Trần Nhật Kim
Tựa
Cách đây hơn một năm anh
Trần-Nhật-Kim đã ra mắt tác phẩm “Cuộc chiến chưa tàn”, mô tả lại những bước
đường gian truân trong cuộc đời cải tạo. Năm nay tác giả lại trình diện
tác phẩm thứ hai “Vùng lầy nước mắt” để tiếp nối văn phẩm thứ nhất về một vài
khía cạnh cần bổ túc. Sự tách rời một thể chuyện thành hai pho sách nằm
trong dụng ý của tác giả nhằm xây dựng cho mỗi tác phẩm một sắc thái riêng
biệt, thích hợp với bản chất của những nhân vật giới thiệu trong nội dung câu
chuyện. Anh Trần-Nhật-Kim muốn “Cuộc chiến chưa tàn” phải bao hàm một ý
tưởng chủ động và một tinh thần bất khuất trước nghịch cảnh, vì đây là áng văn
nói lên dũng khí của những con người không chịu khuất phục trước bạo quyền.
Trong “Vùng lầy nước mắt”, trái lại, tác giả chỉ muốn đó là một sự than thở
ngậm ngùi có tác dụng gợi lên tối đa thương cảm trong tâm tư người đọc.
Anh Trần-Nhật-Kim hoàn thành tác phẩm thứ hai để “kính dâng hương hồn Mẹ”, để
tặng Thu “người vợ đã vạn nẻo tìm chồng” và để kính tặng các bà mẹ cũng như những
người vợ Việt Nam khác đã có “một thời thương yêu và những năm tháng tủi hờn”.
Trong cuốn tự truyện này vì viết thay cho vợ nên anh đã xử dụng một văn phong
mượt mà óng ả. Từ dòng đầu đến dòng cuối, độc giả sẽ chỉ thấy toàn là
những phản ứng chịu đựng, những sự cam phận trước bạo lực, những oan ức tạo
thương cảm ngập trời và bất bình cùng cực. Suối văn của anh tuy giản dị,
độ lượng, tha thứ nhưng lúc nào cũng mang một tinh thần sắc bén và nghiêm túc.
Ðọc “Vùng lầy nước mắt” độc giả sẽ sống lại những biến động kinh hoàng trong xã
hội miền Nam
sau ngày 30 tháng Tư đen tối. Từ lúc gót chân người cộng sản đặt xuống
phần đất này của tổ quốc, mọi việc đã hoàn toàn đảo lộn và nhanh chóng đổi thay
theo chiều hướng đi xuống chứ không đi lên như nhiều người đã một thời kỳ vọng.
Dù không phải là cuộc tắm máu như một số báo chí Tây Phương suy luận và trù
liệu, nhưng bàn tay tội ác của cộng sản đã để lại một hậu quả vô cùng trầm
trọng mà thời gian sẽ không thể nào gột rửa. Tất cả những biến động kinh
hoàng đó đã được anh Trần-Nhật-Kim ghi lại một cách tương đối đầy đủ và diễn tả
bằng một văn phong nhẹ nhàng nhưng vô cùng thấm thía.
Lần theo những trang sách của tác giả, những người không sống những ngày tăm
tối sau 30 tháng Tư 1975 sẽ thấy hiện ra trong trí óc một cảnh tượng ghê
hồn: đoàn quân xâm lăng nghèo đói của Hà Nội khi chiếm được vùng đất giầu
có miền Nam, đã tổ chức ngay một cuộc ăn cuớp đại quy mô. Một cuộc ăn
cướp tàn nhẫn, vô nhân đạo mà nạn nhân là nửa phần dân tộc. Chế độ cộng
sản đã cướp đi của người dân miền Nam không chỉ của cải mà còn cả vợ con họ,
không chỉ tín ngưỡng, tư tuởng và tình cảm mà còn cả tự do là thứ tài sản mà họ
trân quý nhất.
Ðể âm mưu cướp của giết người này có thể thực hiện xuông sẻ, Hà Nội đã tiến
hành một thủ thuật lừa đảo để lùa tất cả những người được chế độ gán cho danh
hiệu ngụy quân, ngụy quyền vào các trại tù “cải tạo” mà không đếm xỉa gì đến
hậu quả tai hại của việc làm thất nhân tâm này.
Hậu quả trước mắt là cả triệu người miền Nam
đã bỏ nước ra đi. Họ liều chết vượt đại dương trên những con thuyền mong
manh nhỏ bé để khỏi phải sống với những con người gian trá, những con người đã
mất hết tính người. Trên bước đường phiêu lưu mạo hiểm hàng trăm ngàn
người đã chui vào bụng cá hoặc làm mồi cho hải tặc. Không những bản thân
ho bịï thiệt thòi vì không bao giờ được cập bến tự do, mà cái chết của họ còn
để lại trong tâm hồn những thân nhân sống sót một vết thương không bao giờ hàn
gắn. Tổ quốc tuy đã được thống nhất về mặt lãnh thổ, nhưng nhát chém chia
cắt dân tộc vẫn còn di lụy đến ngày nay.
Hậu quả thứ hai là không biết bao nhiêu người của chế độ VNCH đã bị chết oan
uổng và gia đình họ đã bị tan nát bởi cái chính sách “cải tạo” thâm độc của Hà
Nội. Cũng may đạo lý và truyền thống cao đẹp của dân tộc đã trang bị cho
một số lớn phụ nữ Việt Nam
sức chịu đựng và lòng hy sinh dũng cảm để cứu nguy chồng con trong cảnh bị đọa
đầy cơ cực. Lịch sử sẽ mãi mãi ghi lại đức hy sinh cao đẹp này như một
nét son và một sự hãnh diện cho giống nòi.
“Vùng lầy nước mắt” là một bản cáo trạng lên án sự tàn ác của chế độ cộng sản
hiện nay, một bản cáo trạng được viết lên để đọc trước tòa án của lương tâm
nhân loại. Trong bản cáo trạng này phần luận tội không phải là những đoạn
văn hằn học, lên án khắt khe, mà là một áng văn chương hiền hòa nhưng vô cùng
thấm thía. Ðó là nội dung của tác phẩm và nét đặc biệt của văn phong
Trần-Nhật-Kim mà chúng tôi bàn đến trong lời tựa để giới thiệu “Vùng lầy nước
mắt” cùng độc giả bốn phương.
Ngày 10 tháng 9 năm 1999.
Cựu Đại Tá Nguyễn Cao Quyền
Nguyên
Chánh Án Quân Pháp VNCH; tác giả "VN Trong Chiến Tranh Tư Hữu" &
"VN Trong Viễn Tượng Dân Chủ Toàn Cầu".
--------------------
1.
Khung cảnh đường phố thật nhộn nhịp. Với nét mặt hoảng hốt, mọi người lũ lượt đang
tìm đường di tản. Thu phân vân nhìn người
thân trong gia đình. Hai cô em nàng đang
cố may xong những túi vải đeo vai, như lời khuyên của nhiều người, hành trang
phải nhẹ nhàng, với hy vọng được đón đi ở một địa điểm nào đó. Thu càng lo sợ khi nghe nguồn tin từ các tỉnh
miền Trung đổ về, nhiều cuộc thảm sát đẫm máu, đối với người dân hay quân cán
miền Nam, do bộ đội cộng-sản miền Bắc gây ra trên đường tiến quân của họ.
Trần Nhật Kim |
Nàng không
biết phải làm gì lúc này. Cha mẹ chồng
và mẹ nàng đã cao tuổi, đàn con nàng còn nhỏ dại. Giờ này chồng nàng vẫn chưa về. Lệnh giới nghiêm ban hành từ nhiều ngày, buộc
quân cán chính phải có mặt ở nhiệm sở 24/24 để bảo vệ và sẵn sàng chiến đấu.
Tiếng súng
nổ mỗi lúc một gần, trận chiến như sát một bên.
Phi trường Tân-sơn-Nhất nhộn nhịp hơn những ngày trước. Phi cơ quân sự thực hiện các phi vụ yểm trợ
lên xuống không ngừng, các chuyến bay dân sự cũng gia tăng. Người miền Nam hối hả rời bỏ quê hương đang
tràn đầy lửa đạn.
Âm vang những
thảm cảnh tại miền Trung vào thời gian vừa qua lại một lần tái diễn. Từ Huế
đến Ðà-nẵng đau thương, rồi Liên tỉnh lộ 7 nhuốm đầy tang tóc. Người ta kinh hoàng nghĩ đến một cuộc tắm máu
nhuộm đỏ thành phố này, mà hàng trăm ngàn người sẽ gục ngã vì quyết tâm bảo vệ
mảnh đất tự-do miền Nam.
Sài-gon
đang lên cơn sốt. Tin chiến sự dồn dập với
những tổn thất của trận chiến càng làm người dân hoang mang. Hai trái CBU đã hủy diệt hàng Trung đoàn bộ đội
chính quy cộng-sản miền Bắc tại Long-khánh, nhưng vẫn không cản được bước tiến
cuồng vọng xâm lăng. Vùng phụ cận phi
trường Tân-sơn-nhất, cũng không tránh khỏi thiệt hại nặng nề về vật chất và
sinh mạng do đạn pháo của bộ đội miền Bắc gây ra.
Từng đoàn
người già trẻ lớn bé, nhất là thành phần dân chúng từ các tỉnh chạy về đây, vì
địa phương của họ bị lực lượng cộng-sản miền Bắc đánh phá. Bằng mọi phương tiện, đang bồng bế dắt díu
nhau chạy về phía phi cảng mong tìm được một chỗ để đến nơi an toàn. Và khi chiếc vận tải cơ C-119 vừa cất cánh khỏi
phi đạo, trong đó có hàng trăm người dân di tản, nổ tung vì hứng trọn những
trái đạn của “quân đội giải phóng”. Thu
nhìn rõ một bên cánh máy bay bứt ra khỏi thân tầu, xoay tròn nhiều vòng trước
khi rơi xuống đất. Ðạn pháo của bộ đội
miền Bắc hướng vào phi trường Tân-sơn-nhất, đã làm tê liệt các phi đạo.
Quá tuyệt vọng
về phương tiện hàng không, dân chúng đọng lại ở phi cảng lại chạy ra phía bờ
sông, từ bến Tân Thuận đến Bạch Ðằng, kho 5 Khánh Hội đông nghẹt nguời. Họ hy vọng được tầu Hải quân hay các phương
tiện đường biển giúp họ di tản. Người ta
chen lấn nhau xuống tầu, để lại trên bờ những chiếc xe Honda, vespa đến các chiếc
xe hơi dù còn mới, kèm theo chìa khóa với lời đề tặng cho người ở lại. Tại các tỉnh, bất kể hiểm nguy, người dân đổ
xô tới các vùng biển tìm cách ra khơi.
Ông Vũ-văn-Mẫu,
vị Thủ tướng của chính phủ Dương-văn-Minh vừa thành lập, lên tiếng yêu cầu người
Mỹ rút khỏi miền Nam trong vòng 24 giờ, để người Việt giải quyết vấn đề nội bộ. Ông hy vọng một cuộc đối thoại giữa những người
anh em cùng huyết thống có thể ngồi lại để thực hiện việc hòa giải hòa hợp. Nhưng đó chỉ là một giấc mơ của nhóm ông, vì
người cộng-sản miền Bắc quyết không buông tha miếng mồi béo bở miền Nam đã kề
bên miệng. Những phi cơ trực thăng từ hạm
đội 7 vần vũ trên không phận Sài-gon, yểm trợ cuộc di tản kiều dân Mỹ ra khỏi
thành phố. Và khi ông Dương-văn-Minh, vị
Tổng thống cuối cùng lên tiếng đầu hàng, thì nguời dân miền Nam tự hiểu đã đi
vào một khúc quanh lịch sử. Phải cay đắng
chấp nhận thua cuộc, và phẫn uất phải sống chung với cộng sản.
Những đơn vị
quân đội miền Nam vẫn tiếp tục chiến đấu đến giờ phút chót. Nhiều chiến binh đã anh dũng tự sát, vì không
chấp nhận đầu hàng chế độ bạo tàn cộng sản.
Khắp các nẻo đường, đủ loại quân phục quân trang vất bừa bãi. Họ uất hận giã từ trận chiến. Một cuộc chiến mà kẻ bị buộc bại trận vẫn còn
hăng say chiến đấu, trong khi kẻ mang danh chiến thắng lại ngỡ ngàng trước
thành quả trong tay.
Sau khi chiếm
trọn miền Nam, nhà nước đẩy mạnh hoạt động khống chế về tư tưởng. Dân chúng được đoàn ngũ hóa theo lớp tuổi. Ðám trẻ nhỏ trở thành “cháu ngoan bác Hồ”,
làm chỉ điểm cho đội cho đoàn những hành động của thân nhân trong gia đình hay
mọi người xung quanh. Các buổi họp Tổ được
tổ chức hàng đêm, dưới con mắt quan sát của công-an khu vực. Mọi sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác phải
được chính quyền địa phương cho phép. Ðời
sống riêng tư của người miền Nam bị đám công-an nhà nước theo rõi gắt gao.
Ðảng và nhà
nước áp dụng tại miền Nam chính sách đã thực hiện cho miền Bắc trong mấy thập
niên. Một chính sách đã làm dân chúng miền
Bắc điêu đứng, đói khổ và chậm tiến. Cuộc
sống chung hòa bình của một dân tộc đã bị “Ðảng và Nhà nước” lèo lái trở nên
chia rẽ. Người dân căm phẫn trước chính
sách tàn bạo của chế độ.
Nhà nước đẩy
các gia đình có thân nhân “cải tạo” ra ngoài lề xã hội, khiến người dân không
còn ý tưởng hợp tác với chính quyền.
Thành phần thanh niên đã đứng dậy làm lịch sử cứu nước. Từ thành thị đến thôn quê, thanh thiếu niên
đã liên kết thành lực lượng chống phá chế độ cộng-sản. Nhà nước mạnh tay đàn áp, tình trạng an-ninh
trở lên bất ổn, khiến đời sống người dân ngày càng nghẹt thở hơn.
Thu bàng
hoàng trước cảnh nhà tan cửa nát. Chồng
vợ mỗi người một nơi, cha con mỗi người mỗi nẻo. Nàng phải thay chồng làm cha, nuôi dậy đàn
con thơ dại trong một xã hội đổi thay bất chợt.
Dưới chế độ mang nặng hận thù, nàng phải nhẫn nhục chịu đựng trước những
sự dè bỉu, khinh miệt vì là vợ con “Ngụy”.
*
2.
Sau
ngày 30/4, miền Nam đã đổi đời. Của cải
xây dựng bằng mồ hôi nước mắt cũng không còn là của riêng nữa. Ðời
sống
kinh-tế ngày càng khó khăn, vì vậy Ti-vi, tủ lạnh thi nhau chạy ra ngoài
đường. Sinh hoạt năng động của thành phố
này bỗng chốc ngưng đọng, Sài-gon như một thành phố chết từ vật chất đến tinh
thần. Người dân miền Nam vốn sống phóng
khoáng, muốn làm là làm, muốn nói là nói như trước kia, đã trở thành bải hoải
câm nín trước bạo lực cách mạng.
(Chợ Trời Saigon sau ngày 30-4-1975) |
Thực chua
xót cho sự đầu hàng, phải chấp nhận sự trả thù mà không do giai cấp đấu
tranh. Hậu quả thật kinh hoàng là phá vỡ
nền tảng gia đình, truyền thống văn hóa của người miền Nam. Hướng dẫn thế hệ trẻ trở thành công cụ cho
sách lược vô nhân đạo. Nỗi đau của người
miền Nam là nhìn thấy sự mất mát của
mình.
Sau ngày
chồng nàng bị đám công-an đến nhà bắt đi “cải tạo”, gia đình Thu như thiếu một
cái gì, chẳng khác nào căn nhà không có nóc.
Nàng cảm thấy lo sợ truớc một cuộc sống hoàn toàn thay đổi. Từ sáng đến tối, nàng phải hòa mình với đám
người cùng cảnh ngộ để mưu tìm sự sống.
Theo các bạn,
Thu dành được một chỗ bán tại cây săng Trương-minh-Giảng, giờ đây đã trở thành
khu chợ trời bỏ túi. Thay vì bán đồ dùng
tại nhà cho các mối tới mua như lúc đầu,
nàng mang ra bán tại khu chợ trời này với giá cao hơn.
Sau khi
bán hết đồ dùng trong nhà, Thu đi mua hàng về bán lấy lời. Với chiếc xe đạp là phương tiện duy nhất,
nàng đi khắp hang cùng ngõ hẻm, gặp ai cũng hỏi xem họ có đồ dùng gì cần
bán. Nàng như một người đi câu, không hứa
hẹn nơi nào có cá. Thu mua từ chiếc
radio, quạt máy để bàn đến chén đĩa bát ăn.
Bất cứ món hàng nào cũng có khách
từ miền Bắc vào mua. Sài-gon biến
thành một chợ trời. Người dân đã sống một
cuộc sống thật, không còn “phồn vinh giả tạo.”
Dần dần những mặt hàng trở lên khó kiếm, vì số người buôn bán như nàng
ngày một tăng. Thu chuyển qua mua các mặt hàng lớn, nặng nề hơn nhưng tiền lời
cũng khá hơn trước.
Từ sáng đến
tối dầm mưa dãi nắng, ăn không ra bữa ngủ chẳng đủ giờ, Thu không thể chống cự
được sự mệt mỏi. Càng đi sâu vào nghề
nàng càng gặp nhiều khó khăn. Bản chất
nàng quá ngay thẳng, không khôn lanh bằng người. Nàng cũng không thể điêu ngoa dành dật khi
mua bán, không kể những người theo đuổi tán tỉnh dụ dỗ, có thể biến đổi cuộc sống
của nàng vốn thiếu thốn bấp bênh.
Mỗi tối,
sau bữa cơm chưa kịp nghỉ ngơi, Thu lại phải có mặt trong buổi họp tổ dân phố,
để nghe những lời dè bỉu khinh miệt “chế độ Ngụy quyền miền Nam”, và thành phần
chống chế độ trong đó có chồng nàng. Người
ta đã nêu cao khẩu hiệu “lá lành đùm lá rách” để kêu gọi tương trợ đóng
góp. Nàng luôn luôn được nhắc nhở phải năng
nổ trong công tác xã-hội, vì thuộc diện có chồng đi “học tập cải tạo”. Bằng đường lối ngoài miệng thì tự nguyện tự
giác, nhưng luôn luôn bị đám công an khu vực hối thúc ép buộc. Vì vậy người dân đã “hoan hỷ đóng góp” công
và của để nhà nước thực hiện việc quản lý.
Nhìn các
con, Thu rất thương chúng. Nàng mong có
một cuộc sống tạm ổn định để có nhiều thì giờ lo cho các con. Hình ảnh một đứa trẻ bị bắn gục vì hành động
cướp giật, và nhiều tội danh không được ghi nhận rõ rệt luôn ám ảnh nàng.
Vào giờ
phút suy sụp của miền Nam, Thu vẫn lo sợ cho số phận chồng nàng. Có thể là một
cuộc tắm máu như đã từng xẩy ra, vì là đối tượng thù địch của một hành động Nam
tiến được mệnh danh thống nhất đất nước.
Thu cũng
như phần đông những gia đình miền Nam, cố bám víu vào những lời hứa hẹn của Ðảng,
vào tinh thần những bản thông cáo “khoan hồng” của nhà nước để trấn an phần nào
nỗi lo sợ của mình.
Trong khi
đó nhà nước lại đưa ra lời đe dọa “đi học tập cải tạo vì có nợ máu với nhân
dân”. Thu không phân định được ý nghĩa của
câu nói này. Có phải vì bảo vệ mảnh đất
tự-do mà họ đang sống là có tội với đồng bào họ
Mối lo sợ
của nàng càng gia tăng khi gặp lại thân nhân miền Bắc vào thăm, Thu mới biết đời sống tăm tối mà họ đã trải qua trong mấy
thập niên. Không phải là một đời sống
hoa mộng mà nhà nước đã mang tới cho họ, như từng tuyên truyền khi đánh chiếm
miền Nam. Vì ảnh hưởng của câu nói “tam
cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) đã tạo cho dân chúng miền Bắc thói quen “ba
không” (không biết, không nghe, không thấy) .
Họ không thể tin ai, mặc dù ngay cả với thân nhân quyến thuộc.
Theo chính
sách của xã hội mới, lớp trẻ được đoàn ngũ hóa, được giao phó công tác, chúng
mong có chiếc khăn quàng đỏ, là cháu
ngoan “Bác Hồ”. “Bác” đã nhìn thấy sức mạnh
của tuổi trẻ. Ðầu óc trong sáng ngây thơ
của chúng, với chính sách “trăm năm trồng người”, chúng sẽ dễ dàng trở thành mẫu
người đúng với tham vọng vủa “Bác”.
“Bác” muốn xử dụng chúng như những
mũi nhọn công phá nền tảng gắn bó gia đình.
Thu lo sợ sinh hoạt xã hội mới sẽ ảnh hưởng tới
tương lai các con. Nàng không muốn chúng
trở thành những công cụ vô hồn, mà chính sách trồng người sẽ khuyến dụ chúng rời
khỏi gia đình. Nàng hy vọng khi gần gũi
với các con nhiều hơn, sẽ giúp chúng tránh được phần nào những điều tệ hại xẩy
tới. Nàng quyết định nghỉ bán chợ trời.
Thu làm
đơn xin dậy học, dù số gạo cấp phát hàng tháng của một giáo chức không đủ cho
gia đình nàng vì giá sinh hoạt ngày càng đắt đỏ. Nhưng dù sao cũng tránh được phần nào khó
khăn do chính sách hộ khẩu gây ra cho mọi gia đình. Vì ngay sau khi chiếm được miền Nam, nhà nước
xử dụng đường lối cấp phát gạo theo hộ khẩu, với hy vọng nắm chặt đời sống mọi
người trong thành phố. Ðồng thời đẩy
thành phần dân chúng ở các tỉnh chạy về đây, tới các vùng kinh tế mới để dễ bề
kiểm soát.
Khi tới
văn-phòng giáo dục, Thu gặp một cán bộ từ miền Bắc vào. Nàng phải trả lời nhiều câu hỏi thuộc về lý lịch. Hắn cho hay khả năng văn hóa của nàng đáp ứng
được nhu cầu ngành giáo dục hiện giờ, nhưng thuộc diện có chồng đi “cải tạo”,
việc thâu nhận sẽ được thông báo sau. Hắn
yêu cầu nàng tham dự mấy buổi sinh hoạt nhân ngày “nhà giáo yêu nước”, để hiểu
đường lối giáo dục của chế độ mới.
Ðến ngày hội thảo, một số giáo chức
được chỉ định thuyết trình về môn học mình phụ trách, phải nêu ra ưu khuyết điểm
và đường lối giảng dậy. Phần quan trọng
vẫn là phần chính trị do cán bộ trưởng ban phụ trách. Thu có cảm tưởng mình đang nghe một bài tuyên
truyền về “ba giòng thác cách mạng, chủ nghĩa Mác-lê bách thắng” như là khuôn
vàng thước ngọc phải noi theo, bài xích văn hóa miền Nam là đồi trụy.
Thu đã chứng
kiến thời gian sau ngày 30/4, từng toán học sinh được khích động để làm công
tác tịch thu sản phẩm văn hóa miền Nam.
Nàng đau xót nhìn tủ sách mà nàng nâng niu, gìn giữ từ nhiều năm phút chốc
trở thành thứ đồ bỏ. Nó không phải chỉ
là kỷ niệm của thời đi học, mà bao gồm các tác phẩm văn chương, văn học của dân
tộc Việt Nam. Họ không biết tới giá trị
những bộ sách này mà gọi chung là văn hóa nô dịch.
Ðến âm nhạc
cũng chung số phận với sách báo. Nhạc miền
Nam được mang tên mới, “nhạc vàng”. Cả
thành phố chỉ có một loại nhạc cách mạng đầy mầu sắc tử chiến, được mang danh
là “nhạc đỏ”. Người miền Nam nghe mãi thứ
nhạc mới này rồi cũng chán, vì nó không đáp ứng được thói quen của một dân tộc
nặng về tình cảm. Họ không thể chấp nhận
được thứ nhạc mang âm hưởng nhuốm đầy máu lửa.
Nhà nước đã dùng lời êm dịu hơn, bóng chim bồ câu hòa bình được đưa ra
như một biểu tượng, nhưng không hiểu sao vẫn để lộ ý tưởng hận thù.
Thời gian
trôi qua, “nhạc đỏ” quả không phải là món ăn tinh thần của dân chúng. Những cán bộ trẻ miền Bắc vào Nam đã nhận ra
sự khác biệt giữa hai giòng âm nhạc, và hiểu rõ loại nào thích hợp với tình cảm
của họ. Chính họ cũng chán nghe loại “nhạc
đỏ”, vì bản nào cũng cho người nghe cảm giác giống nhạc Trung-hoa, không tìm thấy
chút nào tình tự quê hương dân tộc.
Trên bục
giảng, người cán bộ đang nhắc lại những điều mà Thu đã nghe nhiều lần. Nàng tự hỏi, với đường lối giảng dậy theo
chính sách như vừa thuyết trình, liệu con em hấp thụ được những gì làm hành
trang cho hành trình của cuộc đời chúng sau này. Hay những giáo điều lỗi thời kia sẽ ảnh hưởng,
kìm hãm sự suy tư trong sáng tự nhiên của tuổi trẻ vô tư. Chúng sẽ khó khăn tiếp nhận những tiến bộ
đang trên đà phát triển cực nhanh của thế giới văn minh. Thu thấy các nhà giáo miền Nam ngơ ngác trước
đường lối giáo dục mới, mà nàng hiểu rằng, khi giảng dậy chỉ còn là một cái máy
nói ra những điều ghi sẵn.
Thu thấy
khó chấp nhận được lối giáo dục này, vì nó khác với đường lối giáo dục tại miền
Nam, vốn đặt nặng về mặt giúp con người phát triển theo khả năng. Chế độ cộng sản đã nhắm vào giai cấp công
nông làm nòng cốt cho cuộc cách mạng, thành phần vốn yếu kém về vật chất lẫn sự
hiểu biết, dễ tin lời tuyên truyền có kỹ thuật của cộng-sản.
Thu không ngạc nhiên khi nhận được lời từ chối của
cơ quan giáo dục địa phương. Nàng chỉ là
một trong hàng triệu gia đình có thân nhân đi “học tập cải tạo”. Chế độ mới đã đẩy họ ra ngoài lề xã hội khi từ
chối cho họ công ăn việc làm. Thử hỏi
làm sao có sự hợp tác thực lòng giữa nhân dân và chính quyền. Một số gia đình miền Nam đã bừng tỉnh khỏi
“thiên đường mộng tưởng”. Họ cảm thấy bị
phản bội vì nuôi ong tay áo, đã từng đóng góp cả người lẫn của cho cuộc cách mạng
trên danh nghĩa chống ngoại xâm.
Thu cố tìm
một việc gì hợp với khả năng sức khỏe của mình, cũng không mong công việc tương
ứng với trình độ học vấn. Nàng đến xin
làm cho công ty hóa chất thành phố, một chân nửa thư ký nửa công nhân. Thời gian làm việc nhất định tám tiếng một
ngày. Bắt đầu công việc là phối hợp với
một số thanh niên đi kiểm tra các kho hàng trong thành phố. Trên danh nghĩa kiểm tra số lượng hàng hóa
trong kho, nhưng mục đích vẫn là kiểm
soát truớc khi quản lý tài sản. Giai đoạn
làm tạm đã qua, trước khi biên chế để được thâu nhận là nhân viên chính thức, một
lần nữa bản lý lịch được đưa ra xét lại.
