu với nhân dân miền Bắc, vì anh không ra Bắc phá hoại đời sống an lành của họ, nhưng nhận là đã liên kết với các thành phần nhân dân miền Nam chống lại ý đồ xâm lăng của Ðảng và nhà nước cộng-sản.
Còn bây giờ, hành động ném đá này mhắm mục-đích gì.  Nếu bảo đó vì lòng căm thù của người dân miền Bắc thì thật vô ích, vì họ há đã chẳng nhìn rõ mặt trái của màn kịch.  Nhưng hậu quả đã tác hại tới tinh thần các em nhỏ, ngay từ lúc còn măng sữa, chúng đã bị lường gạt, làm mất đi lương tri trong sáng của con người.
Ðoàn xe vượt qua khỏi đám trẻ ném đá, khu ngoại ô vắng lặng, chỉ còn tiếng máy xe gầm lên từng hồi, và những vệt sáng xuyên thủng màn đêm.  Sau hai ngày trên tầu, trải qua giờ phút vật vã vì biển động, cái đói cái mệt làm con người run rẩy, anh thấy thèm hút điếu thuốc.   Kim dơ tay không bị còng lấy bình điếu nơi túi áo ngực, chiếc điếu làm bằng bình nhựa đựng thuốc đau bụng mà vợ anh mang lên khi đi thăm lần đầu.  Anh chuyển điếu qua tay trái, vê điếu thuốc lào hiệu 3 số 8 bỏ vào điếu, anh hỏi anh Nguyễn-Tôn-Tính, người bạn chung còng:
-"Anh hút thuốc lào không?"
-"Trời lạnh càng thấy thèm, anh có mang điếu chứ?"
Kim nghe rõ âm thanh vui vui trong câu hỏi của bạn, anh nói lớn:
-"Tôi có mang điếu đây, bạn nào hút xin sửa soạn đóm."
Sở dĩ anh bảo các bạn sửa soạn đóm giấy, mồi lửa sẽ được truyền đi từ người này đến người khác, chiếc bật lửa chưa chắc đánh được lửa lần thứ hai vì đã giữ lâu ngày trong kho. 
Kim xé miếng giấy làm đóm, đưa bật lửa cho bạn nhờ anh đánh lửa hộ.  Người bạn chung còng cũng phải dơ tay còng lên khi anh kê vòi điếu vào miệng.  Anh hít hơi thuốc thật dài, khói thuốc biến mất trong cơ thể anh.  Ðẩy mạch máu chạy nhanh hơn, đuổi bớt cái lạnh xe da và xoa dịu cái đói đang hành hạ dạ dầy.  Kim đưa điếu và mồi lửa cho bạn, anh ngồi im tựa đầu lên thành ghế, tận hưởng cái đê mê của khói thuốc.  Chiếc điếu nhỏ đang chuyền tay các bạn, mang theo mồi lửa bập bùng loé sáng trong đêm tối. 
Xe tới trung tâm thành phố Hải-phòng, đi theo con phố nhỏ tối tăm vì đèn đường không đủ sáng.  Hàng cây bên đường sũng nước sau cơn mưa càng làm con phố thêm buồn thảm.  Anh nhớ rõ về con phố này trước ngày chia đôi đất nước, nó là con đường đẹp nhất thành phố, vừa sạch lại sang trọng.  Dọc theo hai bên đường, ẩn hiện sau tàng cây là những căn biệt thự xinh xinh.  Nó thuộc loại kín cổng cao tường nên đèn thắp sáng về đêm.  Mới hơn 20 năm qua mà đã có nhiều thay đổi.  Cuối con đường này, qua một khúc quanh ngắn là tới vườn hoa Bonard, tiếp giáp với con lộ lớn trải nhựa láng bóng có tên Cát dài.  Một đầu phía bên trái dẫn tới bãi biển Ðồ Sơn, còn ngả bên phải nối liền với quốc lộ 5, đường đi Hải-dương Hà-nội. 
Xe theo quốc lộ 5, xa dần trung tâm thành phố Hải- phòng.  Phía trước mặt là ga Phạm Xá nhắc anh trở về chuyện cũ.
Sau hiệp định chia đôi đất nước, gia đình anh kẹt ở lại thành phố Hải-Dương.  Sau mấy tháng chung sống với chế độ cộng-sản, bố mẹ anh quyết định đưa gia đình vào Nam.  Thành phố mới tiếp thu, sự di chuyển rất hạn chế, nhất là xuống mạn Hải-phòng, thành phố cuối cùng còn lại chưa chịu sự kiểm soát của cộng-sản.  Ðàn ông thanh niên ra khỏi thành phố rất khó khăn.  Mẹ và chị anh đã xuống Hải-phòng trước, còn lại hai cha con đi chuyến sau.  Anh nhớ cha anh bảo mẹ anh trước khi bà đi là nếu anh bị giữ lại, ông sẽ không đi nữa.  Vì mục đích vào Nam là lo cho tương lai các con.
Cha anh ra cơ quan địa phương xin giấy phép đi đường.  Viên công-an xem đơn thấy ông ghi xin đi Nam, hắn nói:  "Kháng chiến thành công sao anh còn vào Nam." Ông có trả lời hắn là xin về quê Nam-Ðịnh.  Cha con anh mua vé tầu đi Hà-nội và ngày hôm sau mua vé đi ngược Hải-phòng.  Chuyến xe lửa đông nghẹt người, hầu hết là đàn bà và trẻ nhỏ.  Anh ngồi chung với những người đi buôn trong toa chở hàng, còn cha anh di chuyển từ toa này tới toa khác để tránh đám công-an xét giấy.
Sau bao nhiêu khó khăn dọc đường, cha con anh qua được ga Phạm-xá, lằn ranh Quốc Cộng, theo đoàn người di cư vào Nam tháng 3 năm 1955.  Ðã hơn 20 năm qua, thành phố không phát triển thêm, vì miền Bắc miệt mài dốc toàn lực đánh chiếm miền Nam, nên tình trạng trở lên tồi tệ hơn ngày trước.
Xe chạy như muốn hất người ra khỏi ghế mỗi khi vượt qua các ổ gà.  Lần đầu tiên anh được thưởng thức hệ thống giao thông miền Bắc.  Xe khó chạy nhanh vì mặt đường quá xấu, nhất là hai hàng cây trồng hai bên làm con đường nhỏ đi, hai xe khó qua lại.  Rồi vì nhu cầu thủy lợi, cần nước cho các mảnh ruộng trồng lúa nằm rải rác hai bên đường, hào nước sâu ôm sát chân đường, khiến sự phát triển mặt đường cho phù hợp với nhu cầu giao thông gặp nhiều khó khăn.
Kim cảm thấy mệt mỏi sau hành trình mấy ngày thiếu ngủ.  Anh muốn dỗ một giấc ngủ nhưng đôi mắt cứng đơ, có lẽ đầu óc anh đang phân vân, không hiểu họ sẽ đưa các anh tới đâu.  Miền Bắc có hàng trăm trại cải tạo, đa phần ở nơi địa thế núi rừng hiểm trở, xa vùng đồng bằng đông người.
Khi qua khỏi ga Phạm-xá anh biết không còn bao lâu nữa sẽ tới tỉnh Hải-dương, vì chỉ cách Hải-phòng 47 cây số.  Quốc lộ thật vắng, giờ này qúa khuya nên không có ai qua lại.  Xe tới thành phố Hải-dương, phía trước là cầu Phú-lương, quốc lộ 5 chạy giữa lòng thành phố chia tỉnh làm hai khu.  Anh nhớ như in trong đầu về thành phố này, vừa qua khu hành chánh tỉnh sẽ tới ngã tư Quang-trung, là khu phố chính nên toàn nhà nhiều tầng, xây cất rất đẹp và khanh trang.  Anh ngạc nhiên bên cạnh các căn phố cao lại điểm một căn nhà mái tranh lụp xụp, chắc căn nhà cũ đã hư hỏng mà không có khả năng xây lại.  Thành phố một mầu ảm đạm.  
Xe tiếp tục chạy trên con đường vắng, phía trước là thành phố Hà-nội, cách Hải-dương 55 cây số.  Bầu trời một mầu xám lợt lác đác mấy vì sao nhỏ.  Qua thành phố Hà-nội, đoàn xe rời đường lớn chạy theo con đường nhỏ đất đá gồ ghề.  Tầm mắt anh như thu hẹp lại vì bóng tối xung quanh.  Kim giật mình khi người anh dội lại như xe chạm phải vật gì trên mặt đường.
Ðoàn xe đang quanh co trong rừng tre, có lúc bò lên cao có khi vượt qua con suối cạn.  Khung cảnh xung quanh như tối lại, chỉ còn những vệt sáng của hai bóng đèn xe soi rõ mặt đường.
Xe vừa thoát ra khỏi rừng tre, quang cảnh phía trước mở rộng.  Mảnh trăng muộn chen lẫn giữa các vì sao lác đác trên vòm trời cao, trải lớp ánh sáng bạc mong manh xuống vạn vật.  Mọi vật hiện ra thật mờ ảo như gói trọn trong lớp khói sương.  Anh không hiểu mình đang đi về đâu, tất cả đều huyền hoặc.  Có phải anh đang đi tới nơi tận cùng của cuộc sống, không còn cơ hội trở về…
Kim cố nhìn khung cảnh hai bên đường, nhưng tầm nhìn thật hạn chế.  Anh chỉ nhìn rõ phần nào khung cảnh trước mắt nhờ ánh đèn xe.  Xe chồm lên lắc lư trên con đường đất đá gồ ghề.  Phía trước mặt là khung cổng, hai trụ cột vuông lớn loang lổ mầu gạch đỏ đứng sừng sững.  Chỉ có một khung lưới sắt bắc ngang trên đầu cột nên anh không rõ nơi đây là đâu.  Hai bên đường xuất hiện những mái nhà ngói, lấp xấp sát nhau đang say ngủ. 
Xe tiếp tục chạy thẳng, phía trước là khu trại, anh chưa biết tên là gì nhưng trạm gác thật lớn, cánh cổng có song sắt cỡ cổ tay và rào thêm giây kẽm gai phía trên.  Vòng tường xây thật cao, đầu tường giăng kẽm gai, trên mỗi trụ cột có gắn một bóng đèn điện soi sáng mặt đất hai bên.  Cánh cửa cổng mở sẵn, phía trong là khu sân rộng.
Ðoàn xe chạy vào trong sân đậu thành một hàng dọc.  Kim xuống xe, khung cảnh quanh anh thật yên lặng.  Hai dẫy nhà mái ngói đỏ au, nhô lên khỏi vòng tường cao.
Bây giờ đã 2 giờ sáng ngày 21 tháng 4 năm 1977.  Mọi người được tháo còng tay khi xuống xe.  Vẫn giữ hàng đôi tới ngồi sau anh em xuống trước.  Chuyến xe anh đi ngồi gần dẫy nhà bên phải từ cổng đi vào.  Dẫy nhà bên kia thật yên lặng, không hiểu đã có ai tới chưa.  Anh nhớ tới đoàn người lên tầu phía đằng lái, chắc không về trại này, vì anh không thấy họ từ khi anh rời tầu.
Ba trăm sáu mươi người được chia đều cho các căn dẫy bên phải.  Anh xuống xe gần chót được đưa vào căn nằm sau căn đầu tiên sát cổng, căn phòng mang số 8.  Căn ngoài sát đường mang số 7 sát với cổng gác.
Căn phòng vừa quét vôi, xông mùi nồng nặc.  Khu vệ sinh cách phòng ngủ một bức tường ngăn có cửa nhỏ.  Hai dẫy sàn nằm hai bên, ở giữa là lối đi rộng hơn thước.  Sàn dưới láng xi-măng, sàn trên trải gỗ cao hơn đầu người.  Tường xây dầy hai gang tay, mái ngói thật cao, cánh cửa ra vào bằng lim dầy có khóa phía ngoài.  Hai bóng đèn điện 100 nến soi sáng khắp phòng.
Kim chọn chỗ nằm sàn dưới gần cửa sổ, trên sàn chỉ có một chiếc chiếu nhỏ cho mỗi người.  Gió lùa vào thật lạnh, vẫn cái lạnh "tháng 3 bà gìa chết rét", lâu lắm anh mới lại được thưởng thức cái lạnh này.  Anh đóng hai cánh cửa sổ cho bớt gió, ngả người xuống sàn xi măng lạnh buốt, lấy dép râu làm gối, chiếc chiếu nhỏ gập đôi đắp ngang người.  Ðêm nay hẳn là đêm hạnh phúc của đàn muỗi đói.  Vì mỏi mệt trên quãng đường di chuyển, cơn buồn ngủ đến thật nhanh, kéo xụp đôi mi, anh thiếp đi trong giấc ngủ sau mấy ngày vật vã dưới sàn tầu.
      
&

Anh em trong phòng thức đã lâu, nhưng cửa ngoài vẫn khóa kín.  Mọi người bàn tán không biết mình ở đâu trên đất Bắc.  Hai cửa sổ hướng ra sân mở rộng, phía trước là một vườn hoa nhỏ, lác đác ít cây vạn thọ.  Tường bao quanh khá cao, anh chỉ nhìn thấy những vòm cây trên vách núi cao.
Qua cửa sổ đầu hồi, bức tường đá đang xây dở dang, mới cao hơn thắt lưng, chạy dài bọc phần sau khu trại ôm trọn vùng đất cỏ mọc cao.  Căn nhà nằm trên đồi cao, phía dưới là đầm sâu, mặt nước mênh mông bám sát vào chân núi xa xa.
Mãi 9 giờ cửa phòng mới mở, mọi người có 15 phút làm vệ sinh cá nhân, sau đó ra sân trại nhận lại bao đồ cá nhân đã gửi.  Mỗi người được phát thêm một mền mỏng như loại mền do hãng Sakimen sản xuất tại Sài-gòn, một màn sợi vải thô chắc là đặc sản của vùng Nam-Ðịnh, một chiếu cá nhân ngang 80 phân và một bộ đồ bà ba xanh dành riêng cho tù cải tạo miền Nam.  Phân biệt với mầu nâu của tù miền Bắc và quần áo xọc lớn mầu xám lợt và nâu tía cho quân nhân Mỹ khi bị bắt trong lần oanh tạc tại miền Bắc trước đây.  Không thấy phát quần áo lót, khăn mặt, đồ dùng vệ sinh cá nhân như tiêu-chuẩn đã ghi trong chính-sách.
Mỗi phòng có hai cán bộ.  Một lo quản lý phòng ốc kiêm kỷ-luật trật tự, còn cán bộ kia phụ trách lao động.  Cán bộ chỉ định buồng trưởng và buồng phó.  Chỗ nằm của anh em trong phòng được ổn định.
Khác với các trại anh đã đi qua ở miền Nam, trại này có kỷ luật đặc biệt.  Tại chỗ nằm, ngoài chăn màn chỉ được để một bộ quần áo lót, một bộ bà ba thay đổi hàng ngày.  Chăn màn để trên đầu nằm phải gấp vuông vắn, có góc cạnh như khối hình chữ nhật, cách tường một gang tay và thẳng hàng với chiếu nằm khác cùng dẫy.  Nói là xắp xếp cho đẹp mắt cũng chỉ một phần, nhưng thực ra với mục đích để dễ kiểm soát, vì ít đồ dùng nên tù nhân khó cất dấu những thứ trại cấm.  Tư trang còn lại phải để trong nhà kho nằm ngoài phòng có cửa khóa.
Anh em được cán bộ trại cho hay phía anh em ở gọi là khu B và phía đối diện là khu A.  Ðây là trại Nam-Hà thuộc xã Ba Sao, tỉnh Hà-Nam-Ninh.
Trại này đã xưa cũ nhưng rất kiên cố.  Ðây chính là vùng đầm lầy, đã một thời nổi danh Ðầm đùn, là nơi đã in sâu vào tâm trí những người tới đây kỷ niệm khó quên, nếu  may mắn thoát ra khỏi nơi này.
Vì mới tới, anh em được nghỉ lao động.  Với nội quy trại tù nhân không được đi lại qua các phòng khác, mọi liên hệ sẽ bị trừng phạt.  Trong giờ lao động anh em phải ở trong phòng, cửa khóa phía ngoài, chỉ mở vào giờ lấy cơm.
Kim và một số anh em trong phòng được cán bộ cho qua bên khu A, khu đối diện, để quan sát về vệ-sinh chỗ ăn ở.  Khu A đã tới đây ít tháng trước, gồm quí vị bên hành chánh, quân đội và đảng phái chính trị của miền Nam trước đây.  Anh đã gặp Tướng Huỳnh Văn Cao, ông Hoàng-Cơ-Bình và một số đông quí vị nổi danh ở miền Nam.  Anh ngạc nhiên khi gặp ông Nguyễn Văn Lộc, nguyên Thủ Tướng của miền Nam, vì lúc ở trại Gia-Rai, đọc báo nhân dân đã thấy tên ông và Tướng Vĩ được trả tự-do.
Các anh được nghỉ xả hơi gọi là bồi dưỡng, để làm quen với phong thổ miền Bắc.  Hôm nay chưa tới cuối tuần nên các đội vẫn lao động.  Một đội hình sự tới xây tiếp bức tường đá ngăn phòng 8 với khu triền núi trông xuống đầm.
Tường xây bằng đá tảng lớn, dầy khoảng 60,70 phân.  Tảng đá khá nặng, hai người khênh khó khăn lắm mới đưa được lên dàn dáo.  Ðám hình sự thân thể gầy yếu, quần áo rách vá nhiều mầu.  Bọn công an không nương tay đánh đập, chửi mắng mỗi khi đám hình sự xúm quay bếp lửa sưởi ấm hay hút thuốc.
Anh em trong phòng bất nhẫn trước hành động vô nhân đạo của đám cán bộ.  Có bạn chia cho đám hình sự những gói mì còn lại, những con cá khô và thức ăn mang từ trong Nam ra.  Anh em bảo đám hình sự, cũng là con người không thể chấp nhận bị đánh đập tàn nhẫn, phải có thái độ phản đối.
Sau mấy ngày nghỉ ngơi, đội được phân phối lao động.  Mỗi buổi sáng cửa phòng mở lúc 5 giờ, tập thể dục 30 phút tại khuôn viên trước phòng.  6 giờ rưỡi, đội tập trung nơi sân trại theo tiếng kẻng của trực trại.  Buồng trưởng hay buồng phó dẫn đội lao động sẽ báo cáo con số đi lao động và số người được nghỉ ở phòng vì đau ốm.
Tùy theo công việc làm trong ngày mà cán bộ quản giáo đưa đội tới vị trí.  Ngoài cán bộ quản giáo đội còn có hai công-an võ trang đi kèm.  Khu B mới tới nên lao động tại khu đầm lầy.
Từ trại tới khu đầm lầy không xa, vì vòng đai trại nằm gần sát đầm.  Mặt đường cách mặt đầm cả 3, 40 thước.  Từ trên nhìn xuống, mặt nước mênh mông, khoanh tròn như một lòng chảo, lõm sâu xuống giữa vòng núi bao quanh.  Qua dặng núi phía bên trái, bên kia là Chi-nê Hoà-Bình, đã một thời mang danh là vùng đất chết.  Kim chợt nhớ câu mà dân địa phương hay nhắc về vùng đất đầy chướng khí này:

“Ai ơi vào đến Thạch Thành,
Má hồng để lại mặt xanh mang về”