Cán bộ cơ quan cho hay vì thuộc diện có chồng đi “cải tạo”, nàng cần một
cán bộ cao cấp bảo đảm hành vi chính trị.
Thu không đáp ứng được điều này, vì họ hàng không có ai là cán bộ cao cấp.
Không còn
con đường nào hơn, Thu trở lại nghề buôn bán kiếm sống nuôi con. Nàng biết sẽ có nhiều cơ cực và gian truân,
nhưng tâm hồn nàng được phần nào thảnh thơi.
*
-“Dù sao
thì Tuyết cũng được gặp mặt, biết sức khỏe anh ấy ra sao. Chẳng qua vì thiếu ăn, mà thực phẩm nuôi tù lại
thiếu chất bổ dưỡng, nên thân thể suy nhược.
Hy vọng lần quà này, với thuốc men cần thiết, anh ấy sẽ mau lại sức. Tuyết đi thăm có dễ dàng không?”
Giọng Tuyết
nghẹn ngào:
-“Mình nhận
được thư anh ấy cho hay bị đau. Thư không viết rõ đau làm sao, bệnh tật thế
nào. Mình quá vội vàng nên chỉ mang mấy
thứ anh ấy ghi trong thư.”
-“Trong thư
chỉ ghi: Láng 3, trại Katum, tỉnh Tây-Ninh làm sao bạn tìm ra nơi anh ấy ở?”
-“Mình có hỏi
thăm về trại Katum, nhưng trước khi đi cậu em họ có khuyên không nên đi thăm một
mình, vì đường rừng nguy hiểm. Cướp bóc
thường xẩy ra trên quãng đường từ tỉnh Tây-ninh đến trại. Chẳng biết ai mà rủ đi cùng, nhất là anh ấy
đang bệnh nặng, nên mình cũng liều đi.”
Thu nhìn bạn
thương cảm:
-“Tuyết đi
chuyến xe mấy giờ?”
-“Cả đêm
không ngủ, nên chưa sáng mình đã dậy.
Cháu Bé chở ra bến xe Bà-quẹo. Ðến
bến xe còn sớm, buổi sáng quá lạnh, mới
bốn giờ sáng, nên mình bảo cháu về. Hơn
năm giờ xe mới chạy.”
-“Xe chạy tới
trại hay bạn phải đổi xe?”
(Tù Cải tạo sau ngày 30-4-1975) |
-“Mình xuống
bến xe Tây-ninh, rồi đổi xe đi trại Katum.
Nói là trại Katum, nhưng đâu phải chỉ có một nơi, mà phân chia thành nhiều
Lán. Mình cũng không rõ có bao nhiêu Lán
thuộc trại này. Trong thư anh ấy chỉ ghi
Lán 3, mà không ghi ngày thăm nuôi.
Thành thử khi mình tới Tây-ninh đón xe vào trại, thì không có xe nào vào
Lán 3. Vì hôm mình lên là ngày thăm nuôi
của Lán 6.”
-“Trại
Katum là trại nằm sát biên giới Việt-Miên đường đi thật khó khăn. Các Lán nằm rải rác cách xa nhau, nếu không
có xe chạy thẳng tới nơi thì vất vả vô cùng.”
-“Mình năn
nỉ tài xế cho mình ngồi phía sau, để không mất chỗ ngồi của khách, mặc dù mình
trả tiền hơn mọi người. Hắn vẫn không chịu
chở, vì cho mình xuống ngã ba đường vào Lán 3, hắn phải đi xa thêm một quãng đường. Thấy tình cảnh của mình, mấy người khách trên
xe nói vào hắn mới chịu chở. Ðến ngã ba
hắn bảo mình xuống, rồi nói theo lối rẽ mình đi thẳng là tới Lán 3.”
-“Hắn có
nói chi tiết đường đi và Tuyết phải đi bao lâu không?”
-“Người tài
xế chỉ bảo mình đi tới phía trước và đường còn khá xa. Bây giờ đã xế trưa, mình đứng giữa đường nóng
bỏng, rừng cây trùng điệp xung quanh.
Con đường dài phía trước nhỏ dần, mờ khuất ở phía rừng cây xa xa. Không một ai qua lại. Lúc này mình mới cảm thấy sợ hãi vì khung cảnh hoang vắng. Mình cũng không hiểu còn phải đi bao lâu nữa
mới tới nơi.
“Mình mải
miết đi, không biết đã đi được bao xa.
Trời về chiều, bóng mặt trời đã bám nơi ngọn cây, trải một lớp ánh vàng
mong manh xuống rừng cây xanh thẫm.
Mình chợt nhớ tới lời người em họ.
Quãng đường này thật vắng, nếu gặp cảnh không may lấy ai cứu giúp cho
đây. Mình chỉ cầu xin mọi việc được an
lành. Ðôi gánh oằn vai mỗi lúc một thêm
nặng. Mình không dám ngừng chân, sợ chiều
xuống quá nhanh.”
“Ðến khi trời
xẩm tối, quang cảnh phía trước không còn nhìn rõ, như xoa một lớp bột mầu xám lợt. Qua khỏi khúc đường vòng cánh cung, từ xa le
lói ánh đèn. Lòng mình dội lên một niềm vui
và cảm thấy khỏe hơn nên rảo bước trên con đường đất. Mình thầm nghĩ, ít nhất cũng tìm đuợc chỗ nghỉ
chân qua đêm.”
“Mình lần
mò trong đêm tối yên lặng, lâu lâu mới vẳng nghe tiếng chó sủa. Không còn nghe thấy tiếng chim ríu rít, ngoại
trừ tiếng côn trùng đang hòa vang. Khi tới
xóm nhà có ánh đèn, mình gõ cửa căn nhà gần nhất. Ông chủ nhà là người lớn tuổi. Thấy mình ông ngạc nhiên hỏi:
-“Trời đã tối,
chị đi đâu mà tới đây vào giờ này?”
Giọng nói
hiền hòa với âm thanh miền Nam của ông làm mình yên lòng. Nhất là gương mặt phúc hậu, chất phác với
chòm râu bạc của ông làm mình tin tưởng.
-“Thưa bác,
cháu nhận được thư nhà cháu cho hay bị đau, hiện “cải tạo” ở Lán 3, nên vội đi
thăm. Lần đầu tiên cháu đi nên không biết đường. Xin bác vui lòng cho cháu nghỉ qua đêm. Bây giờ trời tối quá cháu không đi tiếp được.”
-“Ðây cũng
gần Lán 3. Hôm nay đâu phải là ngày thăm
nuôi mà chị lên?”
-“Thư nhà
cháu không ghi rõ ngày nào được thăm.
Khi tới Tây-ninh cháu mới biết hôm nay không phải là ngày thăm nuôi của
Lán 3. Cháu quá nóng ruột vì nhà cháu
đau nặng nên vội đi. Hy vọng vì tình trạng
sức khỏe của nhà cháu mà trại chiếu cố cho gặp.”
Mình đưa
thư anh ấy viết cho ông chủ nhà xem. Ông
nói:
-“Chị đến
đây thân một mình không gặp chuyện gì dọc đường là phước lắm rồi. Ði thăm nuôi ở vùng này nên đi chung nhiều
người cho an toàn. Thôi được, chị hãy
nghỉ ở đây đêm nay, một lát nữa con tôi về xem nó có giúp được chị không.”
-“Cháu cám
ơn bác đã giúp đỡ.”
-“Chị đi cả
ngày đường chắc chưa ăn gì, Ðể xem nhà có gì để chị ăn cho đỡ đói.”
-“Cám ơn
bác, cháu có mang thức ăn, nhưng vì mải đi trước khi trời tối nên chưa kịp ăn.”
“Ông chủ
nhà chỉ chỗ ngủ cho mình và nơi rửa tay chân.
Bây giờ mình mới thấy mệt. Thân
thể rã rời, cơn mệt như thấm sâu vào từng thớ thịt làm chân tay bải hoải. Mình thấy đói bụng, vì từ sáng tới giờ mải lo
về sức khỏe của chồng mình, nhất là cố đi trước khi trời tối, nên chưa có gì
vào bụng, ngoài mấy hớp nước khi tới bến xe Tây-ninh.”
-“Tuyết có
gặp con ông chủ nhà không?”
-“Mãi gần nửa
đêm hắn mới về. Ông chủ nhà nói chuyện với
hắn thật lâu trước khi hắn gặp mình.
Mình đưa thư cho hắn. Xem xong
thư hắn bảo ngày mai sẽ nói giúp với cán
bộ quản giáo trại về trường hợp của mình.
Sáng sớm
hôm sau hắn vào trại, mãi hơn 8 giờ mới trở về nhà. Hắn nói trại chỉ cho nhận quà nhưng không được
gặp mặt, vì không phải là ngày thăm nuôi.
Hắn dẫn mình vào gặp cán bộ quản giáo để gửi quà. Khi gặp cán bộ mình năn nỉ:
-“Xin cán bộ
thông cảm. Lần đầu tôi đi thăm vì có sáu
cháu nhỏ ở nhà nên khó đi xa. Nghe tin
nhà tôi đau, tôi vội đi nên không hay chưa tới ngày thăm nuôi. Xin cán bộ thông cảm cho tôi được gặp mặt,
tôi rất cám ơn.”
-“Hôm nay
không phải là ngày thăm nuôi. Vì thông cảm
chị từ xa tới đây, trại cho nhận quà là chiếu cố lắm rồi. Tôi không thể để chị gặp mặt được.”
Mình nói
mãi hắn cũng không chấp thuận. Tự nhiên mình thấy tủi thân, thất vọng nên không
cầm được nước mắt. Mình bật khóc. Mình thương anh ấy quá. Lên tới đây mà cũng không được gặp mặt. Không hiểu anh ấy bây giờ ra sao. Biết nói mãi cũng vô ích, mình chào hắn rồi trở ra đứng trước trại
đợi xe về.
Bây giờ đã
hơn 11 giờ trưa. Mặt trời chói lòa, tỏa
hơi nóng hừng hực của ngày hè oi bức.
Không có lấy một bóng cây che nắng.
Mình đợi cả giờ vẫn không thấy một chiếc xe nào đi qua. Quay nhìn lại, khu trại vẫn im lìm.
Bất chợt một
cán bộ đi tới nói:
-“Ban quản
giáo trại thông cảm hoàn cảnh của chị từ xa tới đây. Một lòng lo lắng cho chồng, nên cho chị gặp mặt
15 phút. Chị nhớ không được khóc khi gặp
mặt.”
-“Tôi xin
cám ơn cán bộ.”
“Chưa bao
giờ mình cảm thấy vui như lúc này, Niềm
vui chợt đến khi lòng mình đang thất vọng.
Nhưng mình tự hỏi, có gì nghiêm trọng mà hắn dặn mình không được khóc
khi gặp mặt. Phải có cái gì bất ổn. Mình đâm sợ những sự không may xẩy đến. Hắn không dẫn mình tới nhà thăm nuôi, mà đưa
tới một chuồng bò bảo đợi. Mình lại thắc
mắc. Sao lại cho gặp ở một nơi không mấy
sạch sẽ như nơi đây. Ở một chỗ vắng vẻ
như thế này.
“Chẳng bao
lâu, mình thấy anh ấy xuất hiện từ lối rẽ đầu kia chuồng bò. Ðến lúc này mình muốn khóc, vì hình ảnh trước
mắt làm mình không cầm được nước mắt.”
“Chồng mình đang đi tới. Mình xót thương quá, thầm hỏi tại sao người
chồng yêu thương của mình lại ra nông nỗi này.
Thân hình anh thật tiều tụy, sắc mặt không khác gì tầu lá héo, như vừa
trải qua một cơn bệnh ngặt nghèo. Hai
chân anh run rẩy lết từng bước khó khăn.
Nếu không nhờ đôi nạng nơi tay, chắc anh khó lòng đứng vững. Không hiểu từ đâu nước mắt mình tuôn
rơi. Mình lấy khăn che miệng, hai hàm
răng nghiến chặt chiếc khăn tay để khỏi bật thành tiếng khóc. Anh ấy xanh xao, ốm yếu ngoài sự tưởng tượng
của mình.
“Mình chạy
tới bên anh, anh không đứng vững, như muốn ngã vào vòng tay mình. Mình dìu anh ngồi xuống nền đất, dựa lưng vào
vách chuồng bò. Anh duỗi thẳng hai chân,
lấy tay xoa hai đầu gối. Mình nắm cánh
tay, xoa khắp lưng anh . Anh gầy quá, những
đốt xương sống, những dẻ xương sườn gồ cao sau lần vải mỏng. Người anh chỉ còn da bọc xương. Mình hỏi anh:
- “Anh đau
làm sao. Ðau đã lâu chưa mà không cho em
hay?”
“Anh nhìn
người cán bộ đứng trước mặt rồi quay nhìn mình, giọng thều thào đứt quãng như
không còn hơi sức:
-“Anh mới
đau, không có gì nghiêm trọng lắm. Chắc ít
ngày sẽ khỏi.”
Vào lúc này
mình không cầm giữ được lòng mình nữa.
Mình bật khóc. Nói với anh qua
màn nước mắt:
-“Anh chỉ
nói anh đau. Không cho em hay anh đau ra
sao, nên em không biết mua thuốc gì. Em
chỉ mang vài thứ thuốc cảm thông thường và thuốc bổ. Em có mua ít thức ăn cho
anh. Vì em vội đi, nhất là không biết đường,
nên không kịp làm thức ăn nóng cho anh.
Lần thăm tới em sẽ mang đầy đủ hơn.”
Mình chợt
thấy anh nắm chặt tay mình. Bàn tay anh
giá lạnh làm sao, như hơi ấm trong người đã thoát hết ra ngoài. Anh chợt nói:
-“Em ở nhà
nuôi dậy sáu con nhỏ dại đã vất vả lắm rồi, lại còn lo lắng cho anh. Em mang như thế này cũng đã nhiều, anh làm em cực nhọc lo lắng thêm.”
-“Anh đừng
lo, mẹ con em ở nhà cũng đầy đủ lắm.”
Thu biết
không, mình nói thế để anh yên lòng.
Mình lấy đâu ra tiền đi thăm khi nghe anh đau bất chợt. Ðành phải bán chiếc đồng hồ đeo tay của anh
còn lại trước khi đi “cải tạo”, để mua các thứ cần thiết cho anh.
-“Ở nhà có
gì lạ không em. Các con ra sao, chúng có
ngoan không?”
-“Anh yên
tâm, mọi việc ở nhà vẫn bình thường. Các
con ngoan cả. Em vội đi quá, nhất là đi
lần đầu, nên không cho con đi thăm anh.”
Người cán bộ
xem giờ và nhắc chồng mình vào trại. Thời
gian trôi qua thật nhanh. Mình đã nói được
gì đâu. Mình xin cán bộ cho anh ở lại
thêm ít phút mà không được. Mình choàng
tay ngang lưng anh giúp anh đứng dậy.
Anh không còn tự sức đứng lên được nữa.
Mình đưa cặp nạng cho anh dựa vào cho thêm vững. Mình nói với anh:
-“Anh ráng
uống thuốc và ăn uống đầy đủ cho mau lại sức.
Lần thăm tới em và các con sẽ lên thăm anh.”
Anh thều
thào nói:
-“Em hãy giữ
sức khỏe. Bảo các con anh thương chúng
nhiều lắm. Anh sẽ viết thư cho em.”
Anh quay bước,
thân hình anh lắc lư theo đà cặp nạng.
Hình bóng anh khuất dần ở cuối lối rẽ vào chuồng bò. Mới hơn ba năm “học tập cải tạo” mà con người
anh đã biếân đổi ngoài sức tưởng tượng.
Mình không biết tương lai anh sẽ đi về đâu.
*
4.
Sau
nhiều ngày dầm mưa dãi nắng, hết chợ này đến chợ khác buôn bán ngược xuôi Thu
ngã bệnh. Nàng đã nghỉ chợ mấy
ngày. Chỉ còn ít ngày nữa là Tết Nguyên
đán. Quần áo các con nàng mặc đã cũ.
Chúng cần ít quần áo mới mặc Tết.
Thu đi ngược
đường Lê Lợi, khu Eden vắng tanh. Nàng
trở lại chợ Bến-thành tìm mua quần áo cho các con. Thu chợt nghe tiếng gọi tên
mình phía sau. Quay
lại nàng nhận ra Nga, người bạn học cũ lâu ngày không gặp. Giọng Nga vui vẻ:
-“Thu đi
đâu đấy, lâu quá không gặp?”
-“Tết nhất
đến nơi, mình mua ít đồ dùng cho các cháu.”
-“Dạo này
Thu và gia đình ra sao. Ông xã có khỏe
không?”
-“Mình vẫn
thường. Ông xã đi cải tạo đã lâu. Còn Nga thế nào?”
-“Mình vẫn
đi dậy học tư. Mấy bữa nay hơi bận một
chút vì phải sắm sửa vài thứ cần dùng truớc khi xuất ngoại.”
-“Nga đi nước
nào và bao lâu nữa sẽ rời đây?”
-“Gia đình
mình được phép đi Pháp. Mọi thủ tục đã
lo xong, chỉ đợi ngày đi. Còn Thu vẫn đi
dậy chứ?”
-“Mình phải
nghỉ dậy ngay từ buổi đầu Sài-gon bị mất vì ở diện có chồng đi cải tạo. Mấy năm nay vẫn đi buôn hàng chuyến từ các tỉnh
về đây bán kiếm lời nuôi các cháu.”
(Vượt biên sau 1975) |
-“Thu có ý
định trở lại nghề dậy học không. Mình
đang tìm người thay trước khi đi, vì mấy gia đình mình nhận dậy là chỗ thân
tình. Nếu bạn bằng lòng dậy thì hay quá,
mình sẽ giới thiệu với họ ngay.”
-“Như Nga
biết mình thích nghề dậy học từ lâu, nếu bạn giới thiệu chỗ dậy thì không gì
quý bằng. Nhưng điều kiện dậy như thế
nào?”
-“Cũng
không có gì phức tạp. Mình thường tới
nhà họ dậy, mỗi gia đình độ 4, 5 đứa.
Chúng còn nhỏ tuổi nên dậy cũng không vất vả lắm. Mình dậy ba buổi một tuần xen kẽ, mỗi buổi
hai giờ. Thu đừng lo ít học sinh, chỉ sợ
bạn không đủ sức mà dậy.”
-“Vậy Nga
giới thiệu cho mình nhé?”
-“Mình cũng
muốn giới thiệu cho xong, vì còn nhiều việc phải làm trước khi đi. Nếu có thể sáng mai Thu đến nhà, mình sẽ đưa
bạn đi.”
-“Vâng,
sáng ngày mai mình sẽ đến Nga.”
Trên đường
về nhà lòng Thu thật vui. Nàng nhủ thầm
có lẽ ông Trời đã rủ lòng thương xót, đã ban cho nàng một công việc hợp với khả
năng và ý thích mà nàng mong đợi từ lâu.
Thu rất mừng,
nàng không còn đi sớm về tối như thời gian trước đây. Không phải lo ngại đám công-an chặn xét trên
các ngả đường mà nàng đi qua, không phải tranh giành mối bán nơi mua. Nàng không còn phải đối diện với những bộ mặt
đanh ác của đám công an kiểm soát, những phút giây hồi hộp khi bị mất cả vốn lẫn
lời, những lời ong tiếng ve tán tỉnh của bọn người vô loại. Hay trải qua những
tủi nhục, khinh miệt trên đường kiếm sống.
Thu dậy mỗi
gia đình 3 buổi một tuần, mỗi buổi 2 giờ.
Nàng dậy 6 ngày, còn ngày chủ nhật để săn sóc các con và chính mình được
thong thả. Những gia đình nàng tới dậy
có ý định cho con cháu họ xuất ngoại bằng đường chính thức hay không chính thức. Nàng hướng dẫn Anh hay Pháp ngữ tùy theo gia
chủ có ý định cho con em họ tới quốc gia xử dụng tiếng Pháp hay tiếng Anh.
Thu như một
con thoi. Trên chiếc xe đạp nàng chạy từ
nhà này đến nhà khác, từ sáng đến chiều.
Ða phần là những gia đình giầu có nên tiếp đãi nàng rất hậu. Nàng coi đám học trò như con em mình nên hết
lòng giảng dậy, không quản công khó miễn là chúng hiểu và thực hành được những
điều chúng học. Vì tận tâm và thân thiết
nên học trò học rất tiến bộ.
Thêm nhiều
gia đình mời Thu tới dậy. Tiền kiếm khá
hơn, dù có mệt nhọc nhưng vẫn dễ chịu hơn thời gian đi buôn hàng chuyến. Nàng cảm thấy thoải mái, không còn lôi thôi lếch
thếch như trước.
Khi đi dậy
học Thu mới biết một sinh hoạt nóng bỏng đang xẩy ra, mọi người tìm đủ cách để
ra khỏi nước. Có tổ chức được cán bộ địa
phương hậu thuẫn, hay có nơi được chính quyền địa phương đứng ra tổ chức cho
người vượt biên mệnh danh là “bán chính thức”.
Ðó chỉ là hình thức che đậy, vì chính người đại diện chính quyền địa
phương thường nhấn mạnh, chuyến đi đã được trung ương chấp thuận để gây qũy. Mặt khác, người dân miền Nam cũng hiểu nhà nước
cho cán bộ trà trộn vào đám người vượt biên để xử dụng sau này. Tầu sắt lớn được trang bị máy tốt, thức ăn nước
uống đầy đủ, dù giá có cao hơn các tổ chức tư nhân gấp bội. Người đi tới nơi viết thư về diễn tả chuyến
đi như một cuộc du lịch.
Ngoài một số
chuyến đi được chính quyền địa phương tổ chức, còn khá nhiều tổ chức tư nhân
không dính líu tới chính quyền. Họa
chăng chỉ móc nối ăn chia với công an địa phương nơi tầu tách bến. Do thành quả các chuyến đi, mọi người khao
khát ra khỏi nước vì không muốn sống chung với chế độ cộng-sản.
Sau một thời
gian dậy học phụ huynh học sinh rất mến
nàng, thân thiết như người trong gia đình.
Biết hoàn cảnh Thu có chồng đi “cải tạo”, họ càng tin tưởng và cho nàng
biết về hoạt động đưa người vượt biển.
Họ cho hay sẽ cho con cháu họ vượt biên một ngày rất gần, nếu nàng bằng
lòng có thể cùng đi với gia đình họ.
Thu đọc thư
của mấy đứa học trò đi tới nơi viết về.
Trước khi chúng đi nàng biết trước, nên càng tin tưởng mấy người này làm
ăn đứng đắn. Không giống một số tổ chức
ăn chia với cán bộ, lừa người đi để lấy tiền.
Sinh hoạt
trong các gia đình sửa soạn cho con em vượt biên có hơi khác. Một mặt cha mẹ bắt con em học cho chăm, mặt
khác về phía học sinh, chúng cũng hiểu là sẽ phải dùng tới ngôn ngữ mà chúng
đang học khi tới đất nước người. Chúng học
chăm và rất tiến bộ, nhưng cũng không tránh khỏi nôn nóng vì những lá thư gửi về.
Thu suy nghĩ
rất nhiều. Có nhiều việc đến với nàng
cùng một lúc. Chồng nàng không biết nay ở đâu, còn sống hay đã chết. Ðã gần ba năm rồi chưa có tin về, liệu anh có
gặp điều gì nguy hiểm không. Các con
nàng còn nhỏ quá. Ðứa con lớn mới mười bốn
tuổi, liệu nó đi được không. Nếu có gì
không may xẩy ra cho con, nàng sẽ là người khổ tâm nhất vì để đứa con yêu
thương của mình vào nơi nguy hiểm.
Mỗi lần Thu
tới dậy học, gia chủ đều gợi ý muốn nàng nhận lời đi cùng với con cháu họ. Chúng sẽ nhờ cậy nàng hướng dẫn khi tới đất
nước người. Họ sợ Thu ngại vì không có
tiền trả lộ phí, nên cho nàng một điều kiện thật dễ dãi là đưa một số ít trước,
số còn lại sẽ trả khi tới nơi. Ðối với
nàng hiện giờ số tiền này đâu phải là nhỏ, cũng may vì chỗ quen bà chỉ lấy một
phần tiền trước. Ðành vậy, nếu cho con đi
nàng phải bán số nữ trang, quà kỷ niệm của chồng từ hồi mới quen để lo cho
con.
Thu cũng thấy
đây là một điều kiện khá thuận lợi, nhất là chỗ quen biết không sợ bị lường gạt. Như trường hợp một số tổ chức ma, dẫn khách
đi xem tầu coi máy, mọi thứ đều hoàn hảo. Người đi đóng tiền trước một phần, khi xuống
thuyền lớn sẽ đưa hết. Ðến ngày đi có
người đến đón. Trong đêm tối sợ bị phát
giác, nên bảo sao nghe vậy, cho đi thuyền nhỏ đông người cũng đành chịu. Chủ tầu chỉ mong thâu được tiền, cũng không
quan tâm tới an nguy của người ra đi.
Nhưng tệ hại
hơn nữa, có tổ chức đón người đưa tới chỗ đợi, hừng sáng đã thấy công an tới bắt. Nếu có của nộp cho bọn công an để được tha về
là một điều may, nếu không ngoài mất của còn bị bắt tù đầy.
Thật khó mà
biết được thật hay giả, nhưng số người đi vượt biên ngày càng nhiều. Một cuộc “bỏ phiếu bằng chân” cả về mặt chính
trị lẫn kinh tế đối với chế độ cộng-sản.
Vượt biên như là một thứ dịch, lan tràn trong thành phố và các tỉnh ven
biên. Nó đáp ứng được hoài bão của đa số
dân chúng muốn thoát khỏi chế độ ngày càng hà khắc, đang biến miền Nam đã một
thời trù phú phút chốc trở lên nghèo đói, mất tự do. Mọi người phải tìm một lối thoát cho con em
mình, hầu tránh được cái không may mà họ đã gặp. Người miền Nam bản chất vốn tình cảm phóng
khoáng, không chấp nhận một cuộc sống luôn bị đe dọa.
Từ quán cà phê đến nơi họp chợ đông người, câu
chuyện hấp dẫn nhất vẫn là vượt biên.
Người ta dẫn chứng bằng hình ảnh, những bức thư có dấu bưu điện ngoại quốc
của người ra đi gửi về. Vô tình đã là những
động lực khuyến khích những người còn ở lại thực hiện một chuyến đi xa.
Thu rất
phân vân khi biết ngày đi đã gần kề, bãi bến thuận lợi, tầu thuyền sửa soạn rất
an toàn, kỹ lưỡng. Nàng cũng mong các
con mình học đến nơi đến chốn, có tương lai tốt đẹp sau này. Nhưng làm sao đây, đi một lúc sáu mẹ con cũng
khó. Lấy ai lo cho chồng đang trong vòng
tù đầy, và số tiền phải có quá nhiều đối với nàng trong lúc này. Cho đứa nào đi cũng dở, chúng còn nhỏ dại, nhờ
ai săn sóc khi xa nhà.
Tại trường,
tin vượt biên làm lũ trẻ sao lãng việc học.
Ðứa con trai lớn một hôm đi học về nét mặt buồn thiu. Nó cho hay đứa bạn thân nhất còn gặp hôm thứ
sáu, thứ hai không thấy đi học, hôm sau mới biết cả gia đình đi vượt biên. Từ đấy, Thu thấy con chăm chỉ bơi ở hồ tắm
trước nhà. Chiều nào đi dậy học về, nàng
cũng thấy con đứng trên cầu thang dơ hai tay lên cao, miệng gọi “mẹ ơi”, đã thấy
nó nhẩy xuống dưới nhà. Nó làm động tác
như người bơi lội phóng mình xuống nước.
Nàng tưởng con mình tập nhào lộn
như khi đi tắm nên mỉm cười xoa đầu nó.