Vai vác dụng cụ lao động, Kim đi theo dốc núi thẳng đứng, đường đi như bậc thang theo vách núi quanh co, mặt bậc thang chỗ to chỗ nhỏ, gồ ghề lấn sâu vào vách núi.  Có chỗ trâu bò lên xuống nhiều, bậc đá đã bị lấp đầy hay bạt phẳng, chỉ còn lại lối mòn trơn tuột.  Cả con đường dốc không có lấy một gốc cây nhỏ, khả dĩ có thể bám vào như một vật cản bớt đà tuột dốc khi chân mất thăng bằng, mà cái đói cái mệt không giúp con người đứng vững.
Sát chân dốc, bên phải lối đi, một khu vườn nhỏ do khu A phụ trách, là nơi duy nhất trồng hoa mầu phụ, có rau tươi cung cấp cho bếp cán bộ trại.
Mặt đầm như rộng thêm khi tới gần.  Vòng núi cánh cung ôm sát khu đầm, âm u như đáy huyệt sâu.  Làn nước bất động, phẳng lì như một tấm gương trải rộng ra sát chân núi.  Về phía xa xa lác đác những bóng cây, chóp đá nhô cao khỏi mặt nước như những cù lao nhỏ.
Mặt đầm như chia làm hai, nửa bên trái chắc sâu, mặt nước phẳng lặng, còn nửa bên phải có điểm những ngọn sậy ngả nghiêng trên mặt nước.  Thêm vào là những gốc lim lớn hơn người ôm nhô cao, chắc ngâm nước đã nhiều năm nên mầu gỗ đổi thành đen mun.  Ở phía xa, giữa vùng biển nước mênh mông trồi lên hai trái núi nhỏ, theo các bạn tới đây trước thuật lại lời của người địa phương, đây là núi “Ba Cô”, có miếu thờ người quá cố.  Không rõ nguồn gốc câu chuyện hay đó chỉ là một truyền thuyết.
Một con đường đất lấp xấp mặt nước dẫn vào đầm, mặt đường có nhiều chỗ lở nước lấn vào như bị cắt thành nhiều khúc.  Công việc của đội là đào lấy những gốc lim còn lại trong đầm.  Nước sâu ngang đầu gối, có chỗ tới thắt lưng.
Ðội chia 4,5 người một nhóm phụ trách một gốc cây.  Công việc thật khó khăn, vì dụng cụ hạn chế, chỉ có mai và cuốc.  Cuốc trở thành vô dụng, vì gốc lim ngập dưới mặt nước, rễ cắm sâu xuống đáy đầm.
Nắng như thiêu đốt.  Hơi nóng từ dẫy núi đá vôi tỏa ra làm không khí ngột ngạt khó chịu.  Không có lấy một làn gió vì toàn khu nằm trong lòng chảo.
Trời tháng năm càng nóng, nhuộm nâu mảnh da lưng.  Các khuôn mặt vốn hốc hác càng thêm tiều tụy.  Bữa ăn khá khiêm nhường vì trại không có khả năng sản xuất, nguồn thực phẩm nuôi tù tùy thuộc vào địa phương, vì vậy đời sống tù nhân lên xuống bất thường.  Chẳng khác nào một bà mẹ nghèo nuôi một đàn con hoang, kiếm được gì cho ăn nấy, không hứa hẹn một bữa no.
Thức ăn căn bản để nuốt trôi miếng cơm, muỗng ngô đá luộc, hay khoai mì thái lát lưu kho lâu ngày nấu còn sượng, vẫn chỉ là qủa cà muối, cải củ nguyên cây muối mặn trong bể lớn.  Có lẽ dưa cải muối đã lâu, hay vì tiết kiệm nước muối ít khi được thay thế thứ mới, nên khi lấy ra ăn, từ qủa cà đến miếng dưa cải đã mặn chát, đổi mầu thành nâu xám.  Nhưng dù sao có vẫn còn hơn không.
Ăn khô mãi nên thèm một món ăn có nước, như để giải khát sau buổi lao động dưới sức nóng hừng hực lửa đốt, anh em thèm một bát canh.  Rau gì cũng được, ít ra cũng có thêm một chút xơ trong dạ dầy.  Làm no đôi mắt vốn thiếu thốn, làm ấm thêm chiếc dạ dầy luôn lép xẹp.  Dù là bát canh mang danh "đại dương", nổi lềnh bềnh vài cánh rau, lạc lõng trong chén nước muối đun sôi, được chia nhau đồng đều.
Khi còn ở miền Nam, bữa ăn chia nhau mỗi phần vài chén cơm, một ca canh nhỏ.  Nhưng xô cơm vẫn còn dư vì một số người không ăn hết phần cơm của mình, nên nhường cho người khác trong phòng.  Có lẽ khi đó lúa gạo ở miền Nam còn dư thừa, mặc dù hạt gạo đã chia ba xẻ bốn.  Một phần nuôi đám quân chiếm đất Mên Lào trong tinh thần Xã hội Chủ nghĩa anh em, và cung cấp cho "hậu phương" miền Bắc vì nguồn viện trợ không còn. 
Vào lúc đó, tại miền Nam tiêu chuẩn chất bột căn bản là gạo được ấn định 16 ký mỗi tháng, chưa có một chút độn trong phần ăn của tù.  Còn bây giờ sau gần hai năm thống nhất, nhân sự có khả năng sản xuất lại tận dụng cho ý đồ bành trướng, nên tiêu chuẩn chỉ còn 11 ký bao gồm cả chất độn.  Trong phần ăn của tù còn có phần của trâu của lợn, nói là để có thịt cải thiện trong ngày lễ Tết, vì vậy phần ăn khi tới tay tù nhân thật khiêm nhượng.  Tù nhân đã tích cực góp phần để đạt thành quả vinh quang của chính sách thắt lưng buộc bụng, nên thân thể mỗi ngày một thon lại.
Khẩu phần không đủ cho một người ăn ít, nên canh thì chia từng muôi, cơm đong từng chén, khoai sắn được cân từng phần.  Hình ảnh chiếc cân làm theo kiểu cân tiểu ly của các hiệu kim hoàn, gồm một thanh tre nằm ngang hai đầu buộc giây như đôi quang gánh.  Ở giữa có buộc giây để cầm.  Phần ăn được cân bằng nơi hai đầu thanh ngang,   trông có vẻ bôi bác nhưng thực cần thiết, vì đạt được lẽ công bằng tương đối làm mọi người tạm hài lòng.
Ðến phần thức ăn, nhất là vào ngày lễ Tết, phần thịt và nước kho được chia đều vào bát, mọi người nhận phần thức ăn của mình bằng cách theo số bốc được.
Sau nhiều ngày khem khổ, thấy bát canh là vui, như cơ thể vốn thiếu thứ gì bất chợt được thoả mãn.  Óc tưởng tượng chắc phải ngon, chỉ cần một lát gừng tươi là giống như canh cải ở nhà.  Nhưng không hiểu sao canh lại có váng như váng mỡ, mặc dù không cần nấu bằng xương bằng thịt.  Có điểm lạ là váng lại không bóng, không có những vòng sáng mầu sắc dính với nhau.  Sau này anh mới hiểu ðó là sản phẩm của dẫy núi ðá vôi bao quanh vùng này.  Chất vôi ðã tan trong mạch nước, lắng đọng nơi các giếng đào, nguồn nước uống duy nhất của tù.
Sau khi chia hết phần rau trong nồi, còn lại phần nước dễ chia hơn.  Chẳng phải khuấy dưới đáy nồi vì không có xương thịt, nhưng thực ra cũng không dám khuấy lên, vì cát lắng dầy cả đốt ngón tay dưới đáy.  Không hiểu vì thiếu nước hay nhà bếp lười rửa rau.
Nước uống cũng chung số phận, váng đóng trên mặt cặn lắng dưới đáy.  Trại cũng phát mỗi phòng một bình đựng nước có khóa vòi.  Chiếc vòi cách đáy cả hai phân nên đã gạn được phần nào cặn vôi trong bình, nhưng khi đưa ly nước soi trong ánh nắng, vẫn còn thấy nhiều mảnh sáng lấp lánh.  Nếu khuấy ly nước theo hình tròn, một sợi trắng mờ xuất hiện ở giữa chỗ xoáy vươn lên từ đáy ly.  Phần vôi đã hoà tan trong nước trở thành những chất độc gậm nhấm cơ thể tù nhân.  Chất vôi không thải hết ra ngoài sau khi xử dụng nước uống, đã lưu lại trong cơ thể tạo thành những căn bệnh khó trị.
Khi đã lấy hết những gốc lim, khu B chuyển qua đắp đường trong khu vực đầm.  Con đường chính cũ quá thấp và bị mưa soi mòn nên phải đắp cao và lớn hơn.  Mặt đường phải rộng 3 thước, cao hơn mặt nước 1 thước rưỡi, chân xoải dốc.
Con đường được kéo dài ra như muốn ngăn khu đầm làm hai.  Mỗi đội chịu trách nhiệm một đoạn đường.  Các giây người đứng liền nhau để chuyển đất.  Kim dùng mai xắn những tảng đất sét dưới đáy đầm, nước sâu đến đầu gối, rồi ngang thắt lưng, hết lớp này đến lớp khác.
Ánh nắng mặt trời mùa hè hâm nóng mặt nước đầm, nhưng dưới đáy đầm lại lạnh buốt như anh đang đứng trên băng tuyết.  Một lúc cơ thể anh phải nhận hai mức nhiệt độ nóng lạnh khác nhau.  Thêm vào đó anh phải luôn luôn xua đuổi đàn đỉa đói dầy đặc như những cọng bún trong nồi bánh canh.
Nước đầm sâu tới đầu gối, có chỗ ngang thắt lưng.  Đội chia 4,5 người một gốc cây.  Công việc thật khó khăn, vì dụng cụ chỉ có “mai” và “cuốc”, những thứ dùng trên mặt đất cứng.  Cuốc trở thành vô dụng, vì rễ lim cắm sâu xuống đáy đầm ngập nước.  Chiếc “mai” là dụng cụ được xử dụng nhiều, vì có thể xắn những tảng đất sét dưới đáy đầm.  Do đó cán mai dễ bị gẫy.
Mỗi buổi sáng trước khi đi lao động, cả đội  phải vào nhà kho lấy dụng cụ, và trả lại kho trước khi về trại.  Dụng cụ lao động dùng lâu ngày hư hỏng, phải mang những chiếc “mai” tới trại mộc để sửa chữa.  Kim gặp anh Hoàng, một tù nhân miền Bắc đã ở đây nhiều năm.  Nghe giọng nói của anh Hoàng, Kim  chợt hỏi:
-“ Anh quê ở tỉnh nào?”
-“ Tôi quê Nam Định.”
Kim trố mắt nhìn, vỗ vai anh, nói:
-“ Tôi cũng quê Nam Định, nhưng anh ở huyện nào?
-“ Tôi ở Phát Diệm.”
Một hình ảnh thật rõ nét hiện ra trong tâm trí của Kim, từ nhà Kim tới quê anh Hoàng thật gần, chỉ cách nhau mấy chục cây số.  Đi qua bến đò Mười là tới.  Vui câu chuyện, anh cho hay đã ở miền Nam từ năm 1968.  Kim hỏi anh:
-“ Anh vào Nam trong trường hợp nào?”
-“ Vì nhu cầu chiến trường miền Nam, chúng tôi phải nhập ngũ từ trước năm 1968.  Tôi bị bắt vào dịp Tết Mậu Thân.”
-“ Anh ở trại nào trong Nam?”
-“ Tôi ở trại Phú Quốc.”
-“ Anh thường làm việc gì khi ở trại?”
-“ Tôi cũng làm nghề mộc như bây giờ.” Anh chợt cười và nói tiếp: “Tôi trốn trại và bị bắt lại.”
Kim ngạc nhiên khi nghe nói anh trốn trại.  Vì như lời kể của anh Ngọc, một sĩ quan quân cảnh tại Phú Quốc cho hay, đời sống vật chất của tù nhân khá đầy đủ, ngày ăn 3 bữa.  Hai bữa chính ăn cơm no và có đủ chất dinh dưỡng.  Đời sống đó so với tù cải tạo bây giờ khác nhau một trời một vực.  Các anh “phải” ăn cơm hàng ngày, còn cải tạo miền Nam chỉ “ăn độn” có 5% gạo.  Kim hỏi anh:
-“ Hoàn cảnh đời sống như thế tại sao anh lại trốn trại?”
-“ Tôi thấy đời sống ngoài xã hội tốt hơn.”
-“Anh về Bắc năm nào?”
-“ Tôi về Bắc trong đợt trao trả tù binh năm 1973.”
-“ Tại sao anh vào trại?”
-“ Khi về không tìm ra công ăn việc làm, nhà cửa ruộng vườn không có, nên chúng tôi đã cướp đồ trên chuyến tầu từ Nam ra Bắc.  Lần chót tôi bị bắt.”
Kim thấy trường hợp này xẩy ra khá nhiều, nhất là sau ngày 30-4-1975.  Nhiều toán quân chưa vào đến Sài Gòn đã phải giải ngũ tập thể, một số đưa vào công tác làm đường xe lửa Thống Nhất, nhưng một số không nhỏ không có công ăn việc làm.
-“ Nghe nói anh đã được tha sao còn ở đây?”
-“ Vì đời sống trong này sướng hơn…”
Nắng như thiêu đốt.  Hơi nóng từ dẫy núi đá vôi tỏa ra làm không khí thêm ngột ngạt.  Không có lấy một cơn gió vì toàn khu nằm trong lòng chảo.  Trời nắng tháng năm càng nóng, đã nhuộm nâu mảnh da lưng, các khuôn mặt vốn hốc hác càng thêm tiều tụy.  Bữa ăn của tù thật khiêm nhượng, vì trại không có khả năng sản xuất, nguồn thực phẩn nuôi tù tùy thuộc vào địa phương, vì vậy đời sống của tù lên xuống bất thường, không hẹn một bữa ăn no.
Khi con đường lớn ngăn vùng nước sâu đã hoàn thành, các đội chuyển qua đắp các bờ nhỏ, ngăn khu đầm nước thành nhiều ô vuông, với mục-đích khi nước rút sẽ còn lại những mảnh ruộng hầu xúc tiến việc canh tác.  Nhưng tiếc thay ngay khi vừa hoàn tất, sau những cơn mưa lớn nước từ triền núi bao quanh đổ xuống, đã soi lở các con đê bờ đỗi, trả lại mặt đầm màn nước bạc mênh mông. Khu đầm lầy lại trở thành một biển hồ.
Không thể làm gì hơn khi nước đầm mỗi ngày một dâng cao sau những cơn mưa, các đội được phân công vác đá tảng để hoàn tất các bức tường trại đang xây dở.  Làm thêm những căn nhà mới hầu đáp ứng nhu cầu giam giữ những người cải tạo miền Nam. 
Chỗ lấy đá cách xa nơi tường xây cả trăm thước.  Tù nhân phải đạt chỉ tiêu buổi sáng 35 và buổi chiều 25 tảng.  Ðá phải lớn, ít ra cũng nặng 30, 40 Ký.  Cán bộ kiểm soát kích thước mỗi tảng đá và số lượng đã giao khoán.
Kim và các bạn chẳng bao giờ đạt chỉ tiêu mức khoán vì công việc quá nặng nề.  Anh luôn bị khiển trách vì chỉ tiêu không đạt mà đá cũng không đúng kích thước đã giao.
Thấy năng xuất vác đá của đội anh qúa thấp, trại cho đội phát quang khu triền núi nằm giữa trại và đầm, công việc có vẻ nhẹ nhàng hợp với sức khỏe anh em hơn.
   Theo thông lệ tại các trại cải tạo, mỗi tuần đội sinh hoạt một lần vào tối thứ sáu sau bữa cơm chiều khi cửa phòng đã đóng.  Người điều khiển buổi sinh-hoạt buổi sinh-hoạt là buồng trưởng hay buồng phó, và thư ký có trách nhiệm ghi đầy đủ lời phát biểu của anh em trong phòng. 
Trại thường nhấn mạnh đến công tác mà tù nhân phải làm, buộc phải thực hiện đúng mức khoán của trại.  Rồi đến phần kiểm điểm công tác trong tuần có đạt chỉ tiêu chưa, và sau chót là mục phê và tự phê.
Ðây là lúc thù hận cá nhân được phơi bầy, có người chẳng ngần ngại bới móc chuyện của người khác.  Có lẽ cán bộ chờ đợi giây phút này để tìm hiểu hoạt động trong dĩ vãng của một số anh em, cũng như ý đồ của tù nhân hiện tại.
Thực ra chẳng ai tha thiết gì tới các buổi sinh hoạt trong phòng.  Vì sau một ngày lao động cực nhọc, mọi người cần nghỉ ngơi để gân cốt xả dãn thoải mái, hơn là ngồi nghe những điều vô bổ trái tai.  Anh em thèm một giấc ngủ càng sớm càng tốt, để tránh cơn đói hoành hành vào lúc nửa đêm.  Mặc dù mỗi tuần chỉ có một tối sinh hoạt, nhưng lại là những giây phút cực hình với tù nhân miền nam.
Ngay khi đến trại này, Kim nhận ra một điểm khác hẳn với các trại anh đã đi qua.  Từ trại Băng-Ky đến Phan-đăng-lưu, Gia-rai Long-khánh, mặc dầu cùng một hệ thống quản lý cuả bộ Nội vụ, nhưng chính sách áp dụng mỗi nơi một khác, nó vẫn mang hình ảnh địa phương tự trị.
Khi còn ở miền Nam, với cùng một bản nội quy được mệnh danh là chính sách của đảng và nhà nước.  Trong cách xưng hô tù nhân gọi cán bộ bằng anh, dù chỉ là cách nói cho đẹp bề ngoài, ra vẻ bình đẳng giữa con người với con người, cho dù là tù với cai ngục.  Sau đó lại có một lần sửa sai trong bản nội quy, danh từ "tù nhân" được đổi là "trại viên" nghe có vẻ nhẹ nhàng hơn, tù gọi viên chức công-an là "cán bộ" và xưng "tôi".
Ra tới đây, nơi thành đồng vững chắc của xã hội chủ nghĩa nên hơi quan liêu một chút.  Anh nhớ hôm đầu mới tới, tổ anh phụ trách lấy cơm cho phòng.  Anh và các bạn cùng đi ngạc nhiên khi thấy một vài người bên Khu A ngả nón cúi người nói "chào ông" khi qua mặt mấy cán bộ trẻ chỉ đáng tuổi con cháu mình. 
Có lẽ vì nặng tính cổ xưa, hay vì chưa trải qua những trại như các anh, để có dịp nhìn thấy sự thay đổi trong chính sách nhà nước.  Và cũng ở trại này, các anh lấy làm ngạc nhiên khi thấy tù nhân miền Bắc phải gọi cán bộ bằng "ông" và xưng "cháu", một điểm không thấy xuất hiện ở các trại miền Nam.
Anh biết dưới mỹ từ "cải tạo", anh chỉ là một tên tù "khổ sai" và khi ra đây anh đã khoác thêm cái cái án "biệt xứ".  Cuộc đời của anh không còn tùy thuộc vào anh, không còn là của anh nữa.  Có chăng, chỉ còn lòng tự-trọng và tính bất khuất của người miền Nam.
Trong khi đội đi lao động, tư trang và chỗ nằm thường bị khám xét.  Hàng tháng, một đôi lần bất kể lúc nào, khi buổi trưa trước giờ lao động buổi chiều hay gặp ngày nghỉ cuối tuần, bọn công-anh bất thình lình kéo vào phòng kiểm soát.  Mọi người phải mang đồ cá nhân trong phòng cũng như để trong nhà kho ra sân.  Hai cán bộ khám đồ từng người trong khi mấy tên khác vào phòng lục soát.  Chúng cậy ván sàn, moi móc tùng góc kẹt tìm xem tù nhân giấu những gì trại cấm.  Chẳng hạn một miếng sắt mỏng bằng ngón tay mài sắc để cạo râu, cắt móng tay hay gọt củ khoai củ sắn.  Họ vẫn đề phòng tù nhân dùng mảnh sắt này làm phương tiện đục tường trốn trại.  Kỵ nhất là cất dấu muối vì là thức ăn cần thiết khi chạy trốn.  Các gia vị tiêu tỏi xả cũng tuyệt đối cấm vì làm lạc hướng truy lùng của đám chó săn.
Ðồ nhôm sắt cũng không được dùng.  Mọi thứ xử dụng hàng ngày từ ca uống nước, bát ăn cơm hay cái muỗng thẩy đều bằng nhựa.
Mọi thứ có liên quan tới tiếng nước ngoài đều bị tịch thu, nhất là tài liệu sách báo.
Tù nhân vi phạm nội quy sẽ lãnh hình phạt tùy theo cảm hứng của cán bộ.  Nhẹ thì làm kiểm điểm, còn nặng thì giam phòng tối, và có thể bị còng tay hay cùm chân hay bị cả hai.  Thời gian có thể một tuần hay cả tháng, có khi được quên đi cả năm.  Có người ở phòng kỷ luật 2, 3 năm liền.
Phần ăn của những người chịu hình phạt kỷ luật bị cắt giảm.  Trại nghĩ họ không đi lao động nên không cần tới lượng thực phẩm như người lao động.  Vì vậy, đời sống của tù cải tạo ở các trại miền Bắc thật đơn giản.
Cán bộ phụ trách phòng còn trẻ, có thân nhân tử nạn trong cuộc dội bom miền Bắc, nên chẳng có chút cảm tình với tù cải tạo miền Nam.  Còn quản giáo phụ trách đội về lao động tên Thành đã không có thiện cảm với anh em ngay từ buổi đầu mới tới.  Khi anh em đi lãnh bao tư trang gửi tầu, hắn nhìn mọi người xếp hàng về phòng với bộ mặt khinh khỉnh buông lời mai mỉa:  "Ði đâu cũng bao bị như một lũ ăn mày…"