Vào một
ngày con nàng xin mẹ đi Mỹ, nó nói bạn bè thân thiết của nó lần lượt ra
đi. Thu bảo con còn nhỏ, đi xa không ai
săn sóc. Nàng đâu yên tâm cho nó ra đi
trong hoàn cảnh này, ngoài biển cả bão tố còn cướp biển dọc đường. Nhiều chuyến đi không đến nơi vì tầu hư máy,
đói khát đau ốm lấy ai lo cho nó đây.
Thu thấy
con tập bơi nhiều hơn. Mỗi sáng trở dậy
nó tập thể dục lâu hơn trước, ôn lại những bài võ Vovinam mà nó học từ khi còn
nhỏ. Nàng nhìn thấy sự quyết tâm của
con. Nó hiểu phải biết bơi trước khi dự
một lần vượt biển.
Việc dậy học
của Thu tiến triển đều. Học trò ngày một
đông, vì vậy thời gian làm việc của nàng cũng tăng theo. Suốt tuần lễ bận rộn, chỉ còn ngày chủ nhật
được thảnh thơi ở nhà với con.
Khi bà Tư,
gia đình học trò nàng thân nhất, cho hay họ sẽ cho con cháu họ đi vào chuyến gần
nhất. Nếu nàng chưa muốn đi lúc này, có
thể cho bất cứ đứa con nào đi cũng được.
Ðể nàng yên tâm, bà bảo chuyến đi được sửa soạn rất kỹ vì có con cháu bà
cùng đi. Nào là thuyền tốt, ba máy đầu bạc,
tài công giỏi, thức ăn nước uống đầy đủ, bãi bến đã mua xong. . . Với các điều
kiện kể trên, sựï thành công của chuyến đi đã đạt tới bẩy tám phần mười. Còn sự may rủi ngoài biển khơi khó mà lường được. Thu gặp mấy đứa học trò đi chuyến này, chúng
bảo nàng nên cho con đi, và hứa sẽ săn sóc nó như em.
Thời gian
ra đi đã gần kề, nàng phải có một quyết định.
Cho nó đi hay ở lại. Thu cũng muốn
cho con đi vì tương lai của nó. Nàng
không muốn nó giống như đứa trẻ vì hoàn cảnh đời sống mà phải nghỉ học, đi bán
rong những món hàng tầm thường. Nàng
nhìn thấy tương lai con nàng nếu chúng ở lại đất nước này, như mấy đứa cháu, đã
bị gạt ra khỏi ngưỡng cửa đại học vì cha chúng đi “cải tạo”. Hay phải cung cấp mạng sống cho chiến trường
Campuchia như mấy đứa trẻ trong xóm. Ðất
nước này là của riêng thành phần mới tới chiếm ngụ, họ cho mọi người được sống
hay bắt phải chết, có toàn quyền hành động dưới danh nghĩa quốc gia dân tộc.
Sau bữa cơm
tối, Thu gọi đứa con lớn vào phòng, nàng hỏi:
-“Con muốn
vượt biên sang Mỹ lắm phải không?”
Khuôn mặt
nó vụt hớn hở, đôi mắt nó bừng sáng. Nó
trả lời như đã suy nghĩ, quyết định từ lâu.
-“Con muốn
đi lắm me ạï.”
-“Mẹ chỉ ngại
khi xa nhà không có ai săn sóc con. Mẹ tội
nghiệp cho con lắm.”
-“Mẹ đừng
lo, con lớn rồi, con có thể tự lo được.”
-“Nhưng dọc
đuờng nguy hiểm lắm con biết không?”
-“Người ta
đi đến nơi thì con cũng đi được. Con
không muốn ở lại đi bán bong bóng hay kẹo đậu phụng như mấy đứa bạn của con.”
Thu thương
con quá. Liệu nó có đủ trí khôn để nhận
biết những nguy hiểm, bất trắc sẽ xẩy ra trên con đường nó sắp đi không. Thu phân vân cũng như nàng đã tự hỏi, là quyết định của nàng có đúng không. Nàng thầm nghĩ nếu giờ này có chồng ở nhà, hẳn
anh sẽ đưa ra một lời khuyên, hay có một quyết định giúp nàng tránh được những
giây phút khó khăn như lúc này. Nàng phải
làm sao đây, vì quyết định của nàng sẽ ảnh hưởng tới cuộc đời của con sau
này. Liệu sẽ thành công hay thất bại. Thế nào mới là một quyết định đúng. Còn thời gian sắp tới các con nàng lớn lên,
liệu nàng có khả năng giúp chúng quyết định về đời sống của chúng, hay chế độ
này sẽ an bài tất cả.
Thấy mẹ im
lặng suy nghĩ, con nàng tiếp lời:
-“Mẹ đừng
lo lắng nhiều quá, con rất muốn ra đi.”
Nghe con
cương quyết trả lời, nàng nhìn con thương xót.
Có lẽ số phận an bài như vậy. Thu
như bớt đi phần nào lo âu về quyết định của mình. Nàng dặn con không nói cho ai biết, và âm thầm
sửa soạn hành trình cho con. Nàng biết đây không phải là chuyến đi chơi bình
thường, nó chỉ mang những gì cần thiết.
Nàng đánh hai chỉ vàng thành hai chiếc nhẫn khâu dưới gấu áo và dặn con
lấy ra dùng khi cần.
Thu cho bà
Tư hay nàng cho đứa con mười bốn tuổi đi chuyến này, hy vọng con cháu bà sẽ săn
sóc nó giùm nàng. Bà bảo Thu nên đưa con
tới lúc tám giờ tối để tiện việc sắp xếp.
Mấy mẹ con
ngồi ăn bữa cơm chiều, lòng nàng nặng chĩu.
Chỉ vài giờ nữa thôi, mẹ con nàng sẽ xa nhau, liệu còn gặp lại nó
không. Ðến giờ phút này nàng còn ngần ngừ,
nửa muốn cho con đi nửa muốn giữ nó lại.
Còn con nàng vẫn vui vẻ, mặt hớn hở như vừa đạt được điều nó hằng mong đợi. Nó cười nói với các em như không có gì khác lạ,
nhưng thỉnh thoảng vẫn quay nhìn mẹ, khi
thấy nàng đang lo âu suy nghĩ.
Hai mẹ con
lên nhà bà Tư. Thu chở con phía sau xe,
túi quần áo của con để trong giỏ xe phía trước.
Thấy Thu chở con tới, bà vỗ vai nàng cười nói:
-“Cô yên
trí, chuyến này chúng đi như đi nghỉ mát.
Tháng này thời tiết rất thuận, biển êm.
Tôi đã xem xét mọi thứ, không có gì đâu mà lo. Khuya nay xe chạy, quá nửa đêm lên thuyền lớn. Mấy ngày là có tin về.”
Thu ôm con,
nàng không cầm được giọt lệ chia tay.
Làm sao tránh được nỗi buồn, từ khi sinh ra đến giờ các con nàng luôn quấn
quít bên mẹ. Rồi cha đi “cải tạo”, nó
thân cận an ủi nàng rất nhiều. Các con
là nguồn yêu thương của nàng trong suốt thời gian vừa qua cũng như những ngày sắp
tới. Nàng lo lắng cho các con từng chút
một, có bao giờ xa chúng lâu đâu.
Ðể tránh
hai mẹ con bịn rịn, bà Tư dục nàng về để đám trẻ được nghỉ ngơi trước khi
đi. Thu nắm chặt tay con, như không muốn
rời xa nó. Con nàng dục mẹ về, nhắc mẹ
hãy giữ gìn sức khỏe. Dù con còn ít tuổi,
nhưng nét mặt nó thật dắn dỏi, cương quyết vô cùng. Nàng ôm hôn con và đám học trò trước khi đi.
Về đến nhà,
nhìn mấy đứa con còn ở lại, nàng lại càng thương nhớ đứa con lớn vừa mới ra
đi. Các con nàng hỏi mẹ anh chúng đâu mà
không thấy về cùng. Thu kéo các con lại
gần cho hay anh chúng đi vượt biên, ngủ đêm trên đó để sáng mai ra đi. Nàng dặn các con không nói cho ai biết việc
này.
Ðã khuya,
Thu dục các con đi ngủ. Còn lại một
mình, nàng muốn nằm một chút cho khỏe.
Tinh thần nàng mấy ngày nay thật căng thẳng. Nàng nằm không lâu lại ngồi bật dậy, đi lại
trong phòng nhiều lần. Nàng đặt ra nhiều
câu hỏi rồi tự trả lời. Bà Tư không nói
rõ giờ khởi hành, không hiểu giờ này nó đã đi chưa.
Thu không
sao chợp mắt. Mỗi lần thiu thiu ngủ chỉ
thấy hiện ra hình ảnh nguy hiểm trên biển cả.
Biển cả mênh mông, sóng dồn lớp lớp, chiếc thuyền gỗ quá nhỏ bé mong
manh. Nàng không sao yên tâm, hết nằm lại
ngồi, như linh cảm có sự gì bất trắc xẩy
ra cho chuyến đi này. Nàng mong trời mau
sáng, vì đêm tối thật cô đơn với ngững giấc mộng hãi hùng.
Thu ra khỏi
giường, uống ly nước lạnh cho tinh thần đỡ giao động. Nàng không hiểu được tâm trạng của mình, có
phải vì quá lo lắng mà ra. Mới xa con có
vài giờ mà lòng nàng như lửa đốt. Trời
còn tối, gà vừa mới gáy sáng. Bây giờ mới
bốn giờ, còn quá sớm để đến nhà bà Tư.
Thu nhẩm tính từ nhà nàng ở đến bà Tư đạp xe cũng mất hơn nửa giờ, như vậy
đến nơi cũng gần năm giờ sáng. Không chần
chừ nàng dắt xe ra khỏi nhà.
Ðến nhà bà
Tư mọi người đã thức, nàng có cảm tưởng đêm qua họ chưa đi ngủ. Thấy nàng tới bà Tư ngạc nhiên hỏi:
-“Cô đi đâu
mà lại đây sớm thế?”
-“Tôi tới sớm
hy vọng cháu chưa đi, xin bà cho cháu ở lại.
Tôi thấy nóng ruột quá.”
-“Tại cô lo
ra đó thôi. Chúng đã lên thuyền lớn từ
lúc nửa đêm, bây giờ đã tới hải phận quốc tế.
Cô đừng lo nghĩ nhiều sinh bệnh mà khổ.
Khi nào có tin tôi tới cho cô hay ngay.”
Bà Tư nhìn Thu rồi tiếp lời “ Ðêm hôm qua cô không ngủ chút nào phải
không. Cô phải giữ sức khỏe mới được, mắt
sâu vô rồi đấy. Tôi nói cô hay từ trước
là chuyến này gia đình tôi đi, sửa soạn rất kỹ.
Cô không nên quá lo.”
Thu hiểu
người tổ chức chuyến đi chỉ biết tin tức về việc đổ người an toàn nơi bãi khởi
hành. Khách đi được chở bằng ghe nhỏ ra
thuyền lớn đậu ngoài xa. Muốn biết tin
lên thuyền lớn có an toàn hay không cũng phải đợi vài ngày. Kể từ khi thuyền lớn khởi hành, người tổ chức
không biết gì hơn vì thiếu phương tiện liên lạc. Phải đợi khi thuyền tới nơi mới có điện về.
Nàng đã bảo
con trước khi đi, khi lên thuyền lớn hãy nhắn tin về cho nàng yên tâm. Sợ con nhỏ dại, Thu đưa con một miếng giấy
ghi sẵn để trong bao nhựa, khi lên thuyền lớn thì gửi về. Chứng tỏ bước đầu đã an toàn.
Thu như người
mất hồn khi chưa có tín hiệu của con.
Nàng xin nghỉ dậy ít bữa. Trong
lúc này nàng không còn tinh thần để giảng dậy, làm biếng cả ăn, người lúc nào cũng
như hâm hấp sốt. Ngồi nhà thì không yên lòng, Thu sang nhà Tuyết.
Thấy Thu tới
mắt đỏ hoe, mặt tái xanh như đang trong cơn bệnh, Tuyết vội hỏi:
-“Thu đau
hay sao. Ðêm qua có ngủ được không mà
trông bạn thảm hại quá. Cháu lớn đã đi
chưa?”
-“Cả đêm
hôm qua mình không chợp mắt chút nào vì lo cho cháu. Ðưa cháu đi từ tối hôm qua, không hiểu nó thế
nào. Bây giờ vẫn chưa có tin.”
-“Thu có biết
thuyền khởi hành lúc nào không?”
-“Sáng sớm
hôm nay mình có tới bà chủ tầu xin cho cháu được ở lại, bà chủ tầu cho hay cháu
đã lên thuyền lớn vào lúc nửa đêm. Mọi
việc tốt đẹp nhưng vẫn chưa có tín hiệu cháu gửi về.”
-“Nhanh lắm
thì cũng phải ngày mai mới có tin. Ðây
là một tổ chức đứng đắn thì bạn cũng yên tâm.”
-“Không hiểu
sao mình thấy nóng ruột quá. Linh cảm
như có chuyện gì không may xẩy ra.”
-“Mình
thông cảm nỗi lo lắng của Thu. Mẹ nào chẳng
thương con, nhất là chúng còn nhỏ dại.
Các cháu ở đây cũng muốn ra đi.
Mình biết vì tương lai của chúng nhưng vẫn không tránh khỏi lo âu. Mấy bữa nay Thu có đi dậy không?”
-“Mình xin
nghỉ ít ngày. Quả thực lòng mình xốn
xang, còn lòng dạ nào mà giảng dậy.”
-“Rồi mọi
việc sẽ đâu vào đấy. Mong cháu đến nơi
an toàn. Thu không nên quá lo lắng. Nghỉ vài ngày rồi đi dậy lại cho vui. . . .”
Hôm sau Thu
mới nhận đuợc tín hiệu của con gửi về.
Như vậy mới tránh được nguy hiểm khởi đầu, từ nay trở đi nó còn phải đối
diện với nhiều sự nguy hiểm khác. Trên
biển cả mênh mông, chiếc thuyền nhỏ quá mong manh. Có đêm nàng mơ thấy chiếc thuyền vỡ ra từng mảnh,
nàng sợ hãi hét to, mới hay mình vừa trải qua một giấc mộng hãi hùng. Từ đó
nàng sợ những giấc ngủ về đêm.
Thu đi dậy
học trở lại dù tinh thần nàng chưa ổn định.
Nhìn đám học trò xấp xỉ tuổi con nàng, chúng sẽ lần lượt đi vào nơi nguy
hiểm. Không hiểu trong đám trẻ ngây thơ
này, đứa nào sẽ còn, đi đến nơi đến chốn, chúng sẽ thành công ở vùng đất lạ, và
đứa nào sẽ mất hút giữa biển khơi, để tiếc thương cho những người ở lại. Nàng
thương xót chúng, như niềm yêu thương đứa con vừa ra đi đang chua xót lòng
nàng.
Nhiều khi
nàng tự hỏi, lý do nào làm xáo trộn đời sống đang bình lặng ở đây, đẩy con người
vào chốn đường cùng, mà vì sợ hãi đã nhất quyết ra đi, lao vào nơi nguy hiểm có
thể hy sinh mạng sống. Viễn ảnh nào đã
làm con người khiếp sợ phải bỏ lại tài sản xây dựng bằng mồ hôi và nước mắt. Phải bao lâu nữa mới có sự hòa hợp dân tộc. Hay vì tư lợi, muốn bảo vệ quyền hành đảng trị,
mà tập đoàn lãnh đạo đào sâu thêm hố chia rẽ, khiến một dân tộc nhiều tình cảm
gắn bó không có được một ngày vui.
Ðể giảm bớt
lo âu, Thu giảng dậy đám học trò kỹ hơn, khuyến khích chúng chăm học. Nàng cảm thấy gần gũi, yêu thương chúng hơn
trước, và tìm thấy ở đám trẻ một niềm an ủi trong lúc tâm hồn nàng đang bấn loạn.
Hơn một tuần
sau bà Tư mới nhận được điện tín cho hay thuyền đã tới Chantaburi, một đảo nhỏ
thuộc địa phận Thái-lan. Thu đọc tấm điện
tín mà lòng chưa hết lo âu. Bức điện quá
đơn giản, chỉ nói tới nơi, không cho biết rõ tình hình chuyến đi, nàng vẫn mong
bức điện kể rõ tên người đã tới.
Nhìn bà Tư,
Thu thấy nét mặt bà có vẻ tư lự, như có điều gì chưa thể nói vào lúc này. Bà có vẻ bận rộn như không muốn tiếp chuyện
lâu. Nàng định hỏi bà có chuyện gì nói
cho nàng biết, nhưng Thu lại đổi ý. Vì
lúc này, bà cũng như nàng , ở quá xa nơi để biết chuyện.
Tình trạng
vượt biên ngày càng sôi động. Có tổ chức
móc nối với hải-quân, người đi xuống tầu hải quân tại bến Bạch-đằng, kho năm
Khánh-hội, như thân nhân thủy thủ xuống thăm tầu. Chiếc thuyền gỗ dùng để vượt biên công khai
ra khỏi Sai-gon, mặc bọn công an chặn xét.
Sau đó, chiếc thuyền gỗ được tầu hải quân kéo qua khỏi Nhà Bè. Tới địa điểm an toàn, người vượt biên mới rời
tầu hải-quân xuống thuyền. Dịch vụ hoàn
tất, từ đây tới hải phận quốc-tế không còn bao xa nữa.
Một tháng
sau Thu mới nhận được thư con. Cầm bức
thư có dấu bưu điện Thái-lan, nàng mới chắc con mình đã tới nơi. Lòng nàng phấn khởi như vừa uống một liều thuốc
hồi sinh. Thu xúc động khi đọc thư của
con, đúng như nàng linh cảm, nó đã gặp chuyện không may dọc đường. Nàng để giòng lệ tuôn rơi khi đọc thư:
“. . . Bà
Tư bảo mẹ về để chúng con ngủ một giấc trước khi đi, nhưng thực ra sau khi mẹ về
là chúng con ra xe ngay. Trời tối quá,
ngồi trong xe chúng con không biết mình đi đâu.
Khi xuống xe mọi người vào một căn nhà nhỏ, không được nói chuyện. Căn nhà không thắp đèn nên tối thui. Bây giờ con mới thấy lạnh vì vẫn mặc bộ quần
áo ở nhà khi đi. Con không dám mở bọc lấy
áo mặc thêm, vì sợ phải đi bất chợt.”
“Khoảng nửa
đêm chúng con ra khỏi căn nhà ngồi đợi.
Trời tối đen không nhìn rõ đường, nên nguời đi sau nắm áo người đi trước. Con và mấy người học trò của mẹ lên thuyền rất
khỏe, không gặp một trở ngại nào. Theo mẹ
dặn con đã gửi tín hiệu về, mẹ có nhận được Không.”
“Ðêm tối mờ
mịt không nhìn thấy gì ở đằng xa, chỉ toàn một mầu đen như mực. Mọi
người trên thuyền đều vui khi qua hải phận quốc tế. Mặc dầu biển êm nhưng chúng con vẫn bị say
sóng. Hết đêm lại ngày, qua ngày tới
đêm. Con nhớ mẹ và các em vô cùng. Không biết đến bao giờ con mới gặp lại bố mẹ
và các em.”
Thu buông
rơi lá thư, nàng thấm nhanh những giọt lệ trên trang thư của con. Nàng không kìm giữ được tiếng nấc nghẹn mà niềm
đau đang thấm sâu vào tim, làm ngưng nhịp thở như đứt đoạn của nàng. Thu xót xa đọc tiếp trang thư:
“Trước đây
con vẫn thích biển, có lẽ chỉ là bãi biển Vũng-tầu hay Nha-trang vào dịp nghỉ
hè. Con được đùa với sóng hay chôn người
dưới cát, đùa rỡn với các em.”
Thu lại
ngưng đọc, nước mắt nàng vẫn tuôn rơi.
Phải, tội nghiệp cho con nàng, nó
đã đối diện với sự thật, không phải đùa rỡn với sóng như nó thường nghĩ. Nó đã trôi nổi trên đại dương. Trên là bầu trời bao la, dưới là biển nước
mông mênh. Mặc dầu là biển lặng, nhưng
con thuyền quá nhỏ bé chỉ là hạt cát, là vết bụi trong đại dương, làm sao có thể
đương đầu với sóng dữ. Thu hối hận, tự
trách mình đã để con đi vào nơi nguy hiểm.
“Thuyền bị
sóng nhồi lên kéo xuống, lắc lư như nằm võng.
Con thầm ước giờ này được ở nhà với mẹ và các em thì vui biết mấy.”
“Sau mấy
ngày hành trình tương đối tốt, mọi người hân hoan vì không gặp hải tặc hay trở
ngại nào trên quãng đường vừa qua. Theo
phương hướng và thời gian tầu chạy, giờ này tầu sắp lọt vào vịnh Thái-lan. Không mấy lúc sẽ cặp bờ.”
“Quá buổi
trưa trời bỗng nổi cơn giông. Bầu trời đổi
mầu, mây xám kéo đến thật nhanh, lấy mất ánh nắng đang chiếu xuống mặt biển. Gió thổi mạnh rít lên từng hồi. Sóng biển dâng cao hơn, mầu nước thẫm
đen. Con thuyền chao đảo nhiều hơn trước.”
“Bất chợt
có tiếng thét “biển động” đã làm mọi người sợ hãi. . . .”
Thu chợt bật
tiếng nấc. Nàng không cầm giữ được sự
thương xót cho đứa con yêu quý của nàng.
Giòng lệ chan hoà. Con nàng còn
quá nhỏ dại để đương đầu với những hiểm nguy.
Thu chăm chú đọc tiếp:
“Kẻ ôm vật
này, người giữ cái kia. Về phần con chỉ
mặc chiếc quần đùi và áo sơ-mi mẹ khâu hai chỉ vàng dưới gấu. Gói quần áo mang theo vẫn để ở chỗ nằm.”
“Người tài
công cố lái con thuyền. Con chỉ thấy con
thuyền bị nâng lên cao rồi hạ nhanh xuống.
Mọi nguời sợ hãi, tiếng kêu la như át cả tiếng sóng. Sóng đẩy con thuyền, hất mọi người từ bên này
sang bên kia mạn thuyền. Con thuyền đã mất
thăng bằng ở giờ phút này. Nước biển
đang rỉ vào thuyền qua khe nứt. Những
người nằm dưới hầm thuyền đã lên hết bên trên, vì dưới hầm nước đã vào nhiều,
khiến phần nổi con thuyền nặng hơn phần chìm dưới nước. Chiếc thuyền lắc lư nhiều hơn.”
“Chúng con
vẫn ở trên sạp thuyền, sát với phòng lái, từ trước lúc gặp bão. Con ôm chặt vào khung gỗ tựa lưng nên không bị
hất ra ngoài. Chúng con không biết làm
sao bây giờ. Không ai có thể lo cho
chúng con vào giờ phút này.”
Thu đọc
thư con trong tiếng nấc, nước mắt nàng đã đầm đìa, xóa nhòa hình ảnh trước mắt. Nàng bỏ lá thư xuống, đưa khăn thấm những
giòng nước mắt đang thi nhau rơi. Nàng
muốn đọc tiếp lá thư, nhưng dường như nước mắt đã làm nghẹn nơi cuống họng. Nhịp thở của nàng thêm dồn dập:
“Chủ thuyền
lo cứu vãn con thuyền, còn người khác đang lo cho bản thân họ. Nước vào thuyền nhiều hơn. Phía lái đã nằm ngang mặt biển, còn mũi ngóc
lên cao. Nhiều người không bám chặt đã
tuột từ mũi thuyền xuống phiùa lái. Sóng
biển vẫn nhồi con thuyền nhô lên hụp xuống.
Nằm trong thuyền nhìn ra ngoài, sóng dâng thật cao như muốn phủ con thuyền. Khiến chiếc thuyền lúc nghiêng bên phải khi
nghiêng bên trái. Bất chợt chiếc thuyền
xoay tròn, không hiểu có phải nó rơi vào con xoáy như mẹ thường kể cho chúng
con nghe không. Nó như bị kéo xuống rồi
tức thời đẩy lên cao. Con cảm thấy mệt
nhiều hơn. Muốn nôn mà không được, vì từ
hôm qua đến giờ con bị say sóng nên chưa ăn thứ gì. Chúng con cố bám vào khung gỗ.”
“Chiếc thuyền
như vặn mình oằn oại. Tiếng gỗ vách thuyền
bị xé rách phát ra âm thanh nghe thật rõ.
Sóng đập vỡ vách thuyền làm nhiều mảnh.
Xác thuyền chìm dần. Tất cả mọi
thứ chứa trong lòng thuyền nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Mọi người cố gắng vùng vẫy bám vào nhau, hay
bất cứ vật gì trong tầm tay. Nhiều người đuối sức hay không biết bơi chìm
dần xuống nước, chỉ thấy hai bàn tay quờ quạng rồi mất dạng. Những người còn lại, sau một thời gian qúa
lâu vật lộn với sóng nước đã mệt mỏi, đành nhìn những bạn đồng hành hay thân
nhân mình chìm dần dưới làn nước biển.”
“Con nhìn
thấy cảnh người cha cỡ tuổi bố, khi thấy con mình bị hất xuống biển, ông lao
theo cứu hai đứa con. Nhưng hai con ông
qúa sợ, đã ôm chặt cổ cha. Chỉ thấy ba
cha con vùng vẫy một lát rồi không thấy nổi lên nữa.”
Thu ngừng
đọc. Cảnh thuyền vỡ như hiện ra trước mắt
nàng. Những tiếng kêu cứu thảm thiết đã
bị sóng biển chôn vùi, những hình hài mất hút dưới đáy biển sâu. Cơ may nào dun dủi mà con nàng sống sót. Nàng vội đọc tiếp lá thư:
“Chúng con
sợ hết hồn khi thuyền vỡ. Nhưng may mắn,
con và mấy người học trò của mẹ, ôm được mảnh ván thuyền. Cũng nhờ biết bơi nên con ôm chặt tấm ván mặc
cho sóng nước đưa đẩy. Con không rõ cơn
bão xẩy ra bao lâu, đến khi gió bới thổi mạnh, sóng biển cũng giảm theo, không
dữ dằn như lúc ban đầu.”
“Trời quang
trở lại, một số người ôm được ván thuyền hay các vật nổi còn vùng vẫy trên mặt
biển. Con bơi miếng ván lại gần chỗ đông
người. Bỗng mọi người la lớn, hò hét khi
thấy một chiếc tầu đang tiến về phía chúng con. Mọi người nhận ra đó là tầu đánh cá Thái-lan.”
“Họ bắt đầu
cứu người bị nạn. Mọi người bơi lại gần
tầu, đua nhau bám vào thang giây vừa thả xuống.
Mặc dầu biển đã bớt động, nhưng sóng vẫn còn dâng cao. Con tầu vội chạy ra xa, tránh tình trạng mất
thăng bằng khi mọi người cùng leo lên một bên.
Họ tiếp tục vớt từng nguời. Con
ôm miếng ván bơi lại gần tầu, bám vào thang giây và được kéo lên tầu.”
Thu thở một
hơi dài, như vừa trút được một gánh nặng.
Con nàng sống sót trong đường tơ kẽ tóc. Niềm thương xót con đang dậy lên.
“Bọc quần
áo con mang theo đã văng đi ngay từ khi thuyền vỡ. Chiếc áo con mặc rách nát tuột khỏi người con
lúc nào mà con không hay. Con chỉ còn mặc
chiếc quần đùi. Vì ngâm lâu trong nước
biển lạnh nên con rét run. Khi lên tầu
Thái con được quấn mền ấm và uống nước nóng.
Lúc này con mới thấy mệt và đói.”
“Chúng con
được đưa tới trại gần nhất trên đất Thái.