Một câu nói thật mất lòng.  Anh em nhìn hắn mỉm cười trêu tức.  Cảm tình đầu tiên giữa con người với hắn đã không có, nên sau này trong giờ lao động có những câu nói, hành động coi thường hắn.  Không khí lao động vì vậy mà căng thẳng.
Mấy tháng sau Huyền thôi không làm buồng phó, mọi người thông cảm Huyền về những khó khăn ở chức vụ này.  Anh em trong phòng đề nghị Kim lên thay, anh chưa nhận lời vì cần thời gian suy nghĩ.  Anh nhìn thấy khó khăn trước mắt vì đám người yếu lòng làm tay sai cho cán bộ trại luôn theo rõi báo cáo về sinh hoạt trong phòng.  Kim hiểu rõ những người bạn cùng đi với anh từ trại Ty đến Phan-đăng-Lưu, trong dĩ vãng đã chứng tỏ có tinh thần chống cộng tuyệt đối.  Ðã nếm trải nhiều thử thách, từ phòng tối đọa đầy đến kỷ luật cực hình, họ vẫn không thay lòng đổi dạ.  Ðến Gia-rai tập thể cải tạo đã pha trộn một số người yếu lòng, và khi ra Bắc những người này càng mất tinh thần.
Anh em trong phòng bảo anh:  "Anh nên nhận lời làm buồng phó, vì nếu anh không nhận làm, cán bộ trại sẽ cử một tên ăng-ten thì anh em trong phòng sẽ gặp nhiều phiền phức …"
Kim bảo các bạn:  "Chức vụ buồng trưởng hay buồng phó thực ra không có gì khó khăn, vì chỉ là người đại diện anh em khi liên hệ với cán bộ."
Trên hình thức thực đơn giản, nhưng trong thực tế lại trái ngược.  Vì là gạch nối giữa tù và cán bộ, nên cán bộ trại luôn muốn được biết sinh hoạt của anh em trong phòng qua những người ở chức vụ này.  Và mặt khác thường tạo ra một hố sâu cách biệt với tập thể, dễ bị hiểu lầm vì quyền lợi cá nhân trong khi liên hệ với cán bộ.  Khi nhận lời anh phải chọn một trong hai con đường,  theo cán bộ trở thành một thứ dễ sai để tấm thân nhàn hạ, hay đứng về phía anh em là một đại diện thực sự để đòi hỏi quyền lợi cho anh em cải tạo.
Anh đã nhấn mạnh với các bạn: "…Nếu các anh yêu cầu, tôi nhận lời, nhưng có điều phải nói trước là với dĩ vãng chống đối của tôi, có thể gây cho anh em không khí căng thẳng hơn.  Tôi luôn chọn con đường đứng về phía các bạn."
Kim cùng đội đi lao động như thường lệ.  Buổi sáng lao động 4 giờ, được nghỉ giải lao 15 phút ở giữa thời gian lao động.  Hôm phát quang khu núi phía sau trại, thời tiết quá oi nồng.  Hơi nóng toả ra từ dẫy núi đá vôi dưới cơn nắng cháy, nhất là buổi sáng chỉ điểm tâm bằng ca nước lạnh, khiến mọi người mau mệt mỏi. 
Thấy làm đã lâu mà cán bộ vẫn chưa cho đội nghỉ giải lao, trong khi anh em đã mệt mỏi, áo ướt đẫm mồ hôi.  Anh thấy ba cán bộ đang cười đùa dưới bóng cây, anh nghĩ chắc bọn chúng mải vui nên quên giờ nghỉ của đội, anh quay qua hỏi các bạn:
-"Anh em đã mệt chưa?"
-"Mệt lắm rồi, nghỉ một lát đi."
Anh bảo các bạn:
-"Chúng ta nghỉ tay 5, 10 phút cho đỡ mệt rồi lại làm tiếp."
Cán bộ quản giáo thấy đội nghỉ giải lao khi chưa có lệnh, hắn tức giận gọi anh tới:
-"Chưa có lệnh của tôi sao anh đã cho đội nghỉ?"
-"Trời quá nóng nực làm việc lại cực nhọc nên chóng mỏi mệt, tôi để anh em nghỉ 5, 10 phút cho lại sức sau đó lao động sẽ có năng xuất hơn."
Dù lời nói của anh có lý nhưng trái với sinh hoạt bình thường.  Hắn là người có quyền, đại diện cho một thứ công-lý bạo quyền, buộc mọi người phải tuân theo.  Hắn tức giận bảo anh:
-"Anh trở về chỗ cho đội lao động trở lại, tôi có lệnh nghỉ khi tới giờ.  Nếu anh còn vi phạm tôi sẽ có biện pháp kỷ luật với anh."
Kim trở về chỗ lao động.  Anh em đã đoán biết sự việc khi tên cán bộ gọi anh tới….
 Thiên tai đã ảnh hưởng tới đời sống dân chúng tại một số tỉnh miền Bắc nên thực phẩm nuôi tù cũng giảm sút.  Bữa ăn có dưa gang xào qua mỡ ở những ngày đầu mới tới không còn xuất hiện.  Phần cơm cũng ít đi, không thường xuyên như trước nữa.  Bữa ăn 200 gam chất bột đã được chen vào bằng chiếc bánh mì nướng bột mầu nâu do Liên-sô hay Hungary viện trợ, hay những củ khoai mì, khoai lang luộc.  Mỗi bữa ăn được vài cọng rau muống luộc, mấy qủa cà pháo hay dưa cải muối mặn.  Nếu được ăn canh bí đỏ ít khi thấy nguyên miếng, thường thường chỉ là tổng hợp của nước muối và lợn cợn mầu vàng của xơ bí. 
Vào một buổi chiều, bữa cơm chiều đã lấy về phòng.  Hôm nay có cơm và canh rau muống nấu muối.  Như thường lệ 5 người một mâm.
Kim vừa ngồi xuống chỗ nằm chưa kịp hút điếu thuốc lào, chợt nghe ngoài sân có tiếng anh em phàn nàn về phần cơm.  Anh bỏ điếu bước ra sân, buồng trưởng không có mặt tại phòng.  Một vài bạn lên tiếng:
-"Không hiểu tại sao phần cơm hôm nay thiếu, mỗi người chỉ có miệng chén, bên dưới toàn cháy.  Phó phòng giải quyết cho anh em."
Kim hỏi các bạn:
-"Các anh đã kiểm soát các mâm khác chưa, có thể bị lộn một mâm không?"
-"Chúng tôi đã xem kỹ, mâm nào cũng vậy."
Kim nhủ thầm, đây là một trường hợp không thể bỏ qua.  Nhất là đám cán bộ nhà bếp từ trước đến nay vẫn có hành động như bố thí, cho mọi người ăn làm sao phải chấp nhận làm vậy.  Anh bảo các bạn:
-"Chúng ta hãy tạm ngưng bữa ăn, để tôi gặp cán bộ trực trại."
Kim ra cổng gác, cán bộ trực trại là một thượng sĩ có tuổi, hắn là người hòa nhã nhất mà anh gặp ở trại này.  Bản chất nông dân chân thật, vì vậy còn chút tình người.  Thấy Kim ra hắn hỏi:
-"Anh ra đây có việc gì?"
-"Phòng 8 có thắc mắc về bữa cơm chiều, xin cán bộ giải quyết."       
     -"Có gì cần, anh nói rõ cho tôi hay."
-"Phần cơm chiều nay không đúng như tiêu chuẩn thường ngày."
Cán bộ trực trại theo anh vào phòng.  Khi thấy các mâm cơm còn nguyên, hắn hỏi anh em đứng xung quanh:
-"Có chuyện gì mà các anh chưa ăn cơm?"
Kim lên tiếng:
-"Chúng tôi thấy có sự việc không đúng trong bữa cơm chiều nay.  Phần cơm chia ra mỗi người chỉ còn một chén, thay vì ba miệng chén như trước đây, dưới đáy nồi toàn là cháy."
Anh bới một nồi cơm ra chén cho cán bộ trực trại thấy.  Sau khi quan sát các mâm, hắn bảo anh em hãy chờ để gọi cán bộ nhà bếp lên cho ý kiến.
Từ trước đến nay bếp cải tạo miền Nam do một cán bộ chuẩn úy phụ trách, mọi việc về ẩm thực cho gần 1000 cải tạo do hắn quyết định.  Nhân viên nhà bếp là đám tù hình sự miền Bắc.
Hắn cùng cán bộ trực trại vào sân, theo sau là mấy tên hình sự dưới quyền.  Cán bộ trực trại chỉ các mâm cơm hỏi hắn:
-"Anh cho biết tình trạng cơm nước hôm nay.  Có phải anh chia cơm thiếu cho phòng 8?"
Vẫn dáng điệu hùng hổ tức giận, hắn nhìn các mâm cơm, chiếu thẳng cặp mắt hầm hầm vào anh em đứng xung quanh, quay qua Kim hắn gằn giọng:
-"Cơm chia như thường lệ, còn cháy tản cho phòng anh hôm nay."
Kim quay nhìn cán bộ trực trại, anh cúi xuống một nồi cơm còn nguyên, xới cơm ra 5 chén.  Mới chỉ được miệng chén đã hết cơm, phía dưới toàn cháy, anh nói:
-"Nếu lượng cơm như thường lệ, mỗi người sẽ được gần 3 miệng chén.  Cháy tản luân phiên cho các phòng, và thường để trên mặt nồi cơm.  Tôi thấy trường hợp này hơi lạ, số cơm đã thiếu 2/3 so với thường lệ.  Tôi muốn nói là nhà bếp đã ăn chặn phần cơm của anh em, trái với nội quy của trại, nên chúng tôi đợi cán bộ trực trại giải quyết."
Lời nói của Kim làm cán bộ nhà bếp và đám nhân viên của hắn chưng hửng, mất đi vẻ hùng hổ lúc đầu.  Bộ mặt tức giận của hắn xám lại, không nói được một lời.  Cán bộ trực trại đã thấy sự thật, quay qua bảo Kim và anh em đứng xung quanh:
-"Nhà bếp đã vi phạm.  Bây giờ đã tối nấu cơm không  kịp, vậy anh bảo anh em ăn cơm, ngày mai nhà bếp sẽ bồi hoàn số cơm thiếu."
-"Rất cám ơn cán bộ, chúng tôi chỉ muốn đưa ra những sai trái hầu tránh vi phạm sau này, vì ảnh hưởng tới sức lao động của anh em."  Anh quay qua các bạn tiếp lời: "Cán bộ trực trại đã hứa, bây giờ đã trễ, chúng ta ăn cơm để kịp giờ đóng cửa."
Anh em vui vẻ trở lại mâm cơm, ghi nhận vừa đạt một thắng lợi dù nhỏ, là vạch ra những sai trái của đám cán bộ trại.  Mặt khác đã củng cố được tinh thần đoàn kết, không khiếp sợ trước bạo lực cộng sản.  
Trong trại có đủ mọi thành phần.  Từ quân nhân, nhân viên hành chánh trình diện theo lệnh gọi học tập sau ngày 30/4, đến qúy vị thuộc các đảng phái chính trị và tôn giáo.  Và sau nữa là thành phần "phản động chống cộng-sản", mà đông đảo nhất là giới sinh-viên học sinh đủ mọi trình độ văn hóa.
Tại các phòng, một số anh em thuộc thành phần an phận, lưng chừng, không có hành-động chống đối rõ rệt, dứt khoát nhưng luôn luôn ước vọng quốc gia miền Nam được khôi phục một sớm một chiều, nhận lãnh những gì đã mất trong suốt thời gian cầm tù vừa qua.
Kim cảm phục anh Lê Thuần Khương, một sĩ quan cải tạo, đã một lần nói lớn trong phòng khi có người đề cập tới việc được truy lãnh như lời đồn: “…Thử hỏi chúng ta đã đóng góp những gì vào công cuộc khôi phục xứ sở sau thời gian đất nước bị chiếm đoạt.  Liệu có xứng đáng đòi hỏi quyền lợi cá nhân, trong khi còn bao nhiêu người tiếp tục đấu tranh, bị bắt cầm tù.  Họ có đòi hỏi chút quyền lợi nào cho họ không …"
Pha trộn không khí khích động nóng bỏng của giới trẻ, không chấp nhận chế độ cộng-sản dù ở hoàn cảnh nào, còn có những người khiếp nhược trước bạo lực cộng-sản, dễ mềm lòng trước lời hứa ngon ngọt sớm được về xum họp với gia đình.  Họ là người gió chiều nào che chuều đó, và vì một chút tư lợi như được viết thư thăm gia đình, hay có thêm phiếu gửi quà đã quay mặt lại anh em.  Có người im lặng theo rõi sinh hoạt anh em trong phòng hầu báo cáo cán bộ trại.  Nhưng cũng có tên hành động không cần dấu diếm, con người hắn đã hoàn toàn thay đổi.  Như trường hợp của tên Quế, một sĩ quan cấp úy, đã lây tư tưởng cộng-sản khi làm việc tại ủy ban quân sự hai bên.  Hắn vẫn ca tụng các nhân vật cộng-sản mà hắn đã tiếp xúc trước kia, và trong một buổi họp tại phòng hắn đã lớn giọng :“…Các anh phản động chống cách mạng cái gì.  Trước kia có cả 500 ngàn quân ngoại quốc, cả triệu ngụy quân, cả trăm ngàn cảnh sát mà còn bỏ chạy, huống hồ bây giờ chỉ có mấy ngoe.  Thiệu Kỳ đã bỏ chạy, các anh trông chờ vào ai …"
Anh em chua xót về lời nói của hắn.  Niềm tủi nhục đến với mọi người như khơi vết thương bật máu.  Vì hắn là người Quốc gia, từng chiến đấu dưới mầu cờ sắc áo.  Ðã từng ăn cơm Quốc gia mà bây giờ lại thờ ma cộng-sản.
Tự thâm tâm Kim nhận ra sự thật chua cay mà người miền Nam phải gánh chịu.  Thiệu Kỳ không còn chỗ đứng trong lòng người dân miền Nam, chứ đừng nói một lần nữa là người đại diện.  Tập thể cải tạo, những người ở lại với mảnh đất quê hương cho tới những giây phút dẫy chết, đã phỉ nhổ hành động phản bội.  Không ai trông mong gì ở bọn họ cả.  Người miền Nam đã trải qua thử thách đau thương, cùng chung một ý nghĩ, một ngày nào đó Quốc gia này hưng phục, không thể để bọn phản bội múa gậy vườn hoang một lần nữa.
Và trong hoàn cảnh này, lòng căm hờn chưa tàn lụn, không thể chấp nhận một câu nói, một hành động phản bội đâm sau lưng anh em, phải cho hắn nếm mùi cay đắng.
Vào một buổi trưa, mọi người đang yên giấc để lấy sức lao động buổi chiều, anh chợt nghe tiếng kêu phía sau nhà ngủ.  Tiếng kêu như tắc nghẹn không thoát ra ngoài.  Anh và buồng trưởng chạy ra sau nhà nơi có tiếng kêu, thấy Quế nằm trên lối đi trước phòng vệ sinh.  Mắt hắn nhắm nghiền, miệng há hốc thở dốc như con heo bị thọc huyết, mặt mũi phủ đầy vôi bột.  Anh biết hắn không chết được, đây mới là lần cảnh cáo cho những loại người làm tay sai, phản bội anh em như hắn.
Buồng trưởng vội đưa hắn đi trạm xá.  Trại cũng không biết ai là thủ phạm.  Hoặc gỉa hắn có chết cũng không gây cho đám cán bộ trại một chút quan tâm.  Họ đang nhìn tập thể cải tạo này tàn lụn dần dần, như vậy mới hợp với chính sách, tô thắm thành quả chiến thắng vĩ đại.
Y sĩ trại định bệnh cho hắn đã ghi nhận, "cuống họng sưng vì bị bóp cổ kéo lưỡi ra ngoài.  Một cánh tay sai khớp vai, mấy dẻ sườn bị gẫy…" Hắn được chuyển tới phòng 12, dành cho thành phần già yếu, bệnh tật miễn lao động.
Hành động trừng phạt có hơi nặng tay, nhưng đó là cách duy nhất cảnh tỉnh hắn về những hành động phản bội mà hắn đã đối xử với anh em.  Kim vẫn đánh dấu hỏi, liệu những người như hắn, như tên Ðịnh ở trại Gia-rai, và sau này tên Thi của trại Thanh-cẩm có nhận thức được việc mình làm và hậu quả phải gánh chịu.  Hay chỉ vì tính ươn hèn khiếp nhược, chỉ nhìn thấy điều lợi trước mắt mà ngựa vẫn quen đường cũ.
Qua mấy tháng nắng, mọi người đen xạm khô cằn như chiếc khăn đã vắt hết nước, người trông tiều tụy hơn.  Chỉ tiêu lao động vẫn không giảm theo sức khỏe tù nhân.  Kim càng ngày càng thấy mệt mỏi, anh tự hỏi không rõ mình kéo dài kiếp sống được bao lâu nữa.
Tin có quà của gia đình gửi tới làm mọi người phấn khởi.  Về phần Kim, anh không mấy hy vọng vì chưa có dịp thư từ liên lạc với gia đình.  Khi rời trại Gia-rai anh có để thư nhờ người ở lại nhắn tin dùm, nhưng chắc gì đã tới tay gia đình.  Dù vậy anh vẫn mong đợi những tin vui.
Mỗi phòng có một danh sách ghi tên những người có quà.  Danh sách khá dài, hầu như có tên tất cả mọi người trong phòng.  Kim rất vui khi thấy có tên, anh đang mong  tin gia đình.  Mặt khác, thân thể anh như cây khô trong mùa nắng hạn, đang cần những giọt mưa, dù không làm cây trở lại xanh tươi, nhưng cũng giữ được trong nhất thời không khô héo tàn lụn.
Cầm mấy lá thư của các con lòng anh thật buồn.  Niềm thương xót dâng lên.  Lá thư đứa con trai đầu viết đã chững chạc.  Rồi đến ba đứa con gái, tuy còn nhỏ tuổi chúng đã biết cùng nhau chăm xóc việc nhà giúp mẹ, biết lo lắng cho nhau.  Còn đứa con trai út mới lên 5, đã đi học.  Nhìn nét chữ viết bằng bút chì trong dòng kẻ ô lớn thấy thương nó làm sao.  Anh nhớ hôm lên thăm anh ở Gia-rai Long-khánh, lúc anh trở vào trại nó vuột khỏi tay mẹ, chạy theo sau anh gào khóc đòi bắn bỏ bọn cộng-sản vì bắt cha của nó.  Anh đã suy nghĩ và lo lắng rất nhiều, trí óc ngây thơ mới 3 tuổi của con sao đã sớm vướng vào thù hận.  Hay ngoại cảnh đã in dấu vào tâm trí trong trắng của nó, mà sự gào thét chạy theo bố chỉ là một hành động tự nhiên khi nó biết tình yêu thương bị mất mát.  Anh thương nhớ các con vô cùng. 
Ðọc thư vợ anh mới biết mấy mẹ con nàng có lên Gia rai thăm anh vào cuối tháng 4 như dự định:
"…Như đã hứa với anh, mấy mẹ con em có lên thăm anh vào kỳ cuối tháng 4.  Khi đến nơi mới hay anh không còn ở đó nữa.  Em có hỏi nhưng họ không cho biết anh chuyển đến trại nào.  Các con hỏi sao không thấy anh càng làm em buồn hơn.  Em trở về nhà với nỗi thất vọng hoang mang, lại một lần nữa mất hút anh, không biết số phận anh ra sao.  Em chỉ còn biết chờ đợi, hy vọng sớm được tin anh."
"Cách đây ít ngày, địa phương cho hay em được phép gửi quà cho anh.  Thư hướng dẫn ghi rõ địa chỉ gửi quà là trại Chí-hoà, đường Lê-văn-Duyệt.  Em nhủ thầm, dù không được gặp mặt nhưng cũng tạm yên lòng, vì anh ở gần nhà, trước sau gì cũng có dịp gặp anh."
"Em không rõ anh cần thứ gì, vì thời gian cho gửi quà quá gấp.  Em vội mua vài thứ thường dùng, nhất là thuốc bổ đa sinh tố.  Em gửi ít quần áo anh mặc thêm vì trời về đêm đôi khi trở lạnh.  Em làm một vài món ăn anh thích và bánh mì thịt nguội.  Xôi lạp xưởng còn nóng, hy vọng khi anh nhận được xôi chưa nguội…”
Nàng thật tội nghiệp.  Lấy chồng chưa hưởng được bao năm sung sướng lại lao vào cuộc đời bất hạnh.  Anh ra đi không để lại gì cho vợ ngoài gánh nặng nuôi dậy 5 đứa con thơ dại.  Gia sản đã trắng tay bây giờ lại thêm mối lo cho chồng.    
Kim mở thùng quà trong có ít quần áo, đồ dùng vệ-sinh cá nhân, thuốc bổ đa sinh tố, thuốc cảm sốt, bánh thuốc lào 3 số 8, ít thức ăn khô mặn…Một ổ bánh mì thịt nguội, thứ bánh mì chợ cũ mà anh vẫn thích ăn khi ở nhà.  Một gói xôi trắng với cặp lạp-xưởng.  Rất tiếc gói xôi đã mốc xanh, thịt nguội trong bánh mì đã lên mùi.
Kim nhìn gói quà mà lòng thật buồn, chắc mấy mẹ con phải nhịn miệng để gửi quà cho anh.  Tội nghiệp cho nàng, làm sao có thể bơi chải kiếm sống qua hai hoàn cảnh xã hội khác biệt.
Nhìn các bạn, ai cũng được gia đình gửi những món ăn liền.  Như vậy chuyến ra Bắc của các anh vẫn được giữ kín, vì gia đình lầm tưởng đang ở trại Chí-hòa.