Trại Chantaburi nơi con đang ở với mấy người học trò của mẹ. Mẹ đừng lo vì mất chiếc áo mà con không có tiền
tiêu. Trại đã cho chỗ ở và ngày hai bữa
cơm no. Dù không bằng ở nhà nhưng cũng
không đến nỗi nào.”
“Bây giờ
con đang ở sát biển. Hàng ngày, sáng
trưa chiều tối con vẫn ra đây ngắm biển.
Phần vì con thích biển từ lâu, hơn nữa trại không có chỗ nào chơi tốt
hơn là bờ biển này. Nhưng mỗi lần ra đây
nhìn biển, con lại nhớ tới cảnh biển động, thuyền vỡ thật kinh hoàng. Khi viết thư cho mẹ con vẫn còn thấy sợ. Sự sợ hãi làm con khó ngủ nhiều đêm.”
“Con có ý
nghĩ là mẹ và các em không nên đi vượt biên, vì may mắn thì ít mà rủi ro thì
nhiều. Nhất là các em còn nhỏ, chúng
không chịu nổi nếu gặp trường hợp như con.
Mẹ biết không, chiếc thuyền con đi có hơn một trăm người, mà sau cơn bão
chỉ còn hơn bẩy chục. Mẹ có nhận được
tin của bố đang ở đâu không, đã mấy năm rồi mình không được tin bố. . . .”
Thu đọc
thư con nhiều lần. Nàng mừng là con đã đến
nơi đến chốn. Nhưng bây giờ nó phải đối diện với hoàn cảnh
mới. Con lớn lên trong một xã hội tiến bộ
rất nhanh cả về điều tốt lẫn xấu. Một xã
hội có nhiều phương tiện để phát triển tương lai, nhưng cũng có nhiều cơ hội
làm con người hư hỏng. Liệu nó còn gặp
điều không may nào nữa không. Lòng mẹ
thương con vô cùng.
*
5.
(Pháo kích khu dân cư trước ngày 30-4- 1975) |
Thu
nhìn ra cửa khi nghe các con chào khách, nàng nhận ra người em dâu họ, mợ
Ninh. Cậu là một sĩ quan đang “học tập cải
tạo”. Thu ra tận cửa đón.
-“Em đi bán
hàng gần đây, ghé thăm bác, chị và các cháu.
Hôm nay chị không đi chợ?”
-“Chị không
đi buôn đã mấy tháng nay. Hiện chị đi dậy
học tư, được nghỉ ngày chủ nhật.”
-“Lâu nay
chị có nhận được tin của anh không?”
-“Hơn một
năm trước chị có gửi quà cho anh một lần.
Từ đó đến nay không nhận được tin của anh nữa.”
-“Khi gửi
quà em nghĩ chị đã biết anh đang ở đâu.”
-“Ðịa
phương chỉ cho chị hay ngày giờ chị tới trại Chí-hòa, đường Lê-văn-Duyệt gửi
quà, nhưng không được gặp mặt. Một
tháng sau, vào ngày thăm nuôi kế tiếp, chị có tới trại Chí-hòa gửi quà. Cán bộ trại cho hay không có tên anh ở trại
này. Còn em, em có nhận được tin của cậu
ấy không?”
Thu nhìn
người em dâu, sức khỏe không mấy tốt, quần áo lam lũ. Chứng tỏ đời sống quá chật vật, thiếu thốn.
-“Mẹ con em
vẫn thường. Còn nhà em không biết bây giờ
đang ở đâu.”
-“Nghe nói
trước đây em có nhận được tin của cậu ấy.”
-“Cuối năm
1976 nhà em có nhắn tin khi ở trại Tam-hiệp.
Khi đó vì hoàn cảnh gia đình em chậm lên thăm. Mấy tháng sau em lên thăm thì nhà em không
còn ở chỗ đó nữa. Không hiểu họ chuyển
nhà em đi đâu.”
-“Hiện giờ
em và các cháu sống ra sao?”
-“Như chị
biết, khi chạy từ tỉnh Pleiku về đây, chúng em không mang theo được gì. Chỉ là bỏ của chạy lấy người. Nhà cửa bên bố mẹ chồng em không đủ chỗ cho vợ
chồng em và mười cháu. Chúng em và gia
đình người bạn, lớn nhỏ hơn hai muơi người, tá túc tại một nhà xe của một người
quen ỏ khu cư xá Thanh-đa.”
“Rồi xẩy đến
ngày 30/4/75, nhà em đi trình diện. Cả
nhà gom lại vừa đủ 13,500 đồng đóng cho nhà nước, gọi là một tháng tiền đường
theo thông cáo, để nhà em đi “học tập”.
Sau một tháng như thông cáo nói trước khi đi, nhà em vẫn chưa về. Em không biết nhà em ở đâu.”
“Chúng em
phải họp tổ dân phố hàng đêm. Học tập
chính sách nhà nước. Em nghe nhắc lại
nhiều lần, thành phần đi học tập cải tạo vì có nợ máu với nhân dân. Lúc đó em mới hiểu ý câu nói “một tháng tiền
đường”, và họ còn ngụy biện “đó là cái ưu việt của chế độ nhà nước xã hội chủ-nghĩa,
bắt mọi người tự nguyện đi học tập.” Em
biết nhà em khó được về như thông cáo ban đầu.”
-“Chị cũng
ngạc nhiên ở điểm, họ có bạo lực nhất là miền Nam đã nằm trong tay họ, xá gì những
sự chống đối mà họ phải che dấu, lường gạt mọi người.”
-“Em và
cháu lớn ngược xuôi kiếm sống. Em thì
buôn bán ở chợ, còn các cháu làm thuê vác mướn, gặp gì làm đó, kiếm sống cho
qua ngày. Ðời sống rất chật vật.
Nhà nước
đưa ra chính-sách đẩy dân thành phố đi vùng kinh-tế mới, như để giảm bớt gánh nặng
kinh tế vì dân số quá đông của thành phố này.
Nhất là nhắm vào các gia đình có thân nhân đi “cải tạo”. Ðúng là cách một mũi tên hạ hai con
chim. Vừa cô lập thành phần chống đối, vừa
chiếm ngụ các căn nhà của gia đình “cải tạo” một khi ra khỏi thành phố. Ðịa phương khuyến cáo, nếu gia đình em đi
vùng kinh tế mới thì nhà em sẽ được về xum họp với gia đình.”
-“Chị cũng
nghĩ như em. Thực tế chỉ là lời tuyên
truyền, nhất là lời tuyên truyền của người Cộng-sản. Chúng ta đã nhìn thấy sự thật. Người Cộng-sản để lại trong lòng người dân sự
ngờ vực về hành động của họ.”
-“Vâng, nhất
là khi em nhìn thấy mấy anh “cải tạo” ở trại Long-giao, Long-khánh. Mới có mấy năm học tập mà đã thân tàn ma dại,
thân thể gầy ốm, tiều tụy không thể tưởng tượng được.
Em nghĩ mà
thương nhà em quá. Nhà em chắc cũng giống
mấy anh “cải tạo” này. Như chị thấy,
chúng em chẳng giầu có gì, nhưng trước kia nhà em có bao giờ cực nhọc vất vả
đâu. Em mong nhà em sớm trở về đoàn tụ với
gia đình. Chẳng còn cách nào hơn, em đành
chấp nhận mang các cháu đi vùng kinh-tế mới, đến một nơi chưa biết tương lai sẽ
ra sao. Trước khi chúng em đi, nhà nước
hứa hẹn cấp phát cho mỗi gia đình một căn nhà, có đất vườn trồng cấy. Nhất là gạo nước cấp phát đầy đủ trong thời
gian đầu chưa có hoa mầu.”
-“Chính quyền
ở đây cũng hô hào như thế. Ngoài ra Phường
Khóm còn áp lực thúc đẩy người dân, nhất là gia đình có thân nhân đi “cải tạo”,
hưởng ứng chính sách “kinh-tế mới”. Nhưng ở hoàn cảnh chị có khó khăn vì các bác
già yếu, các cháu quá nhỏ dại, chưa phụ giúp được gì. Thành thử chị không đi vùng kinh-tế mới. Hơn nữa, không phải vì sẵn có ý nghĩ là
chúng ta không tin được người Cộng-sản, nhưng thực tế cho thấy lời nói và việc
làm của họ hoàn toàn trái ngược. Không
làm ai tin tưởng. Nhưng nếu nhà nước cấp
nhà thì cũng đỡ khổ lúc đầu.”
-“Nói là
nhà cho sang, thực ra chưa đáng là cái chòi.
Vì nhà chưa có nóc. Mới chỉ là một
khung tre, xung quanh che bằng một lớp phên thưa bằng tre mới được một nửa phần
tường. Không chắn được gió chứ đừng nói tới che mưa. Bếp nước không có, giuờng chiếu cũng
không. Các cháu phải nằm trên các tấm
cói đan trên nền đất còn ẩm. Cũng may em
xin được một ít chăn màn, cho các cháu chen chúc nhau nằm, đỡ được phần nào muỗi
vắt châm chích hàng đêm.”
“Thành thử
thay vì bắt tay lo ngay cho đời sống, em và các cháu phải góp nhặt vật liệu, bất
kể là tấm gỗ hay tầu lá cọ, làm xong căn nhà để các cháu có chỗ che nắng đụt
mưa.”
“Sau những
ngày dãi nắng dầm mưa, phong thổ chưa quen, vật chất quá thiếu thốn, các cháu
nhỏ đau nặng. Còn mấy đứa lớn có chút sức
khỏe phải làm thuê vác mướn, quần quật từ sáng đến tối để có phương tiện sống
qua ngày.”
-“Ðời sống ở
đây cũng khổ cực không kém, cả về tinh thần lẫn vật chất. Nhưng ở hoàn cảnh như thế em xoay trở làm sao?”
-“Qua những
tháng đầu vất vả, nhất là cháu út còn nhỏ, em không tiện đi xa. Mấy mẹ con em học nghề đốt than. Lúc đầu gặp nhiều khó khăn, nhưng vừa học vừa
làm rồi cũng quen. Chưa biết tương lai
ra sao, nhưng em cũng tạm yên lòng một phần,
ít nhiều mình cũng có một phương tiện sống. Mấy cháu phụ em làm than, còn các cháu khác,
ngoài thời gian vào rừng tìm măng tre đem bán hay làm thuê làm mướn, đều xúm
nhau chăm lo khu đất quanh nhà. Trồng
khoai trồng sắn, ngọn rau trái bắp hầu có thêm thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày.”
-“Chị cũng
phục em. Một nách mười đứa con dại,
trong hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất lại luôn luôn căng thẳng về tinh thần,
mà em vẫn chịu đựng lo lắng cho các cháu đầy đủ. Nhưng thấy mấy cháu phải cực nhọc vất vả cũng
tội nghiệp.”
-“Em nhìn
các cháu mà thương. Bữa ăn quá đạm bạc
mà làm việc cực nhọc từ sáng đến tối.
Chúng đang cần ăn để lớn. Chị nghĩ
có người mẹ nào thấy con ở hoàn cảnh này mà không đau xót, đứt ruột. Nhưng em không làm sao khác được.”
-“Em bán
than tại địa phương hay có mối tới mua?”
-“Khi than
ra lò, em không thể tiêu thụ tại chỗ, vì nhà nào nhà nấy đều làm công việc như
nhau. Còn mối chỗ khác tới mua lại ép
giá, tiền bán không bù được công sức bỏ ra.
Chúng em muốn kiếm thêm chút lời, nên mang về thành phố bán. Nhưng kẹt một nỗi, vừa ra khỏi xã đã gặp đám
công an thâu thuế. Trên đường về đến đây
không biết bao nhiêu trạm. Em không hiểu
sao lại có nhiều trạm thâu thuế đến thế.
Có thể nói bất cứ người công-an mặc sắc phục nào, dù không phải nhiệm vụ,
cũng có quyền lấy tiền của dân. Vào đến
thành phố lại phải đóng thuế nhập thị, thuế kinh-tế. Chưa kể nhiều thứ phụ thu này nọ. Bọn công-an tham lam vô cùng. Chúng xén đầu cắt đuôi, rồi cuối cùng họ cướp
luôn công sức của mình.
“Tháng vừa
rồi em bị đau, nên hai cháu đi bán thay.
Tối hôm đó chúng không về, em sốt ruột vô cùng. Vì dưới chế độ này, cái gì cũng có thể xẩy
ra. Nếu phản đối, họ bảo những thứ chúng
em làm ra là đồ quốc cấm, là tiếp tay với phản động chống phá nhà nước. Sáng hôm sau hai cháu mới về nhà. Than bị tịch thu. Hai cháu mặt mũi bơ phờ vì bị nhốt ở cơ quan
một đêm.”
-“Chị thông
cảm hoàn cảnh của em. Nhưng chúng ta chẳng
làm sao được. Thảm trạng này có kêu ca cũng
vô ích. Câu nói “quan ở xa, sai nha lại
gần”, nhưng thời thế này, cả quan lẫn sai nha đều ở gần, cùng một lứa. Họ vẫn coi chúng ta như kẻ thù. Chị xin đi làm hầu có chút gạo cho gia đình
thì họ làm khó đủ điều. Nói là chị thuộc
diện có chồng “cải tạo” không được chấp nhận.
Ðịa phương thì lợi dụng hộ khẩu bóp hầu bóp cổ người dân. Chị có cảm tuởng chế độ này không muốn chúng
ta, những gia đình có thân nhân đi “cải tạo”, được sống bình thường yên ổn.”
-“Nhiều khi
em chỉ còn biết khóc. Nhà em thì như thế. Biệt tăm biệt tích, không biết sống chết ra
sao. Còn các cháu đang tuổi ăn học thì bị
đầy ải ở góc rừng này. Vẫn chưa yên,
cháu lớn là đứa giúp kiếm tiền phụ thêm gia đình, thì chính quyền địa phương bắt
mỗi gia đình phải có một người, mang theo một tháng lương thực, để làm công tác
“lao động Xã-hội Chủ-nghĩa.”
-“Chị chưa
thấy chế độ nào tàn ác như chế độ Cộng-sản.
Bóc lột tận cùng sức lao động của người dân mà không ai dám kêu ca phản
đối. Vừa làm không công lại vừa mất của.”
-“Thấy cháu
lớn phải đi dân công em cũng thương xót
lắm. Em đành để cháu nhỏ ở nhà cho anh
chị cháu trông nom. Em mang bánh kẹo và
các thức ăn liền theo đoàn dân công. Vừa
có thể săn sóc cháu lớn vừa bán cho họ để đổi lấy gạo cho các cháu ăn. Em phải đi cả mười cây số đường rừng, từ sáng
sớm đến tối khuya mới về. Các cháu khác
đi làm thuê, không được vào rừng lấy măng.
Chính quyền địa phương cấm lấy măng, và bảo để măng lớn thành cây tre sẽ
dùng được nhiều việc hơn.”
-“Chị thấy
gia đình nào ở đây đời sống cũng như nhau, lấy khả năng nào mà thuê mướn người
phát hoang làm rẫy.”
-“Lúc đầu
em cũng đặt câu hỏi như chị, nhưng sau này em mới biết, là có nhiều người không
ở vùng này nhưng có đất đai rất nhiều. Họ
thuê người phát quang làm rẫy. Ða phần
là những phần đất tốt hơn chỗ em ở. Nơi
đây cũng gần căn cứ của Việt-cộng trước kia nên mìn bẫy còn lưu lại không dấu vết. Cách đây hai tháng có hai cháu bị thương vì
cuốc phải mìn.”
-“Hai cháu
bây giờ ra sao. Chúng đã khá chưa?”
-“Bây giờ
các cháu đã khá hơn. Khi nghe hai cháu bị
thương em lo quá. Không hiểu có nguy hiểm
tới tính mạng không. Cũng may một cháu bị
thương nhẹ, nhưng cháu kia bị thương khá nặng.
Khi em tới nơi, cháu đã được khênh vào nhà đồng bào gần đó. Nhìn cháu máu me đầm đìa, lúc tỉnh khi mê,
lòng em như cắt. Em sợ nó khó sống nổi.
Mọi người khênh cháu đi bộ gần ba cây số mới ra tới đường lộ. Vừa đi em vừa cầu xin ơn trên phù hộ cho cháu
qua khỏi. Em thuê xe Lam chở cháu tới bệnh
viện Long-thành. Tới bệnh viện, nếu ở địa vị chị, chắc chị cũng nổi điên vì
cung cách làm việc của đám cán bộ nhân viên nhà nước.”
-“Họ bảo
tình trạng của cháu ra sao?”
-“Họ không
đả động tới cháu, chỉ hỏi giấy tờ. Quả
thật, của đau con xót. Lúc đó em muốn mắng
vào mặt họ, nhưng đành nuốt giận, vì sự sống của con mình nằm trong tay họ. Còn nước còn tát. Em năn nỉ họ đủ điều, lậy van họ cứu
cháu. Nhưng họ vẫn không động tâm, cứ để
mặc cháu nằm trên nền gạch. Mà chị biết
tại sao không, vì em không biết “thủ tục đầu tiên”. Sau mấy giờ chờ đợi làm thủ tục, họ cho giấy
chuyển cháu đi bệnh viện Biên-hòa.”
-“Ðúng ra,
đứng trườc con bệnh ngặt nghèo, dù có tiền hay không, họ cũng phải xem xét nặng
nhẹ mới phải. Ðâu có thể vô tình đến như
thế.”
-“Em cũng
không hiểu tại sao họ vô lương tâm như vậy.
Hay vì xã hội thay đổi mà con người mất đi lòng nhân ái. Em phải cắn răng chịu đựng, vì lo cho cháu là
việc phải làm trước mắt. Em thuê xe Lam
đưa cháu đi bệnh viện Biên-hòa. Khi tới
nơi, cháu bị nhẹ thì không được chữa trị, còn cháu bị nặng phải đợi làm thủ tục
nhập viện. Từ phòng này tới phòng khác,
cháu tới lúc ba giờ chiều mà đến tối mới được chữa trị.”
-“Hiện nay
các cháu thế nào. Chúng có khỏe không?”
-“Thật phúc
đức, dù bị nhiều mảnh vào người, nhưng cháu qua được hiểm nghèo. Cháu khó lại sức ngay, vì mất quá nhiều máu
trong khi di chuyển và đợi chờ làm thủ tục.”
-“Em và các
cháu hiện giờ thế nào. Em có tính toán
gì không?”
-“Ðời sống
chúng em bảo là ổn định thì chưa. Vì có
gì gọi là ổn định dưới chế độ này. Còn
tính toán tương lai thì tính toán làm sao bây giờ. Em chỉ có một ước vọng duy nhất là biết tin
nhà em hiện ở đâu, và các cháu được đi học, để chúng sau này không ngu dốt. Nhưng liệu điều mong mỏi của em có thể thành
tựu được không. Khi nhà em còn mang nhiều
nợ máu với nhà nước, và các cháu là con cái “Ngụy”.
“Còn đời sống
chúng em. Nói cho cùng, nhìn lên không bằng
ai, nhưng nhìn xung quanh còn có nhiều người bất hạnh, cay đắng hơn nhiều. Em may mắn có đời sống dù tay làm hàm nhai, lấy
mồ hôi chan bát cơm, nhưng các cháu rất hiếu đạo. Anh em chúng yêu thương đùm bọc lẫn nhau,
kính nể cha mẹ. Không giống những đứa trẻ
vào đoàn vào đội, huênh hoang vì có chiếc khăn quàng đỏ mà có thái độ ngỗ ngược
với gia đình.”
-“Ðó cũng
là điều chị mong mỏi. Vì đời sống chúng
mình hiện tại còn gì ngoài chồng con.
Anh đang ở đâu chị cũng không biết.
Sống chết thế nào chị cũng không hay.
Chỉ còn các cháu, chúng là nguồn hy vọng của chị. Nhưng chúng còn nhỏ dại quá, dễ hấp thụ những
chuyện dở ngoài đời. Chúng ta có trách
nhiệm, bổn phận săn sóc hướng dẫn chúng.
Nhưng nhiều khi chị tự hỏi, liệu mình có điều kiện để làm công việc nhỏ
bé đó không.”
-“Chị như đọc
được lòng em. Em vẫn hằng mong đợi những
điều chị vừa nói. Em không dám so sánh với
đời sống mọi người xung quanh, nhưng em luôn cố gắng thúc đẩy, giúp các cháu
vươn lên trong đời sống. Nhưng có nhiều
trường hợp làm chúng ta kính trọng.”
-“Ở đâu cũng
vậy. Có trường hợp người đàn bà thật
đáng kính vì lòng can đảm, đã hy sinh tuổi xanh của mình cho bổn phận cao đẹp,
nhưng cũng có trường hợp làm mọi người khinh bỉ. Như trường hợp một bà gần nhà chị. Ông chồng là một sĩ quan đi “học tập cải tạo”,
nhưng bà vợ ở nhà vẫn quen thói ăn chơi đàn đúm, quần áo diêm dúa. Em có thể tưởng tượng được không. Bà ngồi ăn phở với bạn, trong khi đứa con
trai chưa tới mười tuổi, quần áo lôi thôi lem luốc đứng chờ, để được húp phần
nước cặn dư thừa. Ðã không cho con ăn,
bà còn đuổi con đi chỗ khác, như xua đuổi một kẻ ăn xin.”
-“Em cũng
nghĩ như chị. Có hay cảnh này, mới biết
giá trị của trường hợp kia. Như chuyện một
cô bên cư xá Thanh-đa, gần nhà em ở trước.
Em biết cặp vợ chồng này từ trước ngày miền Nam bị chiếm đoạt. Họ rất yêu thương nhau. Thật là một gia đình hạnh phúc. Cô còn trẻ, khi chồng đi “cải tạo” cô đã có
ba đứa con, đứa nhỏ mới đầy tháng. Em vừa qua thăm, nghe cô kể chuyện em cũng buồn lây. Em hỏi cô ấy:
-“Cô mới đi
thăm nuôi, chú ấy có khỏe không?”
-“Em đi
thăm về đã hơn tháng nay. Nhà em không
được khỏe chị ạ. Nhìn anh ấy mà
thương. Lòng em thật chua xót. Nhưng chuyện đã lỡ rồi.”
Nói đến đây
cô bật khóc, như sự đau thương đang vò xé tâm can cô. Như có dịp
tâm sự được cởi mở, được dãi bầy những niềm u uất. Cô nói tiếp:
-“Như chị
biết, các cháu của em còn nhỏ quá. Căn
nhà em ở trả góp cũng bị nhà nước lấy lại, vì chồng em là sĩ quan “học tập cải
tạo”. Nhà nước bảo chồng em là “Ngụy”
quân, đã từng giết hại cách mạng, có nợ máu với nhân dân. Khóm phường làm khó em đủ điều, coi em như kẻ
thù. Còn công an khu vực, không nói chị
cũng biết, em chẳng khác nào mỡ để trước miệng mèo. Nhưng em đâu có thể vì miếng ăn hay được yên
thân mà làm điều tàn tệ, chiều theo ý chúng.
Vì vậy chúng đâu để em yên.”
“Ðời sống
kinh tế khó khăn. Các con em đứa dắt đứa
bồng, làm sao em một mình xoay trở nổi.
Nhiều khi trước những ép buộc xung quanh em đã bất lực. Quả thực em không muốn sống trong tủi nhục
này. Nhưng phải chịu đựng, vì chồng em
đang ở tu,ø chưa biết ngày nào trở về.
Các con em còn nhỏ dại biết cậy nhờ ai lúc này. Em phải sống vì chúng.”
“Năm ngoái
có tin nhà em về trại Nam-hà, em muốn đi thăm nhưng không có tiền. Người thân mỗi người cho em chút ít, cũng tạm
đủ mua quà cho nhà em. Nhưng còn tiền tầu
xe em biết lấy đâu ra. Từ đây ra Bắc đâu
phải một sớm một chiều mà tới, nhất là đến một nơi xa lạ em làm sao tự lo được. May nhờ anh Ba, người đã giúp đỡ mẹ con em mấy
năm nay, sẵn lòng chở mẹ con ra thăm nhà em.”
-“Cô đã đi
thăm chú năm vừa rồi, lần này là lần thứ hai?”
-“Vâng, kỳ
thăm này là lần thứ hai em và các cháu ra thăm nhà em. Em đã nói thật mọi chuyện để nhà em hiểu về đời
sống của mấy mẹ con em trong những năm qua.”
-“Lần này
chú Ba cũng chở cô và các cháu đi thăm?”
-“Vẫn một
tay anh ấy lo lắng, giúp đỡ mẹ con em.
Coi sóc và dậy dỗ các cháu như con của anh ấy. Khi gặp nhà em ở nhà thăm nuôi, em có nói vẫn
yêu thương, kính trọng chồng em. Anh là
một người chồng thật tốt.”
Cô lại bật
khóc. Tiếng khóc thật tan nát trước những
đổ vỡ của cuộc đời. Em hiểu hoàn cảnh của
cô, thông cảm nỗi khổ của cô. Em im lặng
giây lát rồi hỏi:
-“Thái độ
chú ấy thế nào?”
-“Nhà em
nét mặt thật buồn. Anh ôm các cháu vào
lòng, như dằn sự đau khổ mà ở hoàn cảnh
này anh đành bất lực. Em nói với nhà
em: Anh tha lỗi cho em. Em đã làm điều không phải. Không giữ đuợc lòng chung thủy. Không trọn đạo làm vợ. Em không dám xin anh một lời tha thứ, mà chỉ
xin anh thông cảm hoàn cảnh của em, hoàn cảnh tang thương của chúng mình. Chúng mình hãy hy sinh vì con. Em hứa nuôi dậy các con lên người, đúng như ý
của anh khi còn ở nhà. Nếu có điều kiện,
em sẽ cho con ra thăm anh. . . .”
Em có nói với
cô ấy:
-“Trong đời
sống chúng ta hiện tại, mỗi người mỗi trường hợp khác nhau. Chúng mình thì khốn khổ vì đời sống o
ép. Ðành rằng mình có tiếng được tự-do
nhưng cuộc sống không khác gì trong nhà tù.
Ðời sống riêng tư bị nhòm ngó từng giây phút. Còn những người đi “học tập cải tạo” khác nào
đang bị lưu đầy, dưới hình thức nông nô.
Họ đã mất tất cả, cả cuộc đời còn
lại của họ.”
-“Nghe chuyện
em kể thật mủi lòng. Vì sự sống, nhiều
khi người đàn bà phải chấp nhận cả những điều mình không muốn làm. Em thấy bên
Thanh-đa có gì lạ không. Ðã lâu chị
không qua bên đó?”
-“Có một điều
em thấy lạ là người ngoài Bắc vào đây rất nhiều. Có những căn nhà chứa hàng mấy chục người, đa
phần là thanh niên còn nhỏ tuổi. Hay đây
là một hình thức di dân chui. Dù vào
trong này bất hợp pháp theo như chính sách nhà nước, nhưng trước sau gì họ cũng
được chính quyền địa-phương hợp thức hóa hộ khẩu.”
-“Chị nghe
đồng bào ngoài Bắc muốn vào trong Nam sống, nếu không thuộc thành phần nhân
viên nhà nước chuyển vào vì nhu cầu, họ phải chi nhiều tiền cho cán bộ địa-phương
nơi cư ngụ. Trong đó phải kể cả thành phần
bất hảo cũng vào theo, vì thành phần này dư dả tiền bạc. Em có gặp những người quen trước không?”
-“Các căn
cư xá đổi chủ cũng nhiều. Có điều làm em
suy nghĩ, khi em gặp mấy người quen cũ, họ mừng rỡ nói: - “Tôi mừng cho bà, Trung-tá
đã được trở về xum họp với gia đình. Ông
nhà có mạnh không. Chính quyền địa-phương
ở đây đang khuyến khích những gia đình có thân nhân đi “cải tạo”, hãy theo
gương bà đi vùng kinh-tế mới, để mấy ông sớm được về xum họp với gia đình.”