&

Ðội 8 được giao khai quang khu đất sau dẫy nhà cán bộ.  Ðội đau ốm nhiều nên nhân số lao động chỉ còn hơn 30 người.  Khi đội nghỉ giải lao, Kim nghe cán bộ quản giáo gọi tên anh.  Hắn ngồi trên ghế đẩu, quay lưng về phía hàng rào kết bằng thân cây khoai mì bao quanh khu nhà cán bộ.  Anh đi tới trước hắn hỏi:
-"Cán bộ gọi tôi?"
-"Anh ngồi xuống đi, tôi có chuyện cần hỏi anh."
Một hình ảnh không mấy đẹp mắt thường xẩy ra là cán bộ ngồi trên ghế, còn tù cải tạo ngồi xổm trước mặt hắn.  Tự nhiên anh thấy cơn giận trong lòng mình nổi dậy, bản chất hắn vẫn khinh người, bảo các anh khi mới tới lôi thôi như đám ăn mày, tay bao tay bị.  Anh đứng cách hắn ba bước, trả lời:
-"Tôi đứng được rồi, cán bộ cần hỏi tôi điều gì?"
Hắn hỏi về sinh hoạt gia đình anh trước tháng 4/75, về dĩ vãng từ thành phần, học vấn đến tội danh đưa anh vào tù.  Kim hiểu là hắn đã đọc kỹ hồ sơ cá nhân của anh, nhưng anh vẫn trả lời như đã khai trong bản cung.  Bất chợt hắn nói:
-"Tôi nhận là các anh thông suốt lý thuyết về chế độ tư bản, nhưng về lý thuyết cộng sản các anh không thể biết bằng chúng tôi được…"
Kim ngạc nhiên tại sao hắn lại nói với anh về học thuyết cộng sản vào lúc này.  Hay hắn vẫn ấm ức vì các anh coi thường hắn trong những lần giao tiếp khi lao động.  Nhưng anh công nhận là hắn thuộc bài.  Một lần nữa anh được nghe về ba dòng thác cách mạng, học thuyết Mác Lê bách chiến bách thắng.
Anh chợt nhớ là đã trả lời tên cán bộ Ðào, người lấy cung anh ở trại Phan-đăng-Lưu, và lúc này anh cũng muốn nhắc lại câu nói này:
-"Mặc dầu chúng tôi ở miền Nam nhưng rất rõ về lý thuyết cộng-sản.  Vì miền Nam tự do, không cấm đoán khi tìm hiểu bất cứ học thuyết nào, dù là của đối phương.  Tôi đã học và đọc sách về cộng-sản khi còn đi học.  Có một điều chúng tôi hiểu rất rõ là học thuyết này đã lỗi thời, nó không phải là khuôn vàng thước ngọc để noi theo…"
Kim thấy mặt hắn đổi sắc, môi mím lại như cố nén cơn tức giận, để không có những hành động không mấy tốt cho anh trước mặt anh em cải tạo.  Hắn nói sẵng giọng:
-"Nhưng xã hội tư bản của các anh chỉ là một thứ phồn vinh giả tạo, không có gì thuộc về cá nhân anh.  Căn nhà ở cũng phải trả góp, khi chết vẫn chưa dứt nợ.  Còn ở đây, dù căn nhà có nhỏ nhưng là của tôi …”
Nhiều khi anh cũng chẳng muốn trả lời, đôi co với đám cán bộ này vì chẳng đạt mục đích gì, nhưng không hiểu sao hôm nay anh lại to tiếng với hắn.  Hay giữa anh và hắn có điểm xung khắc, nên mỗi lần anh dẫn đội đi lao động đều gặp khó khăn.  Chắc hắn vẫn nhớ tới mối hận cũ, khi anh tự ý cho đội nghỉ lao động, dám coi thường quyền lực của hắn.  Kim quay nhìn anh em trong đội đang nghỉ giải lao, anh bắt gặp những nụ cười cái nháy mắt của các bạn.  Anh tự nhủ thêm hay bớt một câu cũng thế thôi.  Số phận của anh chẳng làm sao thay đổi, nhưng máu vẫn nóng và lòng luôn căm hờn.  Anh chậm rãi:
-"Tôi công nhận cán bộ nhận xét đúng… "
Nói tới đây anh ngưng lại.  Anh thấy mặt hắn có vẻ dịu đi trước câu nói thán phục của anh.  Hắn muốn anh phải khuất phục, khiếp sợ trước uy quyền của hắn.  Anh tiếp lời:
"Nhưng tôi vẫn thích đời sống của xã hội miền Nam, mặc dù phải trả góp 10 năm căn nhà mình ở, nhưng mỗi giờ phút sống trong căn nhà đầy đủ tiện nghi đó, tôi vẫn cảm thấy thích thú hơn là sống trong căn nhà sau lưng cán bộ."
Cơn tức giận như đã lên đến cực độ, hắn vụt đứng dậy, cầm chiếc roi chỉ vào mặt anh:
-"Anh nhớ là các anh đang đi cải tạo. Chúng tôi chiến thắng vì chúng tôi có chính nghĩa. Anh về chỗ lao động."
Một lần nữa anh nghe rõ hai chữ "chính nghĩa" từ miệng một tên cộng-sản.  Có phải đó là mồi nhử để người miền Bắc phải hy sinh cả người lẫn của cho một cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
Anh em đứng gần nhìn hắn, nhìn Kim mỉm cười.  Anh nhận rõ một điều là từ ngày bước chân vào tù, sự sống thật mong manh.  Anh đã chống chỏi từ trại Ty lên Thành, nhiều lúc tưởng chừng mình có thể từ giã cõi đời.  Và bây giờ ra đây, tai ương vẫn dồn dập tới.  Thôi đằng nào cũng vậy, cực hình bao nhiêu cũng thế thôi, sống chết chỉ có một lần, anh đâu được quyền lựa chọn.
Kim vẫn dẫn đội đi khai quang.  Mỗi người sau giờ lao động phải có hai ôm lá cây nộp trại làm phân xanh.
Trời nắng gắt, sức lao động vì vậy không bền. Trước giờ nghỉ giải lao, cán bộ Thành ngồi trên ghế đẩu có hai cán bộ võ trang đứng hai bên, giận giữ gọi anh tới nói lớn:
-"Tôi thấy đội lơ là lao động, nghỉ nhiều hơn làm,
anh không đốc thúc anh em lao động cho tốt."
Anh trả lời hắn:
-"Chúng tôi lao động liên tục, mặc dù người mệt mỏi vì trời nắng gắt mà bụng lại đói.  Chúng tôi không thể làm hơn sức của mình."
Hắn vụt đứng dậy, tay phải cầm cành cây đã tuốt hết lá, nhịp nhịp trước mặt anh, nói lớn:
-"Anh là tên phản động, luôn luôn có tư tưởng chống đối.  Tôi phạt kỷ luật anh vì hành động chống lao động.  Anh không được nghỉ giải lao.  Anh ra ngoài nắng ngồi."  Hắn quay qua nói với đội: "Cả đội vào chỗ mát nghỉ giải lao."
Thấy hành động vô lý của hắn, anh em trong đội nhao lên tỏ vẻ bất mãn đưa lời phản đối.  Trước tình trạng căng thẳng, hai tên võ trang dàn sang hai bên, đạn lên nòng hướng mũi súng về phía anh em.  Kim bảo các bạn:
-"Các bạn vào trong mát ngồi nghỉ đi, đã phơi nắng từ sáng đến giờ rồi.  Tôi ngồi tại đây, trời nắng nhưng có gió cũng dễ chịu."
Kim ngồi xuống thảm cỏ không có lấy một bóng cây che nắng.  Mồ hôi đã thấm ướt lưng áo, đã nhỏ giọt nơi trán.
Anh Nguyễn Văn Huyền, nguyên đội phó của đội nói với anh em:
-"Chúng ta cùng ngồi nắng với đội phó cho vui."
Cả đội tới ngồi chung với Kim.  Người ngồi kẻ nằm dài trên cỏ cười nói như không có chuyện gì xẩy ra.
Ðám cán bộ chưng hửng khi thấy anh em hưởng ứng lời Huyền, coi thường lệnh của hắn.  Hắn những tưởng tách rời Kim ra khỏi đội sẽ dễ trừng trị anh hơn.  Chính lúc này anh cảm thấy phấn khởi vì tình đoàn kết của anh em trong đội, mà tình đoàn kết này cần được củng cố và phát triển.      