- Em ngạc nhiên về chính sách nhà nước. Họ bảo nhà em đã được về, trong khi em không
biết nhà em đang ở đâu. Còn sống hay đã
chết.”
*
6.
(Google: Bến Bạch Đằng ngày 30-4-1975) |
-“Mẹ ơi! Nhà có khách.”
Thu vội bỏ
chiếc áo đang khâu khi nghe tiếng đứa con trai út. Nàng mừng rỡ thấy khách là bạn làm cùng sở với
chồng nàng. Nàng vồn vã:
-“Lâu không gặp, tôi tưởng anh chị đã ra nước
ngoài. Anh chị và các cháu vẫn thường chứ?”
-“Tôi cũng
nghĩ là anh chị đã ra đi. Ðời sống thay
đổi qúa đột ngột nên tôi ít qua lại với bạn cũ.
Mấy hôm trước tôi có đi thăm nhà tôi ở trại Thanh-cẩm Thanh-hóa, gặp anh
mới hay anh chị còn ở lại. Tôi có thư của
anh gửi cho chị.”
Thu bàng
hoàng khi hay tin chồng. Sự xúc động làm
nàng nghẹn lời, mắt nàng xầm tối, hình ảnh trước mắt như mờ ảo. Niềm vui đến với nàng thật bất chợt. Thu nhận thư chồng, mắt nàng rưng lệ. Nàng đợi tin chồng từ lâu, nhưng anh vẫn biệt
tăm. Mấy đứa con nàng xúm lại bên mẹ khi
nghe có tin về bố. Thu nhìn bạn hỏi:
-“Chị thấy
nhà tôi có khỏe không. Anh có nhắn gì
thêm không?”
-“Trông
anh cũng không đến nỗi nào, chỉ đen và gầy.
Khi tôi gặp, anh đang đào hố cá nhân với hai người bạn tù. Có cán bộ võ trang canh gác nên không nói được
nhiều. Anh chỉ kịp nói: Chị cho nhà tôi
hay tôi khỏe. Ngày mai tôi có thư gửi chị.”
Thu mủi
lòng khi nghe bạn nói. Những xót thương
xa vắng bao lâu chợt trở về. Nàng tội
nghiệp cho chồng. Anh đã đổi thay vì những
khổ ải của cuộc đời.
-“Chị về
lâu chưa, anh có khỏe không?”
-“Tôi mới về chiều hôm qua nên báo tin chị hay
ngay. Nhà tôi sức khỏe cũng khá, có lẽ
nhờ chút quà thăm nuôi của gia đình.”
-“Anh ra Bắc
đã bao lâu, chị đi thăm thường không?”
-“Sau ngày
30/4, nhà tôi đi trình diện theo lệnh gọi của nhà nước. Anh bị giam ở miền Nam một thời gian rồi mới
ra Bắc. Vì đường đi dài ngày, nhất là khả
năng tài chính không cho phép, nên lần này mới là lần thứ hai tôi đi thăm nhà
tôi. Còn chị có đi thăm anh thường
không?”
-“Ðã mấy
năm nay tôi không nhận được tin. Cám ơn
chị đã cho tôi hay tin nhà tôi. Mải nói
chuyện của tôi, còn chị và các cháu ra sao?”
-“Như tình
trạng chung, sau khi miền Nam bị chiếm đoạt, nhà tôi phải đi trình diện theo lệnh
của ủy ban Quân quản thành phố. Tôi đinh
ninh chỉ đi một tháng như thông cáo cho hay.”
-“Thời
gian đầu mọi người đều hiểu như thế. Hơn
nữa chúng ta nghĩ thời gian “học tập” một tháng chẳng là bao, đi học cho
xong. Nhưng không ngờ thực tế lại khác
những điều đã nói.”
-“Vâng, tôi
cũng tin như thế nên yên lòng chờ đợi.
Nhưng sau một tháng vẫn bặt tin nhà tôi.
Cùng một lúc, căn cư xá mua trả góp tôi ở đã hơn mười năm, bị cơ quan địa
phương tới trưng dụng. Với lý do căn nhà
tôi mua thuộc nhà nước quản lý. Chúng
tôi trở thành những người không nhà không cửa, mấy mẹ con tôi phải về dưới tỉnh
sống với bà ngoại các cháu.”
-“ Sau khi
anh đi trình diện chị biết anh ở đâu chứ?”
-“Tôi đâm
ra hoang mang vì không biết nhà tôi ở đâu mà tìm, không biết họ mang nhà tôi đi
đâu. Tôi hỏi những người bạn quen có chồng
đi trình diện cùng đợt với nhà tôi, cũng không ai biết gì hơn. Ðến gần một năm sau tôi mới hay nhà tôi bị
giam ở trại Tân-hiệp. Rồi lại bặt tin
nhà tôi một thời gian, cho đến khi nhận được thư mới biết anh đang ở trại
Thanh-cẩm thuộc tỉnh Thanh-hóa.”
-“Khi hay
tin chị có đi thăm anh ngay không?”
-“Vì tài
chính eo hẹp, muốn đi thăm cũng không thực hiện nổi, tôi chỉ gửi quà cho nhà
tôi mỗi tháng 3 ký qua bưu điện.”
-“Chị thấy
đời sống các anh ra sao?”
-“Có ra thăm mới thấy tội nghiệp. Thực phẩm chính nuôi tù là ngô khoai sắn. Những thứ do tù trồng mà vẫn không được ăn
no, cũng chỉ để giữ mạng sống lây lất qua ngày.
Vì vậy có gia đình tiếp tế vẫn hơn, nhất là thuốc men trong trại rất thiếu.”
-“Xin chị
cho biết cách thức đi thăm, vì tôi chưa biết gì về vùng ngoài ấy.”
-“Trước hết
chị lên quận công-an xin giấy phép đi đường.
Trong đơn chị ghi đi thăm nuôi chồng học tập cải tạo tại trại Thanh-cẩm
Thanh-hóa. Chị xin 15 ngày cho rộng thời
giờ.”
-“Xin giấy
phép đi đường có khó lắm không?”
-“Tôi nghĩ
quận sẽ cấp giấy dễ dàng, vì đây là thành phố.
Không giống dưới tỉnh như địa phương tôi ở, họ khó khăn đủ điều. Chị mua vé tầu Thống nhất tới ga
Thanh-hóa. Tới ga Thanh-hóa đã trễ,
không kịp vào trại. Chị ở trọ lại một
đêm. Sáng hôm sau phải dậy thật sớm, ra
bến xe mua vé đi Thanh-cẩm. Xe không chạy
qua trại mà sẽ ngừng tại trạm nhà máy xay nằm bên lộ.”
-“Ðường vào
trại có dễ đi không chị?”
-“Trạm nhà
máy xay còn cách trại gần chục cây số,
đường rừng đi lại rất khó. Chị phải thuê xe trâu chở quà. Người đánh xe trâu sẽ dẫn đường vào trại
Thanh-cẩm. Không có gì phức tạp, chỉ có
điểm cần lưu ý là trên tầu chị phải coi chừng đồ mang theo. Nhất là khi tầu ngừng ở các ga nhỏ, người lên
kẻ xuống chen lấn dễ bị mất trộm. Khi tới
ga Thanh-hóa, chị phải thuê người gánh tới nhà trọ. Khó có thể tin ai được. Chị phải nhanh chân theo kịp họ. Ðôi khi gặp người xấu họ gánh đồ đi mất.”
-“Ngoài nhà
tôi chị có gặp ai quen nữa không?”
-“Mải nói
chuyện tôi quên mất, tôi có gặp chồng Vân-anh.
Tôi đã chuyển thư cho Vân-anh.
Nghe Vân-anh nói có biết chị.”
-“Có phải
Vân-Anh ở Phan-đình-Phùng không?”
-“Vâng, như
vậy chị có quen?”
-“Chúng tôi
có học chung một thời gian. Tôi sẽ lại
thăm, nếu Vân-Anh đi cùng thì hay quá.”
-“Thế bao
giờ chị tính đi thăm anh?”
-“Tôi phải
sửa soạn quà cho nhà tôi và những thứ cần thiết cho các cháu ở nhà. Vài ngày nữa tôi mới đi được.”
-“Chị cho
tôi gửi lời thăm anh. Hôm vừa rồi có gặp
mặt mà không kịp hỏi thăm sức khỏe của anh.”
-“Rất cám
ơn chị. Tôi sẽ chuyển lời khi gặp nhà
tôi.”
Thu tiễn bạn
ra tận cửa và hẹn gặp lại.
*
7.
Trời
về chiều, nhưng nắng vẫn còn gay gắt.
Không có lấy một cơn gió nhẹ, nên hơi nóng của mùa hè vẫn hừng hực, khó
chịu.
Thu đạp xe
qua cầu Công-lý, con đường đã mang tên mới.
Mà trớ trêu, theo mọi người ở thành phố này nói, “Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu
Công-lý, Ðồng khởi vùng lên diệt Tự-do.”
(Chùa Vĩnh Nghiêm đường Công Lý) |
Thu rẽ vào
đường Ðoàn-thị-Ðiểm, cả một quãng đường rợp bóng mát. Phía trước mặt là trường nữ trung-học
Gia-long, đã đổi tên thành Nguyễn-thị-minh-Khai. Một nhân vật chưa có một chút công lao với
văn học. Ðã đi theo “cách mạng” và qua đời
khi còn rất trẻ. Tháng này Sài-gon đang
vào hè. Sức nóng làm mầu phượng càng
thêm đỏ thắm. Mái trường rợp bóng phượng. Khuôn viên yên lặng, chỉ có tiếng ve trên
cây.
Những tà áo
xanh da trời không còn nữa. Người ta muốn
học sinh phải đồng phục, thật đơn giản.
Phải xóa hết dấu vết của cuộc sống “phồn vinh giả tạo” trước kia. Chỉ cần quần đen áo ngắn, mà không phải là
chiếc áo dài duyên dáng ngày xưa.
Thu chợt cười
thầm khi nhớ tới thời gian còn học trung học.
Cũng vào thời gian này, khi niên học ở vào những tuần cuối cùng, nhiều
món ăn đã được mang vào lớp. Những túi vỏ
trái cây, gói muối ớt, . . . còn dư được lưu lại dưới ngăn bàn. Và đến ngày thi hết cấp, nàng đã gặp những thứ
dư thừa dưới ngăn. Thời học trò thật nghịch,
nhưng lưu lại nhiều kỷ niệm tuổi xanh. Mọi
thứ đã qua đi thật nhanh, nàng cảm thấy như mất mát một thứ gì thật quý báu
trong đời.
Thu dọc
theo đường Phan-đình-Phùng hướng về nhà bạn.
Lâu không gặp, nàng tưởng gia đình bạn đã đi xa. Nghĩ tới bạn, Thu nhớ hai người đã học chung
khi lên đại học. Vân-Anh được liệt vào
danh sách những người đẹp của trường.
Sau khi xong đại học, Vân-Anh đi dạy rồi lập gia đình, có người chồng thật
tốt. Hai người mua căn nhà cuối đường
Phan-đình-Phùng. Năm sau có đứa con trai
đầu lòng và năm kế có thêm con gái.
Thu nhớ đến
kỷ-niệm của hai người. Nàng cũng như bạn,
có một thời niên thiếu thật đẹp. Ðến khi
lập gia đình đã có chồng lo lắng. Nàng
trọn đạo làm vợ và làm mẹ. Có năm con mà
nàng vẫn thư thả trong cuộc sống.
Ngày 30
tháng 4 xẩy đến. Chồng bị bắt đi “cải tạo”. Cuộc sống của nàng hoàn toàn thay đổi. Nàng phải vất vả kiếm sống để nuôi năm đứa
con dại, hình ảnh tương lai thật đen tối.
Thu đã dẹp bỏ quá khứ hoa gấm, bước chân vào đời sống của một xã hội
khác lạ, chưa hề biết đến trước đây.
Nàng phải buôn bán vất vả ngược xuôi từ sáng đến tối, bỏ đàn con nhỏ ở
nhà.
Thu cảm thấy
xót xa lo sợ cho tương lai các con.
Chúng lớn lên trong khung cảnh được hướng dẫn chỉ biết hận thù. Một chế độ đã hủy diệt nền tảng đạo đức và
tình yêu thương gia đình. Nàng thở dài nắm
chặt tay lái, như một hành động làm vơi đi niền ưu tư trong lòng. Thu cảm thấy bàn tay mình khô nhám, chai cứng. Kỷ niệm của những ngày đi buôn hàng chuyến từ
Gò dầu đến Mỹ-tho, từ Long-an ngược về Long-khánh. Nàng đã trải qua nhiều nghề, qua nhiều thử
thách của đời dù chỉ trong một thời gian thật ngắn. Nàng không mong gì hơn là có một cuộc sống an
lành, dù phải cực nhọc, nhưng tạm đủ nhu cầu cần thiết cho các con.
Tới cuối đường
Phan-đình-Phùng, Thu theo con đuờng nhỏ bên phải, lối rẽ vào nhà Vân-Anh. Nàng bấm chuông đứng đợi. Trong nhà vẫn yên lặng. Thu chợt nhớ, hôm nay có thể là ngày cúp điện. Cánh cửa cổng chỉ khép hờ. Nàng đẩy cửa bước vào sân. Vân-Anh xuất hiện nơi cửa phòng khách. Dáng người bạn vẫn vậy. Nét mặt hơi già đi, nhưng tính vẫn vui vẻ như
hồi còn đi học. Vân-anh chạy ra đón, cầm
tay nàng kéo vào nhà, nói lớn:
-“Mẹ ơi! Có
Thu tới chơi.” Quay qua Thu, Vân-Anh tiếp:
“chà lâu quá không gặp, tôi tưởng gia đình bạn đã đi Mỹ. Má tôi nhắc tới bạn luôn.”
Hai đứa con
của Vân-Anh đã lớn. Thấy khách lạ chúng
lại đứng bên mẹ. Vân-Anh ôm hai con nói:
-“Bác Thu bạn
của mẹ, hai con ra chào bác đi.”
Thu xoa đầu
con bạn, khen chúng ngoan. Nàng đáp lời
bạn:
-“Mình luôn
nhớ tới bác, vợ chồng bạn và các cháu.
Sau ngày lộn xộn, không biết ai ở ai đi, ai còn ai mất. Cuộc sống mới quá thúc bách nên không tới
thăm bác và gia đình bạn. Vân-Anh dạo
này có gì lạ không?”
-“Mẹ mình
không được khỏe. Mình có hai cháu, còn
ông xã đi “cải tạo” tại trại Thanh-cẩm Thanh-hóa.”
Tiếng dép từ
trong nhà bước tới gần phòng khách. Thu
tới đón mẹ bạn. Bà dang hai tay ôm nàng
như mừng đứa con lâu ngày gặp lại. Bà
già đi nhiều. Mái tóc bạc qúa
nhanh. Da mặt xếp nếp nhiều hơn. Nàng đỡ bà ngồi xuống ghế, cầm tay bà Thu
nói:
-“Con thấy
bác không khác lúc trước bao nhiêu.”
Bà chậm rãi
trả lời:
-“Bác thấy
yếu đi nhiều, chân tay như đi mượn. Như
không còn là của mình nữa.”
-“Bác ăn ngủ
như thường chứ?”
-“Nhiều lúc
ăn cho có, còn giấc ngủ chập chờn, nửa mê nửa tỉnh. Còn chồng con dạo này ra sao, anh ấy có khỏe
không, đã lâu bác chưa gặp.”
-“Nhà con
đi “cải tạo” cùng trại với chồng Vân-Anh.
Con lại hỏi nếu Vân-Anh cùng đi thăm thì tốt quá.”
Bà buông tiếng
thở dài, đứng dậy vào trong nhà. Thu đưa
bà vào giường, nàng nói:
-“Bác nằm
nghỉ, con ở lại với Vân-Anh một lát. Lần
sau con tới hầu chuyện bác lâu hơn.”
-“Bác gửi lời
thăm chồng con nhé. Khi về nhớ lại cho
bác hay.”
Còn lại hai
người, Vân-Anh hỏi bạn:
-“Tôi tưởng
gia đình bạn đi rồi?”
-“Gia đình
mình lúc đó rối bời. Nhà tôi phải trực ở
sở 24/24, thỉnh thoảng ghé về thăm nhà rồi đi luôn. Một nách năm cháu nhỏ, bố mẹ chồng cũng như mẹ
mình già yếu, nên cũng khó đi xa.”
-“Sau ngày
30 tháng 4, gia đình bạn sống ra sao?”
-“Mình
không được đi dậy nên trong thời gian đầu phải bán dần đồ dùng trong nhà để sống
qua ngày. Sau đó mình buôn đi bán lại,
tiền lời kiếm được cũng tạm đủ cho các cháu.
Nhưng vì hoàn cảnh xã-hội, số người đi buôn ngày càng nhiều, đời sống trở nên khó khăn
hơn. Việc buôn bán chợ trời dù dễ dàng
nhưng lại quá phức tạp. Những người đàn
bà đơn lẻ khó tránh được những lời tán tỉnh, cử chỉ xuồng xã của các con buôn
trong khi giao tiếp.”
-“Tôi nghĩ
bạn có thể tìm được một việc làm nhẹ nhàng hơn, vì có khả năng.”
-“Thâm tâm
tôi cũng chỉ mong kiếm được việc làm hợp với sức khỏe của mình, cũng không đòi
hỏi công việc hợp với khả năng kiến thức.
Mình gặp trở ngại là không đáp ứng được đòi hỏi của cán bộ sở quan.”
-“Mình thông cảm với Thu, nhiều khi mình có cảm
tưởng là chúng mình khó thoát được những cạm bẫy. Mà đôi lúc nhu cầu sự sống như luôn xô đẩy
chúng mình vào.”
-“Khi mình
tới xin việc làm văn phòng, tên cán bộ duyệt xét hồ sơ lý lịch hạch hỏi đủ thứ,
bắt mình đi lại nhiều lần. Hắn bảo mình
có khả năng học vấn, đảm trách được công việc hắn giao. Nhưng hắn phải đứng ra
bảo đảm vì mình ở diện có chồng đi “cải tạo”.
Nếu mình muốn có việc làm thì phải theo ý của hắn. Vì vậy mình bỏ ý định
xin việc làm văn phòng ”
-“Mình
không hiểu tại sao đạo đức của đám người này mỗi ngày một đi xuống. Hay vì là kẻ chiến thắng, có bạo lực trong
tay nên hành động của họ trở thành tệ hại.
Mình có cảm nghĩ họ coi thường luật pháp, như được nhà nước khuyến
khích. Bao lâu rồi bạn chưa gặp anh ấy?”
-“Sau khi
nhà tôi bị bắt, tôi đã lên Phường, Khóm và Quận công an hỏi, nhưng họ đều trả lời
không biết nhà tôi đang ở đâu. Mãi hơn một
năm sau tôi mới nhận được tin nhà tôi ở trại Gia-rai Long-Khánh do một người đi
thăm nuôi cho hay.”
-“Bạn có đi
thăm anh ấy chứ?”
-“Sáu mẹ
con tôi có đi thăm. Khi đó cháu lớn mới
lên chín, còn cháu bé vừa tròn bốn tuổi.”
Thu nhớ,
khi nhận được tin chồng nàng vui mừng vô cùng.
Anh bặt tin đã lâu, những tưởng không còn cơ hội gặp mặt. Sáu mẹ con nàng ra ga xe lửa đi chuyến tầu sớm
nhất, để kịp giờ thăm nuôi. Khi tới ga
Gia-rai nàng mới biết ở đây có hai trại, trại trong cách trại ngoài cả cây số. Nàng chỉ nhớ trong thư anh có ghi đồi Phưiợng-vĩ. Hỏi thăm mới biết đó là trại ngoài, đối diện
với ga xe lửa, cách một khoảng đất trống vài trăm thước.
Mấy mẹ con
nàng tới nhà thăm nuôi đã đông nghẹt người.
Nàng đứng cửa đợi chồng. Anh và một
số bạn tù đã ra khỏi cổng rào, đang tiến về phía nhà thăm nuôi. Gặp nhau mừng tủi. Thu thấy chồng già đi nhiều, tóc thêm nhiều sợi
bạc, má có nhiều vết nhăn hơn trước. Vẻ
mặt mệt mỏi, xạm đen đi vì nắng.
Các con
nàng vây quanh bố. Nhìn cảnh cha con ôm
nhau mà xót xa trong lòng, liệu giây phút yêu thương này kéo dài đuợc bao lâu,
có còn lần sau nữa không. Hay anh lại mất
hút, biệt tăm như hạt cát lắng chìm trong biển lặng.
Thu xót
thương nắm chặt tay chồng. Vì chính lòng
nàng lúc này đang cần tình yêu thương ấp ủ, hầu vơi đi những xót xa đang trỗi dậy
trong lòng. Mà chút nữa đây tình yêu
thương sẽ vuột khỏi tay, đẩy nàng trở lại cuộc sống trống trải, thiếu vắng như
thời gian vừa qua.
Hai bàn tay
anh chai nhám, nứt nẻ. Vòng xẹo còn in dấu
nơi cổ tay, mà vết thương vừa lành còn để lại một mầu đỏ au. Thu xửng xốt, nàng lần tìm trên lưng chồng rồi
hai cánh tay khẳng khiu của anh. Liệu
còn thương tích nào không, hay lần áo mỏng sờn vai đã che dấu những đau thương,
khổ ải mà anh gánh chịu trong thời gian xa nhà.
Thu không cầm
được nước mắt. Anh cho hay mới chuyển về
đây được ít tuần. Muốn nhắn tin cho nàng
mà không có điều kiện.
Hai mươi
phút gặp mặt ngắn ngủi qua đi thật nhanh.
Anh hôn các con, một tay anh vòng qua vai nàng. Thu nghe rõ từng hơi thở, vị mặn đang lăn dài
trên má anh. Trái tim nàng vò thắt khi
anh nới lỏng vòng tay. Anh trở ra ngoài
xếp hàng, vừa đi vừa ngoảnh lại nhìn.
Ngoài kia
anh đang chuyển bước. Các con nàng ngơ
ngác nhìn theo. Ðứa con nhỏ chợt vuột khỏi
tay nàng chạy theo khóc đòi bố. Anh đã
đi qua khung cổng gỗ rào kẽm gai, để đứa con nhỏ đứng bơ vơ giữa lối vào. Các con nàng òa khóc. Nhìn chúng, nàng càng thương xót chúng nhiều
hơn. Chúng còn nhỏ dại, chưa biết những
gì sẽ xẩy ra cho đời sống tình cảm của chúng cũng như của chính nàng. Tiếng khóc của các con làm nàng bừng tỉnh, ra
khỏi vực thẳm thê lương. Thu hiểu là vừa
mất đi nguồn yêu thương hạnh-phúc của mình.
Nàng không
còn thấy bóng dáng anh. Qua khung cửa cổng,
những dẫy nhà lợp tôn im lìm như say ngủ dưới nắng hè. . . .
Vân-Anh lên
tiếng:
-“Nghe nói
trại Gia-rai mỗi tháng cho thăm một lần, bạn vẫn gặp anh ấy chứ?”
-“Một tháng
sau ngày thăm lần đầu, tôi và các cháu lại đi thăm nhà tôi như đã hẹn. Nhưng khi đến nơi, cán bộ trại cho hay anh đã
chuyển đi nơi khác. Họ cũng không cho biết
chuyển nhà tôi đi đâu. Tôi trở về lòng
hoang mang vô cùng, không hiểu số phận nhà tôi ra sao. Tôi không biết phải tìm kiếm nơi nào, nên chỉ
còn chờ đợi .”
-“Mình cũng
nhiều lần đặt câu hỏi, tại sao họ phải che dấu khi có bạo lực trong tay. Họ đã có những hành động tàn bạo, bất kể dư
luận bên ngoài như từng xẩy ra trước đây.
Như vậy bao lâu sau bạn mới nhận được tin?”
-“Khoảng nửa
năm sau mới nhận được tin nhà tôi. Cơ
quan địa phương có hướng dẫn cách thức và chỉ định ngày gửi quà tại trại giam
Chí-hòa đường Lê-văn-Duyệt. Tôi rất mừng,
nhà tôi bị giam ở đây dù cực khổ nhưng lại gần nhà, sẽ có cơ hội gặp mặt. Tôi sửa soạn các thứ cho nhà tôi, kể cả món
ăn hàng ngày mà nhà tôi thích nhất. Cũng
như tôi, có rất đông gia đình tới gửi quà, nên trước cửa trại Chí-hòa đông nghẹt
người.”
-“Sau đó
Thu có được gửi quà hay gặp mặt anh ấy không?”
-“Tôi tưởng
hàng tháng, dù chưa được gặp mặt thì cũng cho gửi quà như thông lệ của trại
Chí-hòa. Nhưng khi tới nơi họ cho hay nhà
tôi không có tên ở trại này, họ cũng không cho biết anh hiện ở đâu.”
-“Bạn lại mất
liên lạc với anh ấy một lần nữa?”
-“Lòng tôi
thực hoang mang, không hiểu số phận nhà tôi ra sao. Có điều gì bất thường mà lúc có khi không.”
-“Như thế bạn
đã không nhận được tin anh từ ngày đó đến bây giờ?”
-“Gần ba
năm trước đây tôi có nhận được thư nhà tôi, mới hay anh đã chuyển lên trại Quyết-tiến
thuộc tỉnh Hà-giang. Tôi chưa nghe thấy
tên trại này bao giờ, nhưng địa danh Hà-giang làm tôi lo sợ. Một tỉnh giáp biên giới Hoa-Việt, mà chuyện kể
từ hồi xa xưa đã có nhiều huyền thoại kinh hoàng.”
-“Ðây là lần
đầu tôi nghe bạn nói tới tên trại này.
Miền Bắc có nhiều trại “cải tạo” rải rác trong rừng sâu, núi cao mình
không biết đâu mà lần. Thu có liên lạc với
anh ấy sau khi nhận được thư không?”
-“Mình viết
nhiều thư nhưng vẫn bặt tin. Hỏi thăm họ
hàng từ miền Bắc vào chỉ biết đó là trại kỷ-luật số 1 của Bộ Công an Hà-nội. Mình lo lắng vô cùng, không hiểu tại sao chồng
mình phải chuyển lên trại này. Mình muốn
đi thăm nhưng không biết trại ở nơi nào, đường đi nước bước ra sao. Mình vẫn thăm hỏi nhưng chẳng một ai biết rõ
hơn, mãi mấy tháng sau khi gặp người em
họ ở quê vào mới rõ ngọn nguồn. Cậu em
mình nói:
“Nếu chị đi
thăm anh thì rất vất vả, vì ngoài Bắc phương tiện chuyên chở hạn chế.
Nhất là đường lên các tỉnh miền thượng du. Từ
Hà-nội chị đi theo ngả Sơn-tây đường lên tỉnh Tuyên-quang. Xe chở khách ngừng tại đây. Chị xuống bến xe Tuyên-quang mua vé đi
Hà-giang. Nhưng gặp trở ngại là chị tới
bến xe Tuyên-quang vào buổi chiều, khó có xe đi Hà-giang ngay. Quãng đường Tuyên-quang – Hà-giang mặc dầu chỉ
gần 200 cây số, nhưng vì đường xấu xe lại cũ nên xe chạy cả ngày mới tới. Khi tới Hà-giang đã trễ, xe lại không chạy thẳng
lên trại Quyết-tiến. Chị phải đợi tới
ngày hôm sau, mua vé xe đi huyện Quản-bạ, một huyện chỉ cách biên giới Hoa-Việt
một dẫy núi cao, khoảng 10 cây số đường chim bay về phía Tây-Bắc. Từ tỉnh Hà-giang lên trại Quyết-tiến chỉ có
36 cây số, nhưng vì đường lên dốc cao nên xe chạy cũng chậm. Trại chỉ còn cách huyện Quản-bạ 10 cây số nữa. Theo địa dư huyện Quản-bạ nằm sát biên giới
hơi chếch về hướng Tây-Bắc, nhưng theo trục lộ di chuyển, Ðồng-văn nằm trên đỉnh
cao nhất về phía chính Bắc.”
“Thực ra ít
người miền xuôi lên vùng này, ngoại trừ con buôn mua bán vận chuyển hàng hóa từ
biên giới về Hà-giang và ngược lại. Chị
xuống xe tại ngã ba đường lên trại. Từ
ngã ba này không có xe lên trại, chị phải đi bộ theo đường núi dốc ngược. Em không biết phải đi bộ bao lâu. Em nghĩ chị khó mà làm nổi, vì đi tay không
đã khó khăn huống chị còn mang vác nặng nề, chưa kể nguy hiểm cướp bóc dọc đường.”
“Trại được coi như một trại trừng giới. Nơi tập trung thành phần “đầu gấu” của các trại
khác trên miền Bắc chuyển tới, có án nặng tới chung thân khổ sai. Nói là có án, nhưng thực ra những người lên tới
đây khó có hy vọng trở về. . . .”
Sau khi kể
cho bạn nghe về quãng đời vừa qua của mình, Thu hỏi bạn:
-“Vân-Anh
tính bao giờ đi thăm. Nếu mình cùng đi
cho có bạn thì hay biết mấy?”
-“Mình cũng
định ít bữa nữa đi thăm. Thu xin giấy đi
đường trước, còn ngày đi chúng mình sẽ định sau. Chúng ta cần thời gian mua vé tầu và sửa soạn
mua quà.”
-“Nhu cầu của
các anh ấy hẳn là nhiều thứ, theo bạn thứ nào cần thiết nhất?”
-“Cái đó
tùy hoàn cảnh chúng mình. Nhưng thứ mà
chúng ta không thể quên vẫn là thuốc đa sinh tố. Vì thực phẩm trong trại không đủ dinh dưỡng,
lao động quá cực nhọc, trong khi thời tiết khác nghiệt nên dễ sinh bệnh tật, ốm
đau. Chúng ta xin giấy đi đường trước,
sau đó tôi với bạn đi mua vé tầu.”
Thu đồng ý
với dự tính của Vân-Anh. Nàng từ giã bạn.
*
8.
Thu
đuợc chính quyền địa phương cấp giấy phép đi thăm chồng trong vòng hai tuần lễ
cả đi lẫn về. Nàng nhẩm tính lượt đi mất
ba ngày tầu chạy, tới trại đợi một ngày để được gặp mặt. Lượt về cũng mất ba
ngày nữa là chẵn một tuần. Vé tầu đã mua
khứ hồi. Nàng còn bốn ngày để sửa soạn
quà cho chồng.
Thu không
biết mình phải mang những thứ gì cho đúng với nhu cầu của anh. Thư nhắn về anh không nói muốn nàng ra thăm, cũng không cho nàng hay anh cần những
thứ gì.
Nàng
đành theo hướng dẫn của chị Tâm. Ít ra
chị cũng có kinh nghiệm, vì đã đi thăm chồng mấy lần.
Trước đây
nàng đã nghe kể về nhu cầu của người “cải tạo” ở các trại miền Nam. Thư nào cũng kê khai những món ăn cần thiết
nhất, chứng tỏ đời sống vật chất của tù nhân rất thiếu thốn. Quanh năm không có lấy một bữa ăn gọi là ngon
miệng no lòng. Người “cải tạo” đã có một
câu nói “no nhất thời, đói muôn thuở”. Ðời
sống nay đây mai đó, sống nay chết mai, khiến tù nhân có ý nghĩ “cái gì có thể
ăn được ngày hôm nay, thì không nên để tới ngày mai.”
(Ga Bình Triệu Gia Định – Saigon) |
Thu viết ra
một danh sách những thứ sẽ mang ra cho chồng.
Bắt đầu từ thuốc men, đồ dùng vệ sinh cá nhân đến quần áo thức ăn. Nàng suy tính, lâu lắm mới đi thăm một lần,
đường đi lại quá xa, không thể lúc nào muốn đi là đi được, nên mang cho bõ
công. Cũng may chồng nàng không có bệnh
gì trước khi đi bị bắt đi “cải tạo”.
Nàng xếp mấy
thứ thuốc theo thứ tự như ghi trong giấy để dễ kiểm lại. Một lọ dầu cù là, một lọ dầu hiệu con hổ mà
anh vẫn thường dùng. Về quần áo, trại cấp
một năm một lần. Tiêu chuẩn một năm hai
bộ bà ba mầu xanh vải Nam-định, nhưng thực tế chỉ phát một bộ. Thành thử sau mấy tháng lao động nặng, bộ quần
áo đã rách vá đủ mầu. Còn đồ dùng vệ
sinh cá nhân đến quần áo lót có dự trù trong chính sách, nhưng từ hồi vào trại
anh chưa được phát một lần.
Thu mua một
bộ đồ trận xanh lá cây, thứ quân phục của quân đội Việt Nam Cộng hòa, vừa ấm lại
bền. Nghe nói vì quần áo trại phát không
đủ, nên anh em cải tạo thường mang quần áo cũ ra dùng. Do đó, nhà nước muốn tù nhân mặc đồng phục để
dễ kiểm soát, nhưng vì hoàn cảnh xã-hội, quần áo tù đã trở nên khác nhau.
Tại miền
Nam, khí hậu ấm áp mặc thế nào cũng được.
Nhưng miền Bắc giá lạnh, nhất là vào những ngày mùa đông, nhiệt độ có
khi xuống gần O độ C, làm sao anh có thể chịu được khi không có lấy một manh áo
ấm. Mà bụng đói thì cật rét. Nàng mua thêm chiếc áo len dài tay thật dầy,
anh vẫn thích mầu xám tro. Một áo len ngắn
tay để anh mặc bên trong khi lao động.
Thu sợ nhất anh bị ho khi mặc không đủ ấm như nhiều người mắc phải.
Thu mua vài
thước vải may mấy chiếc quần đùi cho anh thay đổi. Nàng gấp gọn chiếc khăn tắm kẻ ô vuông và buộc
chặt đôi dép làm bằng vỏ xe hơi. Thu nhớ
khi đi thăm anh ở trại Gia-rai
Long-khánh cũng có những thứ này, chắc bây giờ đã vứt bỏ vì hư cũ. Năm năm rồi còn gì. Nàng kiểm xong những gói bột, từng thứ có ghi
tên phía ngoài. Từ bột đậu xanh có trộn
đường cát trắng đến bột đậu nành. Một
gói mè rang cán nhuyễn có trộn muối.
Nàng mang thêm ít gia vị. Không
hiểu trại đã cho tù nhân xử dụng hay vẫn còn cấm đoán như trước, vì sợ tù nhân
dùng khi trốn trại. Một ít khô cá thiều. Nàng cẩn thận gói lại cây đường Thốt-nốt còn
nguyên trong lá bọc ngoài. Anh vẫn thích
thứ đường này, vì vị ngọt dịu và thơm mát của nó.
Theo thư của
thân nhân bà bán hàng đầu đường viết về có cả mắm cá Linh, mắm cá Lóc, mắm Ruốc
xào xả ớt. Nhũng thứ này anh đâu có ăn
khi còn ở nhà. Theo chị Tâm cho hay thức
ăn mặn chỉ cần mắm ruốc xào xả ớt là đủ.
Vừa dễ ăn mà khi cần có thể dùng để nêm canh cũng ngon. Ðiều cần nhất phải thật cay và có nhiều xả. Thu mua năm ký mắm ruốc bà giáo Thảo, thứ
chính gốc tại Vũng-tầu. Ruốc đã làm sạch,
không trộn lẫn với mảnh sò mảnh hến hay rong rêu, mầu ruốc đỏ au như còn tươi
nguyên. Nàng thái thịt ba chỉ vừa mỏng,
một ký ớt hiểm còn nguyên trái và hai ký xả băm nhỏ. Nàng mang chảo xào ở bếp sau nhà mất cả giờ mới
xong. Lúc mới xào mùi mắm thật nồng,
nhưng khi chín vị mắm rất thơm ngon, mầu mắm trở thành nâu tía. Một muỗng mắm phải có tới bốn năm trái ớt hiểm.
Thu đựng
tóp mỡ ngào đường vào hai lon nhôm, thứ lon đựng sữa bột guigoz. Món tóp mỡ thật lạ. Trước kia nàng ít ăn tóp mỡ sau khi chiên mỡ
lấy nước, tóp mỡ thường bỏ đi. Ở miền
Nam, tóp mỡ thường đóng thành từng bánh để làm chất bón cây. Bây giờ vào lúc đổi đời, nó được dùng làm chất
bổ dưỡng cho con người. Chắc các anh cải
tạo nghĩ là giá nó rẻ, không quá đáng vói số tiền bỏ ra. Nhất là nó còn nhiều chất béo, vẫn có ích lợi
đối với cơ thể khô cằn của người “tù cải
tạo”.
Ðến món muối
xả, nàng đã tốn công cả chiều nay. Phải
lựa củ thật ngon, bóc bớt phần vỏ cứng phía ngoài, thái mỏng, giã nhỏ trước khi rang. Một ký muối trắng trộn lẫn với hai ký xả. Dù chẳng ngon lành gì nhưng cũng đỡ hơn ăn muối
hạt. Thu nghe chuyện kể, có anh cải tạo
sau khi ăn hết phần thịt gà vào lần gia đình tới thăm nuôi, anh giữ lại mớ
xương gà đem rang dòn, giã nhỏ rồi trộn với muối làm thức ăn cho những ngày sau
đó. Vì trong xương gà có chất vôi, có vị
thơm bùi, vẫn cần cho cơ thể và giúp khẩu vị được thay đổi.
Thu có gạch
dưới hàng chữ thuốc điếu. Trước đây anh
thường hút thuốc hiệu Pall Mall, vì hương thơm có trộn thêm vị đậm đà của mật
ngọt. Bây giờ thị trường chợ đen có bán
nhưng giá quá đắt. Hơn năm năm rồi anh
không được thưởng thức, dù có đắt nàng cũng cố mua cho anh một gói để anh nhớ lại
hương vị ngày xưa. Căn bản vẫn là thuốc
lào hiệu ba số 8, nhưng phải là thứ thuốc lào đặc biệt, chỉ bán tại hiệu gần tiệm
phở 79 trên đường Nguyễn Trãi.
Nàng kiểm lại
lần chót xem còn thiếu món nào so với danh sách đã ghi. Từng món nàng bọc hai lần bao nhựa để tránh
bao vỡ khi di chuyển, hay không thấm nước khi gặp mưa hoặc nước ngập sàn xe trâu
khi qua suối gần trại. Nàng chưa buộc chặt
miệng túi khi cho quà vào hai bao sợi nhựa lớn, vì có thể còn vài thứ muốn mang
thêm.
*
9.
(Miền Nam: Tháng 4-1975) |
Trời
về khuya, bầu trời giăng đầy những vì sao nhỏ.
Ánh trăng lọt qua khung cửa sổ, in bóng trong căn phòng vắng. Sài-gon về đêm thật yên lặng. Gió đêm vờn mát làn da, như không còn vương một
chút hơi nóng của ngày hè oi bức.
Thu cố giỗ
giấc ngủ nhưng vẫn khó chợp mắt, cô đơn chợt đến lay động nhớ thương trong lòng
nàng. Thu đã trải qua nhiều đêm như đêm
nay, trong căn phòng đong đầy kỷ niệm yêu thương mà phút chốc vụt biến, tan vỡ. Ðã ghi đậm trong lòng nàng những tiếc thương
khắc khoải.
Cuộc chiến
huynh đệ tương tàn đã ảnh hưởng sâu đậm tới tuổi trẻ thơ ngây của nàng. Và bây giờ, khi đất nước mang danh “độc-lập
thống-nhất” lại chia rẽ tình yêu thương xum họp gia đình. Nàng chỉ là người đàn bà bình thường, với ước
vọng thật bình thường, mong có một đời sống
gia đình hạnh-phúc.
Thu sang
phòng bên, các con nàng đang say ngủ.
Qua ánh đèn mờ, từng nét mặt vô tư say sưa trong giấc ngủ êm đềm. Nàng thương các con vô cùng. Ở vào tuổi thơ ngây, chúng đã chịu nhiều thiệt
thòi vì cảnh quốc biến gia vong. Nàng cố
gắng trông nom săn sóc chúng, mang tình yêu thương của mẹ bù đắp tình cha mà
chúng thiếu vắng đã lâu. Và hiện tại,
chúng là nguồn an ủi, là hạnh-phúc yêu thương của chính cuộc đời nàng. Nhờ các con mà nàng vơi được nỗi cô đơn trống
vắng luôn ám ảnh. Chúng như cầm giữ, níu
kéo, giúp nàng tránh được những giây phút nông nổi mà đôi lúc tưởng chừng sẽ bị
cám dỗ, lôi cuốn trong cơn lốc của cuộc đời.
Thu cố gắng
phấn đấu, vượt qua những khó khăn trong một đời sống biến đổi quá nhanh. Nàng uất nghẹn chịu đựng những tủi nhục, bị
chèn ép dè bỉu vì là vợ con “Ngụy”. Nàng
lo ngại khi thấy các con lớn lên trong khung cảnh xã hội này. Liệu chúng có cơ hội vươn lên như một sự sống
bình thường, hay sẽ bị thành kiến của chế độ mới đầy ải mà ngụp lặn trong hận
thù truyền kiếp.
Thu nhớ đến
chồng. Lòng nàng mừng rỡ khi nhận thư
anh từ tay bạn. Không hiểu bây giờ anh
ra sao. Niềm vui đến với nàng bất chợt,
biết được trọn vẹn hay cũng mong manh như những năm qua. Anh lúc hiện khi ẩn, không khác nào hạt cát
chìm lắng xuống đáy biển khơi, như ánh băng mất hút ở cuối chân trời. Nàng những tưởng không còn cơ hội gặp lại người
chồng yêu thương.
Tiếng gà
gáy kéo Thu ra khỏi suy tư. Qua khung cửa
sổ trời vừa hừng sáng, lác đác những vì sao muộn. Sau một đêm thao thức, dường như nàng chưa chợp
mắt chút nào. Những kỷ niệm thoáng hiện
trong trí nhớ nàng thật rõ nét, như một chuỗi hình ảnh riêng biệt. Mặc dầu đến chiều tầu mới khởi hành, nhưng
nàng muốn có nhiều thời gian thu xếp cho
một chuyến đi xa. Thu nghĩ tới các
con. Từ ngày chồng vắng nhà, nàng chưa
bao giờ rời xa các con lâu như lần này.
Chúng còn nhỏ quá để có thể tự lo lấy mọi việc. Nghĩ tới chúng lòng nàng không khỏi bồn chồn. Liệu có gì xẩy ra khi nàng xa nhà không. Mặc dầu các con nàng có ông bà và các cô ở
nhà trông nom, nhưng lòng nàng vẫn thoáng một chút lo âu.
Quà mang
cho chồng gói gọn trong hai bao nhựa dệt.
Thu buộc bao rồi lại cởi giây nhiều lần, bỏ thêm vài thứ mà nàng nghĩ là
chồng sẽ cần tới. Nàng đọc kỹ tấm giấy
liệt kê các món mang theo. Nàng nhấc thử
từng bao quà để ước lượng sức nặng và khả năng mang vác của mình. Bao quà khá nặng, hai tay mới nhấc nổi một
bao.
Ðồ dùng của
nàng mang theo đựng trong một xách tay nhỏ.
Thu muốn mang thức ăn khô làm sẵn cho mình trong mấy ngày tầu, ít nhất cũng
tiết kiệm được phần nào để không tiêu tới số tiền mang theo. Nàng còn cần mua vài thứ khi tới nơi. Thu muốn nấu vài món ăn nóng mà anh vẫn thích
khi còn ở nhà. Ðã lâu anh chưa được ăn món ca- ri với xôi lạp-xưởng. Nàng mua thứ bột cà-ri chính gốc Ấn-độ nổi tiếng ở đường Hồ-văn-Ngà, gần rạp Kim-châu.
Thu cất giấy
tờ đi đường và tiền mang theo vào túi áo trong.
Sở dĩ nàng cẩn thận vì nghe chị Tâm nói, chuyện móc túi thường xẩy ra
trên tầu, nhất là về ban đêm khi mọi người đang say ngủ. Nàng xem lại thư chồng gửi về có ghi tên đội
lao động, anh ở đội xây dựng, một công việc mà anh chưa biết đến trước
đây. Nàng để trong một bao nhựa thư bốn
đứa con nhỏ viết thăm bố chúng với hình và thư đứa con lớn viết về khi tới đất
Thái-Lan. Nàng mang thêm tấm hình mấy mẹ
con chụp hôm Tết vừa rồi ở chùa Vĩnh-nghiêm, cho anh thấy mặt các con vì lâu
ngày chưa gặp. Ðể anh xem chúng lớn đến
mức nào, nhất là cu út, ai cũng nói nó giống bố như khuôn đúc.
Thu xuống bếp
sửa soạn bữa ăn sáng cho các con và làm thêm vài món ăn trong ngày. Chiều nay phải ra ga sớm, nàng không thể lo
cho các con bữa ăn chiều như mọi khi.
Thu xem lại mấy món ăn làm sẵn cho các con dùng khi nàng vắng nhà. Hai hộp ruốc thịt chà bông, một hũ mắm ruốc
xào thịt, một nồi thịt heo kho nhừ, một nồi tôm kho khô và một vại dưa muối.
Trong bữa
ăn Thu bảo các con:
-“Mẹ đi
thăm bố, vừa đi vừa về mất một tuần, các con ở nhà phải ngoan” _ nàng quay qua nói với đứa con gái lớn – “thức
ăn cho các con ở nhà mẹ đã làm sẵn. Các
con ăn thịt và tôm kho trước, còn mắm ruốc và thịt chà bông ăn sau cũng được. Mẹ đã dặn bà bán hàng đầu đường, hàng ngày
con ra lấy rau về luộc hay xào tùy ý.
Con nhớ lấy thêm trái cây về ăn mỗi bữa.
Mẹ yên tâm có ông bà ở gần. Các
con nhớ vâng lời ông bà và các cô, có điều gì không biết các con hỏi các
cô. Mẹ sẽ nói ông bà và các cô hay trước
khi mẹ đi.”
Ðứa con gái
lớn chợt nói:
-“Mẹ yên
tâm đi thăm bố. Ở nhà chúng con tự lo được,
cũng như khi mẹ đi buôn hàng chuyến trước đây.”
-“Ðành vậy,
nhưng trước kia sáng đi chiều về, mẹ nhìn thấy các con mỗi ngày. Còn bây giờ mẹ vắng nhà cả tuần. Các con nhớ đóng cửa cẩn thận mỗi tối trước
khi đi ngủ. Tắt bếp lửa sau khi đun nấu. Bà ngoại không được khỏe, các con trông chừng
bà cho mẹ. Các em nhớ giúp chị trông nom
nhà cửa, các con phải thương yêu săn sóc lẫn nhau thì mẹ đi xa mới yên lòng.”
Thu yên tâm
một phần vì các con đang nghỉ hè, và dặn chúng không nên đi chơi xa khi mẹ vắng
nhà. Nàng đã nói với bà bán hàng đầu đường
giao cho con những thứ chúng cần, khi trở về nàng sẽ hoàn lại số tiền còn thiếu.
Bà là người
tốt bụng, đã đứng tuổi, có chồng là sĩ quan đi “cải tạo”. Nhưng không may ông đã qua đời trong trại
cách đây không lâu. Nghĩ tới trường hợp
cải tạo của ông thật tội nghiệp. Ông đã
giải ngũ hơn năm năm trước ngày miền Nam bị chiếm đoạt, nhưng nhà nước vẫn bảo
ông “có nợ máu với nhân dân” nên buộc ông đi “cải tạo”. Với tuổi già sức yếu, ông không chịu đựng nổi
những cực hình lao động. Là người cùng cảnh
ngộ, bà rất thương đám con nàng. Bà
thông cảm hoàn cảnh của Thu, nên thường an ủi khi nàng bặt tin chồng trong những
năm qua.
Sau bữa cơm
trưa, mấy mẹ con ngồi sát bên nhau, từng đứa gửi lời thăm bố. Nàng thường nói chuyện về bố chúng, về lòng
yêu thương của anh đối với các con. Thu
luôn gợi cho các con hình ảnh một người cha, mà vì xa nhà đã lâu nhất là khi
chúng còn thơ dại, hình ảnh của anh có thể phai mờ trong trí nhớ non nớt của
chúng.
Nhìn các
con, nàng thương chúng rất nhiều. Nếu
không có mẹ thì đời sống của chúng sẽ ra sao đây, tương lai chúng sẽ đi về
đâu. Thu ôm các con như không muốn rời
xa chúng. Nàng nhắm mắt tận hưởng nguồn
tình cảm đã an ủi, khuyến khích vào lúc nàng chán nản cô đơn. Từng níu kéo giúp nàng tránh khỏi những nông
nổi tủi nhục. Nàng đã sống vì chúng, và
cũng nhờ ở tình cảm yêu thương của chúng mà vui sống.
*
10.
(Tháng 4-1975) |
Xe
chạy theo đường Chi-lăng, con đường rộng thênh thang, hai hàng cây cao bên đường
rợp bóng. Ðường phố ngày càng ít xe
hơi. Có phải do khả năng xã hội hay vì
khan hiếm săng dầu. Phương tiện chuyên
chở công cộng chỉ là chiếc xe xích lô, có gắn máy hay vẫn tận dụng sức người. Nhiều khi vì đồng tiền khó kiếm, vật giá leo
thang mỗi ngày, khiến người chở và người được chở cùng gặp hoàn cảnh tang
thương. Cả gia-đình vợ chồng con cái năm
bẩy người chen chúc chất trên chiếc xe xích lô đạp, trong khi bác tài dáng vẻ
thư sinh đang gò lưng đẩy xe trên con đường dốc.
Xe qua cầu
xa lộ, phía trước mặt là ga Bình-triệu.
Vào sân ga, Thu để hai bao quà dưới hiên đứng đợi Vân-Anh. Nàng nhìn đồng hồ đã 3 giờ, đúng như giờ hẹn
với bạn. Tầu
sẽ chạy vào lúc 6 giờ chiều nếu không có gì thay đổi vào
phút chót. Nàng muốn lên tầu sớm hơn một
chút để có chỗ ngồi vừa ý, nhất là tránh được cảnh chen lấn khi đông người lên
tầu.
Từ xa xe chở
Vân-Anh tới, cũng hai bao quà không kể xách tay. Thấy Thu đứng đợi, Vân-Anh lên tiếng:
-“Thu đã tới
lâu chưa?”
-“Mình cũng
vừa tới.”
-“Bạn tính
bao giờ chúng mình lên tầu?”
-“Chúng ta
lên tầu sớm cho thong thả.”
Hai người
phụ kéo những bao quà vào quầy soát vé và cân hàng. Qua khỏi khu kiểm soát, Thu và bạn khênh từng
bao tới chân cầu thang lên tầu. Nàng
nghe rõ tiếng thở dồn dập của bạn và của chính mình. Mồ hôi đang lấm tấm trên vầng trán.
Thu tìm được
hai chỗ ngồi bên cửa sổ. Người lên tầu
đông dần. Hàng hóa để dọc theo lối đi giữa
hai hàng ghế. Ði lại khó khăn hơn, vì
hàng hóa chiếm dần khoảng trống lối đi trên tầu. Nàng và bạn lấy giây buộc các bao quà với
nhau, phòng khi bị lấy trộm trong đêm tối vào lúc say ngủ. Nhìn những giọt mồ hôi trên gương mặt mệt mỏi
của bạn, Thu hỏi:
-“Vân-Anh
có mệt lắm không. Ðêm hôm qua yên giấc
chứ?”
-“Tới khuya
hôm qua mới lo xong quà mang đi, vì vậy đi ngủ quá trễ. Sáng nay phải dậy sớm xắp xếp việc nhà, thành
thử mình không ngủ được bao lâu.”
-“Còn bác
và hai cháu ra sao?”
-“Mẹ tôi vẫn
thường. Hai cháu có cụ coi chừng tôi cũng
đỡ lo. Còn Thu thế nào, đêm qua bạn có
ngủ được không?”
-“Mặc dù
quà mang cho nhà tôi đã lo xong từ sớm, nhưng tối hôm qua mình không sao chợp mắt
được. Nhắm mắt mà đầu óc vẫn thức. Mình nằm đếm tiếng gà gáy sang canh mà chờ
sáng.”
-“Chúng
mình mang cùng một tâm trạng. Cuộc sống
như luôn luôn thúc dục, vội vã. Nhiều chuyện xẩy tới cùng một lúc khiến chúng
ta khó vẹn toàn. Nhiều khi không biết
xoay xở thế nào. Mấy chỗ dậy học của bạn
ra sao?”
-“Mấy hôm
nay mình xin nghỉ dậy để mua sắm các thứ cho nhà tôi và các cháu ở nhà. Nhiều thứ muốn mang nhưng đành để lại vì quá
nặng. Tầu xe lên xuống chỉ có hai chúng
ta, khó mà khuân vác được.”
-“Còn các
cháu bạn nhờ ai coi chừng khi vắng nhà?”
-“Mẹ mình
đã già yếu. Ông bà nội cháu cũng không
khá hơn bao nhiêu. Tuy vậy, có các cụ và
hai cô em mình cũng đỡ lo khi xa nhà.
Còn các cháu, đứa lớn trông chừng đứa bé. Tinh thần mình cũng hơi bấn loạn. Một mặt lo cho các cháu khi mình vắng nhà, mặt
khác lại muốn đi thăm nhà tôi vì đã lâu không gặp mặt. Không hiểu nhà tôi lúc này ra sao?”
-“Bây giờ cũng
đã trễ rồi bạn có đói không? Tôi có mang
theo thức ăn còn nóng đây.”
-“Mình chưa
muốn ăn bây giờ, Vân-Anh ăn trước đi.
Khi đói tôi sẽ ăn.”
Vân-Anh ăn
cơm, còn Thu chỉ uống chút trà nóng mang theo trong bình thủy. Nàng bảo bạn:
-“Nghe chị
Tâm nói chúng ta phải coi chừng đồ khi tầu ngừng tại các ga nhỏ, kẻ lên người
xuống bất thường. Chúng ta hãy thay nhau
thức coi chừng. Bạn có vẻ mệt hãy ngủ
trước, tôi sẽ ngủ sau.”
-“Tối qua
Thu chưa chợp mắt chút nào, bạn cần ngủ một chút để lấy lại sức. Ðêm hôm qua mình cũng ngủ được vài giờ nên
không đến nỗi nào. Ðể tôi coi chừng đồ
cho.”
-“Mình
không sao đâu, Vân-Anh ngủ trước đi. Quả
thật tôi vẫn chưa buồn ngủ.”
Hàng ghế gỗ
vừa đủ cho hai người ngồi sát nhau. Thu
tựa người vào vách tầu, mong tìm một giây phút thoải mái. Ghế đối diện
có hai người tới ngồi, một cụ bà khoảng ngoài 60 và một thiếu phụ trạc
tuổi nàng. Nàng chào hai người:
-“Bác và chị
đi tỉnh nào?”
-“Chúng tôi
đi Thanh-hóa, còn hai cháu đi đâu?”
-“Chúng cháu
cũng đi Thanh-hóa. Cháu đi thăm nhà cháu
ở trại Thanh-cẩm, chị bạn cháu cũng ra thăm anh ấy.”