Bước sang tháng 8, trời vào thu nhưng nắng vẫn còn gay gắt.  Ánh nắng như hun nóng dẫy núi đá vôi, toả ra hơi nồng đến ngộp thở.
Sau những ngày mưa rả rích, nước trong đầm dâng cao.  Những con đê bờ đỗi mà khu B bỏ công xây đắp, đã chìm hẳn xuống dưới mặt nước.  Không có lấy một ngọn cỏ tranh vươn lên như khi anh mới tới đây.  Khu đầm lầy không còn là nơi lao động.  Ý-định biến khu đầm lầy thành nơi sản suất lương thực đã không thành, không thể "lấy sức người biến đất sét thành ngô khoai" như vẫn tự hào noi theo gương “Bác”.  Dẫy núi đá vôi trước mắt không chừa ra một khoảnh đất nào có thể trồng cấy, hầu tăng thêm thực phẩm cho trại.  Các công tác lao động co vào những công việc cực nhọc nhưng không làm ra lợi tức.
Một sân khấu lớn bằng tre dựng lên trong sân trại, sát với vách tường phòng 7.  Sân khấu cao ngang vai, mỗi chiều đến 7, 8 bước chân. 
Anh em thắc mắc không hiểu trại dựng sân khấu để kỷ niệm ngày lễ nào.  Ngày lễ lớn 19/8 đã qua đi thật lặng lẽ, vẫn chỉ có cơm với bát canh rau để khác với ngày thường.  Anh em đặt dấu hỏi hay trại dành cho ngày 2/9, một ngày lễ rất quan trọng mà hàng năm thường tổ chức  rầm rộ. 
Sinh hoạt trong trại bình thường, chưa thấy một hành động nào có chiều hướng hâm lại nét hào hùng vinh quang của ngày trọng đại.  Chiếc sân khấu vẫn trơ trọi trong những trận mưa dài nặng hạt. 
Ngày hai buổi lao động, chiều thứ bẩy như thường lệ  nghỉ sớm một giờ, được gom nhặt ít củi khô đủ đun ba bữa, chiều thứ bẩy và ngày chủ nhật.  Anh em cũng tận dụng thời gian hiếm hoi này, lượm nhặt một ít rau mọc hoang nơi lao động hay trên đường về trại, bất cứ rau gì có thể ăn được.  Từ dền dại, đọt sắn đến rau xam, rau má, tầu bay chung nhau nấu chín nồi canh, gọi là có thêm một chút xơ trong bụng.
Anh nhớ khi còn ở nhà, thường nghe mọi người nói phải "ăn thêm rau cho đỡ xót ruột," ý nghĩa đó bây giờ anh mới nhận ra, là bụng anh lúc nào cũng thấy "xót". Không phải cảm giác "xót" do ăn nhiều thịt vì không ăn rau như trước , mà hiện bị "xót" tại vì dạ dầy luôn lép xẹp.      
Mấy người chung nhau chút rau kiếm được với phần ăn buổi chiều, bất kể là bánh mì, bo bo hay phần khoai mì nấu thành nồi cháo có mỹ danh "thập cẩm".  Nhưng trong thực tế, để diễn tả cho đúng với hình thức và có mầu sắc quê hương, nó thể hiện đúng với tên "cháo heo", mà chất lượng không thể bằng nồi cháo nuôi heo của miền Nam trước đây.  Nêm một chút muối cho vừa miệng.  Dù sao nồi cháo đặc khói bốc nghi ngút, với ba miệng chén cho mỗi người cũng làm mát đôi mắt, thêm ấm lòng hơn là chiếc bánh mì khẳng khiu bằng cổ tay người tù, mầu sắc nâu xám hay có khi mốc xanh dài chưa tới gang tay, với vài cọng rau muống luộc hay vài ba quả cà pháo muối mặn chát.
Bữa ăn tối thật thịnh xoạn, và để có nhiều thời gian vui như những buổi họp mặt sau giờ tan sở trước kia, anh em mang nồi cháo vào phòng lấy chăn ủ kín, vừa giữ cháo nóng lâu và cũng tránh cặp mắt soi mói của đám cán bộ kiểm soát phòng trước khi đóng cửa.
Ðôi khi vào những tuần mưa gió liên tiếp, củi ướt không bén lửa, hay đội nghỉ lao động trước ngày cuối tuần, củi đốt trở thành khan hiếm.  Mọi thứ giữ được ngọn lửa đều trở thành chất đốt, từ thanh tre nhỏ đến bao nhựa gói quà.
Các bạn trẻ tích cực hơn trong việc tìm kiếm chất đốt, từ các thanh gỗ nâng trần phòng thay quần áo nơi giếng tắm công cộng, đến đòn tay phụ trên mái căn phòng ngủ cũng được dùng làm củi đốt.  Rồi đến lượt chiếc sân khấu không xa cổng gác bao nhiêu đã được anh em chiếu cố.  Từng cây tre kéo về phòng cho vào miệng cống thoát nước bẻ thành khúc ngắn, lấy gạch thẻ đập thành thanh nhỏ.  Chỉ cần 5 phút là cây tre biến dạng.  Cán bộ cổng gác nhìn thấy có vào phòng cũng không tìm ra cây tre.










­­­______________
Chú thích

Trại Nam Hà

Trại cải tạo Nam Hà nằm trong xã Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam Ninh (tên gộp 3 tỉnh).

Từ thành phố Phủ Lý, qua cầu Hồng Phú, theo quốc lộ 21 độ 15 Km, trên đường đi Chi Nê, Hòa Bình là tới xã Ba Sao.  Trại Nam Hà ‘A’ nằm bên bờ đầm, một vùng ngập nước với những núi đá cao (khu đầm Tam Chúc, nên trại
Nam Hà còn được gọi là trại Đầm Đùn từ thời Pháp thuộc).  Đầm Tam Chúc thuộc xã Ba Sao, huyện Kim Bảng, cách thị xã Phủ Lý khoảng 12 Km, tiếp giáp với Hòa Bình và Hà Tây, cách Hương Sơn khoảng 3Km đường núi.  Diện tích đầm khoảng 600 ha.

Trại Nam Hà cũng được gọi là trại Ba Sao.  Danh từ “Ba Sao” có lẽ được dịch ra từ nhóm chữ “Les trois Étoiles = Ba Sao”, còn nhận được phần nào do chữ còn lưu lại trên khung lưới sắt bắc ngang trên đầu trụ gạch trước khi vào trại.  Nơi đây là một khu đồn điền trồng cà phê có từ thời Pháp. 

Thỉnh thoảng có bạn bắt gặp  những gốc cà phê cổ thụ, còn  sót lại trái cà phê to bằng trái mận, thơm phức, ngọt lịm. Một số anh em thường lấy lá cà phê nấu nước. Nước cà phê có sắc vàng nâu, đặc biệt có hương thơm mùi trái cam.

Ngoài trại Nam Hà ‘A’ còn có trại ‘B’, là một trại kỷ luật nằm trên đường đi Thung Gianh.  Trại ‘C’ và ‘D’ giam giữ thành phần hình sự miền Bắc.  Trại ‘Mễ’, gần Phủ Lý, là khu trại kỷ luật nhưng đặt dưới hình thức một trại y tế. 
Trên đường đi tới rừng Cúc Phương còn một trại giam phụ nữ, có lẽ thành lập từ ngày chia đôi đất nước.

Xã Ba Sao trở thành thị trấn của huyện Kim Bảng, có diện tích 34,76 Km2.  Quốc lộ 21   đi qua xã Ba Sao tới Chi Nê (Hòa Bình) và rừng Cúc Phương.

Tọa độ:    20o 32’ 28” B  -   20o 54’ 11”  B
     105o 47’ 51” Đ  - 105o 79’ 75”  Đ

Thị trấn Ba Sao gồm 16 xã: Đại Cương, Đồng Hóa, Hoàng Tây, Khả Phong, Lê Hồ, Liên Sơn, Ngọc Sơn, Nguyễn Úy, Nhật Tân, Nhật Tựu, Tân Sơn, Thanh Sơn, Thi Sơn, Thụy Lôi, Tượng Lĩnh và Văn Xá.




        Sơ đồ trại Nam Hà
 (Xin đón nhận sự góp ý để  hoàn chỉnh sơ đồ trại Nam Hà)


    *
 

No comments:

Post a Comment