-“Tôi ra
thăm thằng con tôi học tập ở trại Lam-sơn.
Mấy tháng trước vợ nó có ra thăm, nhưng cách đây ít ngày gia đình bạn nó
về cho hay nó bị đau. Tôi không hiểu
tình trạng sứa khỏe nó thế nào nên vội đi thăm.”
-“Chị ấy bận
cháu hay sao. Bác đi sợ không chịu nổi tầu
xe vì thức đêm thức hôm, ăn ngủ thất thường.”
“-Tôi cũng
đành vậy. Lần này ra thăm tôi không biết
ăn nói làm sao với nó. Chúng vừa thành hôn
thì chồng đi “cải tạo” nên chưa có con, vợ nó lại không đợi được ngày chồng trở
về. Tôi thông cảm con dâu của tôi, vì
người đàn bà xuân sắc chỉ có một thời.
Mà biết phải chờ đợi đến bao giờ.
Tôi cũng tiếâc hộ cho con trai tôi.
Chúng đang sống với nhau hạnh-phúc, rồi bỗng chốc đổ vỡ cả. Tôi bằng này tuổi rồi, còn chờ mong gì nữa. Chỉ mong một điều là con cái gia đình êm ấm.”
Thu nhìn ở
cụ thể hiện tình thương bao la của một bà mẹ.
Ðúng là nước mắt chẩy xuôi. Mẹ
nào mà chẳng lo lắng cho con, dù chúng ở bất cứ tuổi nào. Vẫn coi chúng như còn tấm bé, vẫn thương xót
đùm bọc. Nàng nhớ mãi hình ảnh mẹ chồng
nàng, nước mắt đầm đìa trông thật thảm thiết vào đêm chồng nàng bị bọn công an
đến bắt tận nhà. Tiếng nức nở ấm ức của
bà như thoát ra từ lòng yêu thương tha thiết của tình mẫu tử. Ðối với bà, giây phút đó, tất cả đều xụp đổ,
tan vỡ.
Nhiều trường
hợp này đã xẩy ra, mỗi hoàn cảnh một khác.
Mà trường hợp nào cũng vậy, đều mang cho mọi người nỗi khổ tâm trước cảnh
chia ly. Như khi đi thăm chồng nàng ở trại
Gia-rai, Thu đã chứng kiến cảnh ba chị em, đứa lớn mới lên mười, đứa nhỏ khoảng
năm sáu tuổi. Chúng dắt díu nhau lên
thăm cha. Ðồ tiếp tế chỉ vỏn vẹn có nải
chuối xứ với vài chiếc bánh mì. Chúng đã
mua bằng tiền giúp đỡ của người lối xóm.
Mẹ chúng vắng nhà đã lâu, không
hiểu việc gì xẩy ra cho người đàn bà trên đường kiếm sống hàng ngày, đã bỏ
chúng bơ vơ trong một xã hội bất ổn.
Nàng nhìn thấy bốn cha con cùng khóc, mỗi người có riêng một tâm tư, một
nỗi đau khổ khác biệt.
Thu không ngạc
nhiên, đi đến đâu cũng gặp thân nhân người cải tạo. Chuyện về “cải tạo” chưa đến hồi kết, mà đang
ở những dòng đầu, những đau thương chia ly còn tiếp diễn.
Tiếng ồn ào
bớt dần, mọi người đã ổn định chỗ ngồi.
Phía trên đầu hành khách, sát nóc tầu, đong đưa những chiếc võng vải của
những người mong tìm một giấc ngủ trên quãng đường dài. Con tầu thét lên từng hồi còi dài, báo hiệu
giờ khởi hành. Tầu từ từ rời sân ga, để
lại phía sau những tiếng nhắn gọi của người ở lại.
*
11.
Hồ Hoàn Kiếm |
Mặt
trời đã chìm hẳn dưới rặng cây ở phía xa,
con tầu tăng dần tốc độ bỏ lại thành phố nhỏ dần ở phía sau. Ðây là lần đầu tiên Thu đi chuyến xe lửa đường
dài, con tầu mang tên Thống-nhất. Sau
ngày miền Nam bị chiếm đoạt, nó đã nối liền Hà-nội Sài-gon, mà vì nội chiến đã chia cắt mấy chục
năm về trước. Thu thấy lòng bồn chồn,
nàng trên đường trở về nơi quê hương yêu dấu của nàng.
Hình ảnh
Hà-nội năm xưa không cho Thu nhiều kỷ niệm, vì nàng vào Nam khi còn nhỏ. Nàng chỉ nhớ căn nhà mình ở nơi phố vắng xe
đi lại, con đường mang tên “Hàng Chuối”.
Nàng cũng không hiểu tại sao người ta đặt tên này cho con đường chỉ trồng
toàn “sấu”. Hai dẫy sấu cao thẳng tắp ôm
trọn lấy con đường trải nhựa xinh xinh, sạch bóng. Con đường ít bóng nắng vì cành sấu cao rậm. Vào những ngày mưa tầm tã, mây xám giăng kín
bầu trời, cành lá sũng nước, con đường như lạc vào giữa khu rừng âm u.
Vào mùa sấu,
những trái sấu chín mọng trĩu cành. Ðứng
trên sân thượng, Thu có thể vít những cành sấu phủ trùm mái nhà, hái những trái
sấu chín cây mà hương thơm dìu dịu quyến rũ.
Vừa cầm trái sấu trong tay, nàng cảm thấy lòng bàn tay mình ấm áp, vì
trái sấu được mặt trời sưởi nóng. Quên cả
rửa, chỉ kịp chùi lớp vỏ sần sùi vào vạt áo, nàng vội cắn để tận hưởng vị ngọt
dịu từ những giọt nước cốt của trái sấu tiết ra. Nàng đã quên cả bữa ăn trưa vì mải mê với những
trái sấu chín.
Thu nhớ đến
những trái sấu mầu vàng ươm sau lần vỏ ngoài, cùi sấu được cắt khoanh thành một
lớp hình xoắn theo chiếc hột. Sau khi bỏ
hột, phần cùi được xếp lại nguyên hình trái sấu, ngâm trong nước đường có pha mầu,
óng ánh sắc vàng dậy mùi cam thảo. Vị sấu
dôn dốt dòn tan, quyến rũ những thiếu nữ đến tuổi dậy thì.
Vào những
trưa hè êm ả, cả một quãng đường vắng lặng, những căn biệt thự nhiều tầng nằm
hai bên đường như say ngủ. Chỉ có tiếng
ve trên cây, pha trộn với tiếng rao cao vút, ngân dài của bà bán bún thịt nướng. Thu thèm mãi vị bún thịt nướng Hà-nội. Trên
chiếc khay tròn bằng tre đan, những sợi bún trắng muốt xếp khoanh tròn, bên đĩa
rau muống chẻ nhỏ tô điểm bằng những cánh rau thơm. Một bát nước mắm trong vắt, lác đác vài lát ớt
đỏ au khi khách hỏi. Vài xâu thịt nướng
thơm phức xếp ngang trên đĩa. Khi nhỏ
Thu chỉ thấy món ăn đó ngon, nhưng sau này nàng mới nhận ra, mỗi món ăn hàm chứa
một nghệ thuật, diễn tả sự tinh khiết riêng biệt của mỗi thứ.
Ðến ngày Tết
Nguyên đán, Thu được mặc quần áo mới theo mẹ đi lễ đền Ngọc-sơn, phía bên kia
cây cầu gỗ cong cong sơn mầu đỏ tía.
Nàng đứng trên cầu nhìn xuống mặt hồ, gió thổi mặt nước gợn nhẹ, lăn tăn
từng đàn ôm lấy chân cầu. Nhìn vào, đền ẩn
hiện trong bóng cây bao quanh. Nhô lên
khỏi khóm lá những mái ngói đỏ au. Khung
cảnh thật trang nghiêm, huyền bí.
Nàng đã thấy
“tháp Rùa” cũ kỹ giữa lòng hồ, di tích về một vị vua trả lại kiếm thần sau khi
phá tan giặc ngoại xâm. Quanh bờ, những
tàng cây cổ thụ soi mình bên bóng nước.
Hồi đó nàng chưa cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên ở nơi đây như các
anh chị lớn của nàng. Họ đã lặng ngắm những
tà áo nhung gấm nhiều mầu, qua lại trong làn mưa mỏng hạt.
Riêng Thu,
nàng cảm thấy vui thích vì có dịp ra khỏi nhà,
được thấy nhiều cảnh lạ mắt. Nàng
thích những hạt lạc rang tròn quay có tẩm húng lìu thơm phức của chú Tầu, hay
những gói hạt dẻ nóng hổi ủ kín trong tấm chăn dạ của người bán hàng. Vị bùi của hạt dẻ thật quyến rũ, nàng thường
dốc cả gói vào túi áo khoác ngoài. Bàn tay nhỏ bé của nàng cảm thấy ấm áp như đứng
bên bếp lửa hồng.
Ðến ngày
Thanh minh giỗ Tổ, Thu theo mẹ về làng.
Nàng mặc quần áo mới như ngày Tết.
Mái tóc dài óng mượt được kẹp phía sau bằng chiếc kẹp cánh bướm nhiều mầu. Lòng nàng hân hoan vô cùng.
Sơn-tây
không xa Hà-nội bao nhiêu. Ra khỏi thành
phố Hà-nội, con đường trải đá dẫn đến phủ Quốc-oai nằm giữa cánh đồng lúa
xanh. Phố Phủ gồm những căn nhà mái ngói
lấp xấp bên đường. Theo đường chính phố
Phủ, xã Phượng-cách nằm về bên phải. Những
rặng tre bao quanh làng trồi lên như một ốc đảo mầu xanh thẫm, vượt khỏi biển
lúa mầu mạ non.
Thu trở về
căn nhà của gia đình nàng đã bao nhiêu đời ở đây. Chiếc cổng gạch lọt vào giữa hai cánh tường
cao bao quanh khu đất rộng. Qua khỏi cổng,
một sân rộng lót gạch Bát-tràng, tiếp đến là dẫy nhà ngói năm dan, nơi thờ phụng
những người đời trước. Bên trái là ngôi
nhà lầu xây theo lối mới, chỗ ở của gia đình nàng khi về đây. Còn dẫy bên phải chia thành nhiều phòng, vừa
làm nhà kho, nhà bếp và nơi dành cho những người giúp việc trong nhà. Sát tường là vườn hoa xen lẫn những cây ăn
trái.
Nàng rất
thích cây nhãn bên bể nước mưa. Nghe mẹ
nói là giống nhãn Hưng-yên, cùi dầy hột lại nhỏ, dịu ngọt vô cùng. Nàng mê mẩn với những trái cây trong vườn, đến
vẻ đẹp của vườn hồng nơi sân trước mà cha nàng tốn công vun xới. Rồi đến cây đào gốc lớn sùi nhựa từng cục, nàng thường dùng nhựa dán hình vào sách. Vào dịp Tết, hoa đào nở rộ, mầu đỏ thắm hay
phơn phớt hồng như xác pháo.
Cảnh này đến
cảnh khác như quyến rũ, cầm giữ nàng ở lại.
Sinh ra ở Hà-nội, nơi phồn hoa đô hội, nhưng xa ngôi làng này nàng vẫn
nhớ, vẫn bồi hồi mỗi lần trở về. Thu cũng
không hiểu tại sao, đó có phải là tình quê mà đời trước liên hệ với đời sau
như những mắt xích vô hình.
Nàng theo mẹ
lên chùa Thầy. Một ngôi chùa xây dựng
hàng ngàn năm về trước, mái ngói rêu phủ.
Phong cảnh đơn xơ tịch mịch. Qua
ngưỡng cửa chùa, tại gian giữa, một pho tượng lớn ngồi trên bệ. Nàng lại gần, đầu nàng mới ngang bệ ngồi. Nhìn lên, đầu pho tượng như chạm vào mái ngói
cao. Phía trước pho tượng là chiếc mõ khổng
lồ, mà mỗi lần gõ nhẹ âm vang vọng đi thật xa.
Thu theo
anh chị trèo lên dốc núi sau chùa. Phía
dưới là những hang động, nơi trú ẩn của dân trong làng mỗi khi có máy bay oanh
tạc vào thời kỳ chiến tranh. Xa xa, phía
dưới kia nơi gốc cây gạo là khu chợ. Từ
trên cao nhìn xuống, dân làng họp chợ bé nhỏ như đàn kiến, âm thanh vang vọng
vào vách núi rì rào như tiếng ong bay.
Ðến ngày
chia đôi đất nước, gia đình nàng vào Nam, để lại quê hương miền Bắc cả mồ hôi
và nước mắt. Thu lên tầu ở vịnh Hạ-long,
một cảnh biển đã trở thành kỳ quan của thế giới. Những hòn núi nhỏ nhô lên khỏi mặt nước với
nhiều hình dáng khác nhau. Người ta ví
hòn này giống hình con Lân, hòn kia hình con Phụng. Có hòn như giọt nước mắt đang nhỏ xuống mặt nước
biển xanh thẫm. Thoáng hiện trong rừng
núi nhỏ những cánh buồm nâu.
Cuộc chiến
huynh đệ tương tàn vẫn tiếp diễn, Thu lớn lên ở miền Nam. Nàng đọc sách và nghe kể chuyện về Hà-nội 36
phố phường, một nơi ngàn năm văn vật, có nhiều dấu tích lịch sử trên đường dựng
nước và giữ nước. Nhiều người ca tụng
Hà-nội đẹp, Hà-nội duyên dáng. Có lẽ
Hà-nội đẹp vào hồi trước kia, khi người dân Hà-nội chưa ngửi thấy mùi thuốc
súng, chưa sống trong cảnh lo sợ phập phồng vì hận thù giai cấp, chưa nếm vị củ
khoai củ sắn trong bữa ăn hàng ngày. Ðời
sống người dân còn thoải mái cả về vật chất lẫn tinh thần.
Khung cảnh
làm Hà-nội trở lên duyên dáng, dù các con phố có nhỏ hẹp, là tự nó có trật tự
và tô điểm thêm bằng thứ tình cảm ấm cúng, gần gũi. Mà phải ở một thời gian đủ lâu mới tìm thấy
cái cảm giác yêu thương, quen thuộc không thể thiếu đó.
Còn đối với
nàng, Thu vẫn yêu vùng núi chùa Thầy, quê hương Phượng-cách. Các bạn thường bảo nàng có đôi mắt đẹp, trông
quyến rũ thơ mộng nhưng trong sáng, hiền hòa như một bầu trời xanh vào ngày nắng
Hạ. Như
ca tụng vẻ đẹp về đôi mắt của người con gái Sơn-tây. Nàng đã nhiều lần ngắm mình trong gương, và cảm
thấy lòng mình dâng lên một niềm kiêu hãnh.
Những hình ảnh
đó không rõ nét mà cũng khó xóa nhòa. Lớn
lên nàng mới hiểu được tình cảm quê hương gắn bó. Thời gian qua đi thật mau như mới ngày nào.
*
12.
(Di tản: Tháng 4-1975) |
Con
tầu uốn mình qua các khúc quanh, một bên đường là rừng cao su với hàng cây thẳng
tắp. Tầu vượt qua ga Gia-rai, phía bên
trái là trại tù “cải tạo” nằm trên đồi Phượng-vĩ, nơi Thu gặp chồng lần đầu vào
năm năm về trước. Căn trại chìm hẳn
trong bóng tối, leo lét mấy ngọn đèn điện vàng úa mờ mờ trong màn đêm.
Vân-Anh cựa
mình kéo Thu ra khỏi suy tư. Nhìn khuôn
mặt dịu dàng của bạn trong lúc say ngủ, khó đoán biết được người đàn bà này đã bước ra khỏi tháp ngà, dấn thân vào
cuộc sống cam go. Không có gì nguy hiểm
hơn cho một người đàn bà với hai bàn tay trắng, một đàn con dại, phải chấp nhận
một sự thay đổi chớp nhoáng khi chưa sửa soạn tinh thần.
Vân-Anh
vươn vai ngồi thẳn dậy:
-“Mình vừa
ngủ được một giấc thấy khỏe hơn nhiều. Bạn
ngủ một lát đi. Mình coi chừng đồ cho.”
-“Không hiểu
tại sao mình lại khó ngủ, mặc dầu đêm hôm qua không chợp mắt chút nào.”
-“Tại bạn
suy nghĩ nhiều đó thôi. Mình cũng vậy, nhiều lúc muốn quẳng gánh lo đi mà vui sống,
nhưng vẫn không làm được. Sinh hoạt của
cuộc sống trước mắt không cho mình ngưng nghỉ, mình như chơi vơi giữa
giòng. Chồng mình ra đi mang theo cả chỗ
nương tựa của mẹ con mình. Thời gian qua
đi thật mau, hơn năm năm rồi còn gì.
Chúng mình còn phải đợi đến bao giờ nữa đây.”
-“Nhiều khi
tôi cũng nghĩ như Vân-Anh. Nhưng khổ một
nỗi, các anh ấy có hay trước ngày về đâu mà mình biết thời gian chờ đợi đến bao
giờ. Cái đau thương của chúng ta ở chỗ
là không biết tương lai mình đi về đâu, thử hỏi làm sao chúng ta có dự tính
tương lai. Chúng ta không có may mắn nhỏ
bé như người mù sờ voi, vì ít ra họ còn có một chút thực tế để tin tưởng.”
-“Thu nói
phải đấy. Ðời sống xã-hội bây giờ thật
nguy hiểm cho những người đơn chiếc như chúng mình. Bước chân vào một lãnh vực mà mình chưa có một
chút kinh nghiệm. Trong khi những người
còn ở lại thành phố này sống thật vội vàng.
Họ tận hưởng những gì có được trong hiện tại, vì họ cũng như mình mờ mịt
về tuơng lai.
Còn thành
phần mới tới, những kẻ đói khát lâu ngày trong một chế độ chỉ có bạo quyền, đã
tận dụng quyền hành sẵn có để bóc lột và hưởng lạc. Những người đàn bà trong hoàn cảnh khó khăn dễ
bị đám người này đe doạ, áp bức. Chính
mình đã gặp cảnh ngộ này.”
Thu ngạc
nhiên hỏi bạn:
-“Chuyện thế
nào Vân-Anh. Ðã xẩy ra lâu chưa?”
-“Cũng như
Thu, Sau ngày đau thương của miền Nam, mình bán dần đồ dùng trong nhà để sống
qua ngày. Nhà tôi đi trình diện “học tập
cải tạo” theo thông cáo của nhà nước. Cũng
tưởng một tháng là về. Hơn nữa các cháu
còn nhỏ, mình không thể để cụ coi chừng vì cụ đã già rồi. Vì vậy mình nhận đồ cắt sẵn về nhà vắt sổ phụ
thêm chi tiêu trong gia đình.
Ðời sống
khó khăn dần về kinh-tế. Công an khu vực
luôn theo rõi, như nghĩ rằng gia đình mình còn của ăn của để. Mỗi lần họp tổ khu phố, mình là đề tài được
nhắc tới vì không hội nhập sinh hoạt xã hội mới.
Gạo cấp
phát ngày càng khó khăn. Mình có cảm tưởng
nhà nước đang thi hành chính sách “bóp cổ, túm dạ dày” người dân, với mục đích
đẩy các gia đình có thân nhân đi “cải tạo” tới vùng kinh tế mới. Mình đành phải xin đi làm cho cơ quan xây dựng
Thành phố.”
-“Vân-Anh
nói đúng. Gía sinh hoạt ngày một
tăng thì đồng lương mình lãnh chỉ là đồng
lương chết đói.”
-“Thời gian
đầu cũng dễ chịu, nhất là đồng lương chết đói của mình không bị ai ghen tị. Mình chỉ cần có phiếu lãnh gạo cho gia
đình. Cũng chỉ mong được yên thân hầu có
thì giờ với mẹ mình và hai cháu. Nhưng
khi trưởng cơ quan là cán bộ mới chuyển tới, mình không biết nói thế nào cho
đúng với con người của hắn. Là cán bộ kỹ
sư, đã từng du học nước ngoài, xấp xỉ tuổi mình. Hắn đúng là thứ con đẻ của cách mạng, không
rõ mấy năm tuổi đảng. Nhưng phải dựa vào
thế lực nào mới có thể chiếm được một chỗ ngồi béo bở như cơ quan này.
Một hôm hắn
gọi mình vào văn phòng, nói là muốn tìm hiểu gia cảnh hầu cơ quan giúp đỡ. Hắn nêu ra diện có chồng đi cải tạo là một
khó khăn cho công việc mình làm. Hắn bảo
rất thông cảm hoàn cảnh của mình và hứa sẽ hết lòng giúp đỡ. Mình tỏ lời cám ơn. Từ đó hắn tìm cách gặp mình luôn, vồn vã và
săn đón nhiều hơn.
Mình bảo hắn
biết là mình không thể làm điều hắn muốn.
Như không đạt được mục đích trước con mồi mà hắn tưởng là dễ khuất phục,
hắn nổi cáu trở mặt, kiểm soát chặt chẽ công việc mình làm, moi móc khía cạnh
lý lịch. Mình nghĩ khó có thể tiếp tục
công việc làm nên xin thôi và trở về nghề may là thế.”
Thu thở
dài, tiếp lời bạn:
-“Ở đâu cũng
thế thôi. Chế độ này càng ngày càng mất đi căn bản đạo đức. Ðó có phải là thói quen của kẻ thắng trận,
nhìn người bại trận như những con mồi mà
họ có quyền bóc lột, hành hạ. Họ có bạo
quyền trong tay, nên dưới hình thức nào đó, buộc người bại trận phải chết cũng
dễ thôi. Họ bảo họ có chính nghĩa, là lẽ
phải, mặc dù hành động của họ thật tàn tệ, không một chút tình người.”
-“Thu biết
không, nhiều khi mình có cảm nghĩ là chúng mình sinh ra không hợp thời, ở một
quốc gia tao loạn. Khi nhỏ thì chạy giặc
đô hộ, rồi gia đình mình di cư vào Nam vì biết không thể sống chung với chế độ
cộng-sản. Mình lớn lên ở miền Nam, được
hưởng một cuộc sống tốt đẹp. Bỗng chốc mất
tất cả, cả những gì mình yêu thương nhất.
Chúng mình còn quá trẻ, đang cần sự thương yêu ve vuốt. Mình cũng có những giây phút yếu lòng, vì
chúng ta là những người đàn bà bình thường với khát vọng bình thường.”
Thu nhìn bạn
thông cảm. Như đọc được tâm tư của bạn
mà cũng là mối băn khoăn, lo âu của chính mình.
Hai người chợt yên lặng như đang theo đuổi niềm ưu tư chợt đến. Nàng tiếp lời bạn:
-“Mình cũng
nghĩ như Vân-Anh. Lòng mình ngổn ngang
trăm mối. Trước hoàn cảnh đời sống luôn
bị đe dọa, mình có cảm tưởng như đang đứng giữa cơn lốc, liệu mình có thể có một
cuộc sống an lành. Mình cố gắng nhiều,
nhưng cũng cảm thấy đã đuối sức. Sự mệt
mỏi như thấm sâu làm đầu óc căng thẳng, cơ thể rã rời, ý chí phấn đấu tàn lụn.
Nhiều khi mình tự hỏi, có thể buông trôi đuợc không, để mặc cho số phận
đưa đẩy. Nhưng chính trong giây phút
tinh thần sa sút đó, lòng mình se thắt khi nghĩ đến chồng, đến con. Liệu có thể để cho những người mình yêu
thương gặp hoàn cảnh này không. Có lẽ nhờ
ở thứ tình cảm tha thiết này mà mình dừng chân, cầm giữ được lòng mình, có thêm
can đảm để sống.”
Giọng nói của
Thu chợt lạc đi, sự xúc động làm nàng nghẹn lời. Ðời sống quả thực khắc nghiệt. Nàng chót hiểu biết, có nhận thức về đời sống,
mà từ lúc khôn lớn đã có hoài bão tạo cho mình một đời sống có ý nghĩa. Không ngờ cuộc sống thay đổi, tất cả đều đổ vỡ.
-“Thu biết
không, từ ngày miền Nam bị chiếm đoạt, mình vẫn thắc mắc, sự thắc mắc không thể
giải nghĩa được. Mình không hiểu nổi hai
chữ “chính nghĩa”. Miền Bắc mang quân
xâm chiếm miền Nam thì bảo là có chính nghĩa.
Còn miền Nam tận sức bảo vệ đời sống Tự-do của mình lựa chọn thì cho là
không có chính nghĩa. Miền Bắc mang quân
đánh chiếm miền Nam thì gọi là “giải phóng”.
Thử hỏi, có bao nhiêu ngàn người miền Nam theo họ để họ thực hiện một cuộc
giải phóng cho đúng nghĩa? Còn bao nhiêu
triệu người miền Nam khác lại không có quyền lên tiếng nói, khi họ nói lên với
quyềân làm người của họ. Họ không có quyền
chọn lựa đời sống Tự-do cho mình.
Bây giờ miền Bắc đã nắm trọn miền Nam, hoàn tất
ý đồ tô đỏ cả non sông gấm vóc này. Bắt
tù đầy hàng triệu người miền Nam, đầy đọa cho đến chết, nếu không cũng thân tàn
ma dại trong các trại “Tập trung Cải tạo”, thì họ bảo là khoan hồng, là nhân đạo. Quả thật, mình không còn biết thế nào là
công-lý nữa.”
Giọng nói của
Vân-Anh đầy phẫn uất, sự uất hận dồn nén lâu ngày. Thu thấy mắt bạn nhắm nghiền nhưng đôi môi
rung rung, như cố kìm hãm để không bật thành tiếng khóc. Thu như
lây niềm uất hận, nàng im lặng tựa người sát lưng ghế, đôi mắt lim dim,
lòng nàng xót xa với tiếng thở dài. Dĩ
vãng hiện ra như một hoạt cảnh, pha trộn
giữa đau thương hờn tủi và nuối tiếc dĩ vãng êm đềm.
*
13.
(Vượt Biên sau ngày 30-4-1975) |
Nghĩ tới
các con, Thu thương chúng vô cùng. Ít
nhiều chúng cũng phải chịu ảnh hưởng về sự thăng trầm của bố me, mất mát niềm
vui của tuổi thơ. Mà nơi nào ở phần bên
kia trái đất đang có một cuộc sống vui tươi, như hai thế giới trong một cuộc đời. Không hiểu giờ này chúng đang làm gì, có tự
lo được khi mẹ vắng nhà không. Có gì
không may xẩy ra cho chúng không.
Còn đứa con
trai lớn của nàng bây giờ ra sao. Năm
nay nó mới 14 tuổi. Ở tuổi mà đứa trẻ cần
nương tựa vào cha mẹ, cần sự nuông chiều, chăn ấm nệm êm. Mà trái lại, lúc này nó đang dấn thân vào cơ
cực, vừa trải qua những nguy cơ mà sự sống thật mong manh. Con đã xa nhà được
sáu tháng.
Nhìn ảnh nó
gửi về thật gầy, lòng người mẹ bỗng chùng xuống. Con vẫn mặc chiếc quần đùi khi đi, đứng trên
tảng đá phía trước là biển cả mênh mông.
Chắc con nhớ nhà lắm, vì lần đầu xa mẹ với các em. Nàng càng thương con hơn, vì con có nhiều kỷ
niệm với mình.
Thu nhơ,ù
ngay sau khi nghỉ làm cho công-ty hóa chất, vì sự sống của gia đình, nàng phải
đi buôn trở lại. Nàng không muốn đi buôn
bán chợ trời vì có nhiều phức tạp, nên chuyển qua buôn hàng chuyến tại các tỉnh
lân cận. Nàng đã thăm hỏi nhiều người
quen ngoài chợ xem mặt hàng nào cần thiết nhất.
Nàng bảo các con:
-“Ngày mai
mẹ đi chợ Mỹ-tho mua gạo về bán. Các con
ở nhà coi chừng nhau, đến tối mẹ về. Thức
ăn mẹ đã làm sẵn, các con chỉ cần nấu cơm.”
Ðứa con
trai lớn chợt hỏi:
-“Mẹ không
đi làm nữa hay sao mà đi buôn trở lại?”
Thu không
thể cho các con hay lý do khiến nàng phải thôi việc, chúng chưa hiểu được những
việc ngoài đời. Thực ra nàng vẫn muốn
làm công việc văn phòng, để được thư thả, có thì giờ trông nom săn sóc các
con và cha mẹ già yếu. Nàng cũng muốn được ngồi nhìn trước gương như
thuở trước, chải lại mái tóc mà từ lâu nàng không có thì giờ săn sóc. Thu cũng hiểu ước vọng của người phụ nữ, được
chăm sóc sắc đẹp của mình, mà nỗi lo lắng nhan sắc tàn phai luôn luôn ám ảnh. Nhưng nàng đã chấp nhận đời sống khổ cực từ
sáng đến tối, vì ít ra cũng tránh được nguy cơ đang xẩy ra trước mắt. Nàng bảo các con:
-“Tiền
lương hàng tháng không đủ cho gia đình mình chi tiêu, nên mẹ muốn đi buôn để có
dư chút tiền mua sắm cho các con và gửi quà cho bố.”
Ðứa con gái
lớn tiếp lời mẹ khi nghe nhắc tới bố:
-“Lâu rồi
không có tin bố. Ðã hơn hai năm, hè này
là hè thứ ba. Không biết bây giờ bố ở
đâu, có khỏe mạnh không.”
Câu nói
thương nhớ cha của đứa con gái vô tình nhắc nhở, khuấy động nỗi xót xa nhớ
thương chồng trong lòng nàng.
Ðứa con
trai lớn nói:
-“Mẹ cho
con đi chợ với mẹ được không?”
-“Mẹ nghĩ
con ở nhà coi chừng các em thì tốt hơn.
Ði buôn hàng chuyến vừa xa lại vừa mệt.
Mẹ sợ con đi không nổi.”
-“Con đi một
lần thôi. Mẹ cho con đi cùng cho
vui. Các em con ở nhà có Vi lo rồi. Nếu có chuyện gì đã có ông bà và các cô. Con đi bộ được, mẹ đừng lo cho con.”
Thu cười bảo
con:
-“Con đi với
mẹ cũng được. Lần đầu mẹ cần thăm dò đường đi và xem hàng hóa ra sao, thứ nào
mình có thể mua để kiếm lời.” – Nàng quay qua bảo mấy đứa con nhỏ – “Ngày mai
anh Ti đi với mẹ, Vi ở nhà coi chừng các em con nhé. Anh Ti hãy đi ngủ sớm, sáng mai phải dậy đi
chuyến xe đầu cho kịp phiên chợ.”
Hai mẹ con
dậy thật sớm. Thu cho con mặc thêm áo ấm,
vì buổi sáng tiết trời hơi lạnh. Tới bến
xe trời còn tối, nàng mua vé xe đi chợ Gạo.
Hai mẹ con ngồi sát nhau bên lề
đường chờ giờ xe chạy.
Mọi người
lên xe. Chiếc xe chở khách cũ kỹ được
sơn sửa lại vẫn không giảm được tiếng kêu khi qua các ổ gà. Khoảng cách hai hàng ghế làm hẹp hơn trước để
chở thêm khách. Mặt và lưng ghế làm bằng
sợi nhựa đan mỏng mảnh, mà mỗi lần xe thắng gấp, đầu gối của người ngồi sau đẩy
mạnh vào lưng người ngồi trước.
Giọng ca
theo một bản nhạc “cách mạng” vang ra từ máy phát thanh nhỏ treo trước mặt tài
xế, nghe mãi cũng nhàm chán. Nàng nhìn
sang con, nét mặt nó thật vui tươi trước cảnh đồng quê trải rộng hai bên đường. Ðã lâu các con không được đi ra ngoài. Ở tuổi của chúng cần đi xa để mở rộng thêm tầm
mắt, phát triển trí khôn, mà vì hoàn cảnh lâu nay nàng không thực hiện được.
Trời đã
sáng hẳn, những cánh ruộng bát ngát ôm sát hai bên đường, những xóm nhà rải rác
chen giữa các khóm tre. Ðây là trục lộ
chính từ Sài-gon dẫn tới các tỉnh phía Nam.
Con đường trải nhựa phẳng phiu trước đây, nay đã lác đác các ổ gà.
Ðến chợ,
Thu dắt con đi một vòng xem giá trước khi mua.
Nhà nước thu mua gạo thơm để xuất khẩu nên không thấy bầy bán như trước
kia. Hoặc nếu có, giá mua chợ đen cũng rất
cao. Ðâu đâu cũng chỉ bán thứ gạo thường.
Thu mua vài
món hàng và một ít gạo đựng trong hai xách tay.
Thấy mẹ xách nặng hai tay, Ti bảo mẹ:
-“Mẹ để con
xách một bên cho đỡ nặng.”
Nàng nhìn
con cảm động, nó còn nhỏ mà đã có ý chia xẻ sự cực nhọc với mẹ. Nàng để giỏ xách bên đường và bảo con:
-“Giỏ nặng
lắm, con xách không nổi đâu. Cẩn thận
không gẫy xương sống đấy.”
Con nàng
hai tay xách một giỏ, nhưng mới đi được ít bước đã bỏ xuống. Mặt mũi đỏ gay, như sức nặng đã vượt quá sức
chịu đựng của nó. Thấy thế Nàng bảo con:
-“Ðể mẹ
xách cho. Mẹ đi một quãng lại nghỉ cũng
được.”
Con nàng vẫn
cố gắng xách giỏ. Nó nói với nàng:
-“Từ đây ra
bến xe cũng không còn bao xa, mẹ để con xách đỡ một quãng.”
-“Mình
không thể lên xe ở chỗ mình xuống lúc sáng được, vì xe ngừng ở trạm để công an
kiểm soát. Họ thấy gạo sẽ tịch thu mất.”
-“Làm sao
mình về nhà được hả mẹ?”
Thu bảo
con:
-“Mình phải
đi vòng vào đường làng phía sau trạm kiểm soát.
Khi ra đến đường mình sẽ kiếm xe về.”
Hai mẹ con
đi bộ gần 2 cây số đường trong làng. Nhiều
khi phải nấp trong vườn mía chờ đám công an đi qua mới đi tiếp. Ra đến đường trời đã tối, không còn xe chở
khách. Hai mẹ con phải đón xe Lam về.
Thấy đường
Mỹ-tho khó khăn vì mới đi buôn chưa quen manh mối, nên Thu theo bạn đổi hướng
đi đường Tây-ninh Gò dầu. Cũng như những
người đi buôn khác, phải tìm cách mua nhiều hàng để có thêm lời.
Ðể kiếm thêm tiền đuờng, khi đi nàng thường mang
săng dầu đựng trong thùng nhựa nhỏ. Các
thùng săng dấu trong giỏ xách hầu tránh mặt đám công an kiểm soát dọc đường. Tới chợ là bán ngay cho mối đã đợi sẵn. Dù giá bán có rẻ hơn, nhưng có điểm lợi là có
thì giờ mua hàng trở về và tránh tai mắt của công an địa phương.
Lượt về,
theo như người mua đã dặn, Thu mua vài ký thịt heo, vài cân đường trắng và đường
Thốt-nốt, vài lít rượu trắng đựng trong các túi nhựa dầy . . . Nhưng cái khó khăn là làm sao qua mặt công an
tại các trạm kiểm soát. Nàng biết cách dấu,
nhưng quan trọng vẫn là đám tài xế và lơ xe có chịu làm lơ không.
Nàng thấy
có nhiều người mang theo cả bao lớn bao nhỏ, qua trạm không mảy may sơ xẩy, mà
sau này nàng mới hiểu là họ ăn chia với tài xế.
Tới trạm, tài xế lại chung cho đám cán bộ, như một thứ tiền mãi lộ đối với
bọn thảo khấu. Cũng chỉ vì muốn kiếm nhiều
tiền vừa an toàn mà không vất vả, nhiều người đàn bà đã bị đám tài xế lợi dụng. Còn những tay mơ như nàng thường gặp khó khăn
trong khi di chuyển.
Thời gian đầu
tiền lời không kiếm được bao nhiêu, Thu chỉ mong giữ được vốn và có thêm chút lời
đủ gia đình ngày hai bữa. Khi đi, nàng cố
mang nhiều hàng hầu bán lấy lời làm vốn mua hàng cho lượt về.
Vẫn hành
trình như thường lệ. Con đường nào cũng
có những khó khăn khác nhau. Thu đi buôn
từ chợ này đến chợ khác. Hết Trảng-bàng
đến Gò dầu, tới các khu xa xôi thuộc tỉnh Tây-ninh. Khi mua xong hàng trời đã xế chiều, với hai
giỏ xách nặng chĩu đôi vai, đón được chiếc xe khách chịu chở về Sài-gon là một
điều khó khăn. Nhiều khi nàng và mấy người
đi buôn hàng chuyến đứng đợi bên lộ hàng nhiều giờ, không xe nào chịu chở. Mọi người phải đi bộ trước khi tìm được xe
Lam.
Có lần làm
Thu nhớ mãi là sau khi mua xong hàng, mọi người ra chỗ xe chở khách thường ngừng. Không xe nào chịu chở, vì tài xế biết đám người
đứng đợi là những người đi buôn hàng chuyến.
Chỉ còn một chuyến chót trước khi trời tối. Mọi người quyết định bằng giá nào cũng phải lên
được xe. Như mọi lần, sau khi lên xe,
nàng năn nỉ hành khách cho để nhờ ít hàng dưới chân họ. Với số lượng nhỏ không đáng gì để đám công an
xét hỏi.
Nhiều lần,
có lẽ vì thương tình, nhất là thấy nét mặt mệt mỏi sợ hãi của nàng, không phải
là thứ đi buôn chuyên nghiệp họ đã nhận hộ nàng. Nhưng lần này, người tài xế tức giận vì người
đi buôn không chia cho hắn phần lời, nên khi xe tới trạm hắn để mặc cho đám
công an kiểm soát. Những người đi buôn lẻ
bị gọi xuống xe mang theo hàng của mình.
Vì vốn bỏ ra nhiều, Thu đành cùng mấy người khác mang hàng đứng đợi trước
trạm. Tên công an trạm vất hàng vào một
góc phòng và bảo mọi người đứng đợi trước trạm chờ ngày mai giải quyết.
Lúc này đã
hơn 11 giờ đêm, mọi người xin hắn bỏ qua vì đây là cách duy nhất mà có thể kiếm
sống nuôi đàn con nhỏ ở nhà. Hắn vẫn một
mực không chấp thuận. Ðến 1 giờ sáng,
Thu nóng ruột các con ở nhà, chắc chúng đang lo lắng đợi nàng về. Nàng quyết định để hàng lại và đón xe đi về. Thu đứng đợi cả giờ trước trạm mà không có xe
nào chạy qua.
Gần hai giờ
sáng mới có chiếc xe chở hàng ngừng ở trạm.
Nàng năn nỉ tài xế và lơ xe cho đi nhờ xe về gần Sai-gon. Người tài xế bằng lòng. Trước khi lên xe người lơ xe bảo nhỏ nàng:
“Lão tài xế này tệ lắm, chị đừng nghe lời hắn dụ dỗ. Khi tới ngã năm xe ngừng chị hãy xuống ngay.”
Người tài xế
để nàng ngồi giữa hắn và chú lơ xe.
Trong suốt quãng đường hắn tán tỉnh đủ điều. Nàng nhớ hắn nói: “Em đừng ngại. Hãy đi theo qua. Cần tiền nuôi con qua cho tiền, muốn đi buôn
qua giúp đỡ. . .” Thu khiếp sợ khi nhìn
gương mặt dữ tợn của người tài xế, nhưng nàng vẫn phải im lặng. Ðến ngã tư Bẩy Hiền nàng bảo hắn cho xuống xe
nhưng hắn vẫn không ngừng. Nàng quát lớn
“cho tôi xuống đây”, hắn bực tức ngừng xe cho nàng xuống.
Sáng hôm
sau Thu lên trạm. Người công an gọi từng
người vào nhận hàng. Nàng cầm hai giỏ
hàng, bên trên là rượu đựng trong túi nhựa, phía dưới là đường và thịt. Hắn cầm chiếc bút BIC đâm thủng túi rượu nhiều
lần. Rượu trào ra thấm ướt thịt và đường
phía dưới.
Thu tiếc số
tiền bị mất kỳ này. Thịt tẩm rượu làm
sao bán. Còn đường đã tan dần dưới đáy
giỏ. Ðể gỡ vốn vừa bị mất, và vì nhu cầu
phải có hàng ngày, nàng vẫn phải đi buôn hàng chuyến. Vào những ngày hên kiếm được khá tiền lời,
các con nàng có bữa ăn ngon, nhưng có khi mất luôn cả vốn.
Thu thay đổi
mặt hàng mua về tùy theo nhu cầu của bạn hàng.
Mới 4 giờ sáng, Tuyết đã sang gọi nàng cùng đi. Nàng không ngưng nghỉ dù hôm đó là ngày lễ
hay mệt mỏi sau một đêm không ngủ. Ngày
này qua ngày khác, ăn không đúng bữa ngủ chẳng đủ giờ, người nàng tiều tụy
trông thấy. Quả thực nàng đã quên hẳn
mình. Từ sáng sớm tới đêm khuya, phấn đấu
với mọi trở ngại dọc đường, những cám dỗ xung quanh, nàng vẫn phải chịu đựng.
*
14.
(Biển Quy Nhơn) |
Thu không biết mình thiếp đi bao lâu, nàng chợt thức giấc
khi tầu ngừng bánh. Tiếng lao xao rao
hàng ở ngoài lớn dần, nàng hỏi bạn:
-“Tầu tới
ga nào đó Vân-anh?”
-“Có lẽ Diêu
Trì Thu ạ.”
Thu nâng
cao cánh cửa, gió mát lùa vào làm nàng tỉnh giấc. Thu chợt nhớ tới Quy Nhơn không xa nơi đây, một
nơi đã gợi cho nàng những kỷ niệm. Nàng
có cảm tưởng mình nhận ra vị mặn của biển khơi, với
hơi nồng của cát nóng. Nàng biết thành
phố này vì đã ghé qua đây nhiều lần. Một thành phố nhỏ nằm sát biển với những bóng
dừa râm mát. Từ thành phố này đi theo quốc lộ 19, phi trường nằm về bên phải, dựa
lưng vào đồi cát đỏ au. Quốc lộ len lỏi
giữa những cánh rừng, những đồi cỏ bát ngát.
Qua khỏi
đèo, phố chợ An-khê nằm sát bên quốc lộ.
Giòng sông Ba chẩy qua đã giúp cho vùng này có khí hậu mát mẻ, dễ chịu. Hai bên đường san sát rừng cây và đồi cỏ,
chen lẫn giữa nương rẫy thấp thoáng bóng nhà sàn của người miền núi.
Cuối quốc lộ
là thành phố Pleiku, một phố núi phủ sương.
Mà đến mùa nắng khô, ngọn gió Lào đã đốt cháy những cánh đồng cỏ tranh rộng
bát ngát, biến thành vùng đất đỏ như tấm vải mầu giăng ngang dưới ánh nắng mặt
trời. Những con xoáy cuốn cát bụi lên
cao hàng trăm thước, đã che phủ thành phố nhỏ bé này một lớp bụi hồng. Và khi gần đến những tháng cuối năm, những
cơn mưa dầm rả rích kéo dài nhiều ngày, càng làm cho thành phố đọng đầy gió núi
trở lên âm u, cô độc. Pleiku là thành phố đầy sương, nhưng đi xa vẫn nhớ.
Tầu lại
chuyển bánh tiếp tục lộ trình ra Bắc.
Tới ga
Thanh-hóa đã xế chiều. Thu nhớ lời chị
Tâm dặn là khi tới đây không kịp giờ vào trại, phải trọ lại qua đêm. Nàng và Vân-anh đứng đợi trước cửa ga, một
lúc sau có hai người đàn ông tới hỏi:
-“Hai bà có
cần gánh tới nhà trọ để chúng tôi giúp cho.
Hai bà đi thăm các ông cải tạo phải không?”
-“Bác giúp
cho chúng tôi đến nhà trọ nào gần, sáng mai chúng tôi phải ra bến xe sớm để vào
trại Thanh-cẩm.”
-“Hai bà
yên tâm đi theo chúng tôi.”
Mỗi người
gánh hai bao quà, còn Thu và Vân-anh theo sau.
Nàng nhớ là phải theo sát họ, tránh chuyện họ gánh đồ đi mất. Nàng và bạn cố gắng theo sau mà không kịp,
đành để họ chạy phía trước, mỗi lúc một xa dần.
Cũng may gặp hai người gánh thuê có lòng tốt, nên họ đứng chờ hai người
mỗi khi theo không kịp. Họ dẫn tới nhà
trọ và hẹn sáng sớm hôm sau sẽ gánh ra bến xe.
Nhà trọ đã
đông người, không còn chỗ nằm cho người tới sau, khung cảnh lại ồn ào tăm tối,
thiếu phương tiện vệ sinh. Thu bảo bạn:
-“Vào nhà
trọ này dù còn chỗ nằm chúng ta cũng không ngủ được, có lẽ sang quán nước bên cạnh
ngồi chờ trời sáng thì tốt hơn.”
Vân-anh đồng
ý. Hai người qua quán nước bên cạnh nhà
trọ, một căn nhà nhỏ mái rạ thấp lụp xụp. Ngoài hiên kê chiếc chõng tre, trên để mấy
bình kẹo bột, kẹo vừng, mấy nải chuối xứ, vài khúc mía. Một chồng bát đá ở đầu chõng, kế bên là vò nước
trà xanh ủ kín dưới lớp bao bố dầy. Mỗi
lần múc nước cho khách, khói trà bay nghi ngút.
Quán không có đèn điện, chỉ thắp một ngọn đèn dầu nhỏ cho khách châm lửa
hút thuốc.
Thu và
Vân-anh ngồi nơi hàng ghế đối diện với bà chủ quán, nàng gọi hai bát nước trà
xanh. Thu uống từng hớp nước trà nóng hổi. Dưới ánh đèn dầu, nước trà ngả sang mầu nâu
nhạt, có lẽ trà đã ủ lâu trong nồi. Nàng
thấy vị trà ngọt lịm, giảm dần sự mệt mỏi sau một đoạn đường dài. Thu ngỏ lời với bà chủ quán:
-“Chúng tôi
tới đây quá trễ thành thử nhà trọ không đủ chỗ nằm. Nếu có thể xin bà cho chúng tôi ngồi đỡ nơi
hàng hiên qua đêm nay, sáng mai chúng tôi sẽ đi sớm.”
-“Hai bà đi
đường xa cần ngủ cho lại sức. Nhà chỉ có
mấy mẹ con tôi, vẫn có giường để hai bà nghỉ lưng. Có điều nhà cửa chật hẹp xin hai bà đừng phiền.”
-“Bà cho ngồi
ở đây là quý lắm rồi. Sáng mai chúng tôi
ra bến xe sớm cho kịp giờ.”
-“Hai bà ở
trong Nam ra phải không?”
-“Vâng,
chúng tôi ở trong Nam ra, vừa xuống tầu là tới đây. Chúng tôi ra thăm nhà tôi và chồng chị bạn
tôi ở trại Thanh-cẩm.”
Thu đưa mắt
nhìn căn phòng. Một bên kê hai chiếc giường,
còn phía bên phải sau lưng bà chủ quán có một bộ bàn ghế thấp. Ngọn đèn dầu nhỏ không đủ soi sáng căn nhà nhỏ
bé. Qua cửa phía sau là nhà bếp và khu vệ
sinh. Bà chủ quán mời hai người uống
thêm bát nước trà nóng, và nói:
-“Hai bà nằm đỡ giường ngoài, ba mẹ con tôi
nằm giường trong.”
-“Như vậy sợ
làm phiền bà và hai cháu. Chị em chúng
tôi ngồi đây cũng được. Chẳng còn bao
lâu nữa trời sáng.”
-“Hai bà cứ
tự nhiên. Ði tầu xe mấy ngày đêm rất mệt
mỏi, hai bà cần đi ngủ sớm.”
-“Chúng tôi
rất cám ơn bà.”
Thu và
Vân-anh xách mấy bao quà để nơi góc phòng phía sau bộ bàn ghế. Vân-anh ngả lưng xuống chiếc giường trải một
chiếc chiếu trên lớp giát tre thưa. Chắc
bạn quá mệt mỏi vì không được ngả lưng mấy ngày trên tầu. Nàng trở ra ngồi đối diện với bà chủ
quán. Thấy nhà vắng người nàng hỏi:
-“Bà được mấy
cháu, chúng lớn cả chưa. Còn ông nhà chắc
đi công tác?”
-“Tôi có ba
cháu, một trai hai gái. Cháu trai đến tuổi
nhập ngũ, ở nhà với tôi chỉ còn hai cháu nhỏ.
Nhà tôi đi bộ đội vào Nam, đã từ trần từ lâu.”
-“Bà bán
hàng có khá không?”
-“Cũng chẳng
được bao nhiêu, gọi là kiếm một chút để các cháu có thêm bữa rau bữa cháo.”
-“Bà có làm
thêm việc nào khác chứ?”
-“Từ trước
tới giờ tôi vẫn làm cho hợp tác xã, nhưng mấy năm nay bão lụt mất mùa nên thóc
gạo đôi khi cũng khan hiếm. Nhiều tháng
xã viên chỉ được 5 ký thóc, xàng xẩy chỉ còn non 3 ký gạo.”
-“Như vậy
làm sao đủ gạo cho các cháu ăn?”
-“Nhiều lúc
cũng đành vậy, tôi cũng cố trồng ít bụi sắn, mấy luống rau sau nhà để có thêm
thức ăn cho các cháu. Cũng may dạo này đỡ
hơn lúc trước. Từ khi nhà nước đề ra
chính sách thăm nuôi, cho gia đình tiếp tay với nhà nước nuôi người cải tạo,
các bà ở trong Nam ra thường ghé quán tôi dùng nước.”
-“Ông nhà mất,
gia đình ta vẫn được tiền trợ cấp?”
-“Khi trận
chiến trong Nam mỗi ngày một mở rộng, nhà nước chỉ thị mọi gia đình phải góp
công góp của để thống nhất đất nước. Khi
nhà tôi qua đời, trợ cấp về vật chất thì không có, nhưng nhà nước có động viên
tinh thần nên đã cấp bằng khen.”
Thu nhớ lại
chuyện cũ, sau khi chiếm trọn miền Nam, nhà nước nhớ tới công ơn những gia đình
đã đóng góp cả người lẫn của cho cách mạng, trong thời kỳ đánh phá miền
Nam. Ðịa phương lập danh sách thân nhân
anh hùng liệt sĩ được ủy lạo. Báo chí
chính quyền có đăng hình phái đoàn nhà nước đến tận nhà các bà mẹ nuôi để thăm
hỏi tặng quà. Một bà cho báo chí và đại
diện chính quyền hay, ngoài của cải đã đóng góp, bà có bốn người cả con lẫn
cháu nội đã hy sinh cho “cách mạng”. Và
bây giờ còn lại thân một mình, bà sống nhờ tình thương của lối xóm. Món quà duy nhất bà nhận được gồm một hộp sữa
đặc, 5 đồng tiền mặt và một bằng ban khen.
Từ chuyện
xưa đến hoàn cảnh người trước mặt, bất kể là Bắc hay Nam, những thành phần dân
chúng đã đổ máu và nước mắt cho “sự nghiệp cách mạng” được hưởng những gì. Nhà nước đã có hành động nào để giúp đỡ những
người này. Hay vì tự thưởng công lao chiến
thắng, thành phần lãnh đạo trở lên giầu có, mà quên mất lớp nguời nghèo khó trước
mặt. Thu hỏi tiếp:
-“Cháu lớn
đi bộ đội có thường về thăm nhà không?”
-“Từ khi đi
đến giờ, đã mấy năm cháu chưa về thăm nhà lần nào. Chỉ biết đơn vị của cháu vào Nam, tôi cũng
chưa có thư của nó.”
-“Tôi nghĩ
trường hợp của gia đình nhà, ông đi bộ đội đã tử trận, nhà chỉ có một cháu trai
phải được hoãn nhập ngũ mới phải.”
-“Trước
ngày thống nhất, tình hình chiến trường miền Nam rất sôi động, địa phương có lệnh
các gia đình có con em tới tuổi phải nhập ngũ.
Không phải chỉ có con trai mà cả con gái nữa. Chúng tôi xót xa nhìn đám trẻ ra đi, mà có thấy
đứa nào trở về đâu. Những tưởng sau khi
đất nước thống nhất, đám trẻ được trở lại trường để lo tuơng lai của
chúng. Không hiểu tại sao chúng vẫn phải
ra đi, mà tôi nào có biết chúng đang ở đâu.
Liệu chúng còn sống hay đã chết, sao không thấy có thư gửi về.”
Bà chủ quán
tiếp lời:
-“Bà ở tỉnh
nào ngoài này?”
-“Quê nội
tôi ở Sơn-tây. Gia đình tôi di cư vào
Nam từ năm 54 khi tôi còn nhỏ.”
-“Hai bà có
ra đây thường không?”
-“Ðây là lần
đầu đi thăm nuôi, chúng tôi chưa biết đường, nên đi đến đâu hỏi thăm tới đó.”
-“Ðường đi
cũng không khó gì, nhưng hai bà mang nhiều đồ như thế cũng hơi vất vả một
chút. Hai bà yên tâm đi ngủ sớm, để có sức
đi đường ngày mai. Tôi sẽ gọi người gánh
đồ ra bến xe và mua vé giùm cho.”
-“Chị bạn
tôi về cho hay sơ qua đường đi từ đây vào trại Thanh-cẩm, nhưng tôi vẫn chưa biết
đâu vào đâu. Bà chỉ thêm cho thì hay quá.”
-“Từ đây ra
bến xe hai bà không phải lo, người mua vé sẽ nói tài xế nhắc bà khi xe ngừng ở
trạm nhà máy xay. Tại trạm có xe trâu chở
đồ vào trại. Hai bà coi chừng đồ cẩn thận
khi xe di chuyển dọc đường. Người giữ xe
trâu sẽ hướng dẫn hai bà đến nhà thăm nuôi.”
Thu cám ơn
bà chủ quán, nàng đưa bà chút tiền mà bà không nhận.
-“Cám ơn
hai bà đã nghĩ đến mẹ con tôi, nhưng hai bà đừng để tâm làm gì vì tôi có mất gì
đâu.”
-“Chúng tôi
rất cám ơn lòng tốt của bà đã giúp đỡ.
Không dám gửi tiền bà một đêm ở trọ, mà có một chút quà cho các cháu
vui. Xin bà nhận để chúng tôi không áy
náy.”
Thấy Thu
nói mãi bà chủ quán mới nhận tiền.
-“Hai bà
ghé đây có gì đâu mà cho cháu nhiều thế.”
-“Gọi là một
chút lòng thành. Lần sau còn ra đây, tôi
mới dám ghé vào.”
Nàng cảm nhận
lòng tốt của người đàn bà trước mặt. Nỗi
đau mất chồng và xa con không được một chút đền bù an ủi, mà hiện tại đang sống
trong tăm tối. Chế độ đã quên họ sau khi
tận dụng mọi khả năng đóng góp vào nỗ lực mệnh danh là “giải phóng dân tộc”. Một chiêu bài khơi dậy lòng yêu nước và khá hấp
dẫn đối với một số dân chúng hai miền trước đây.
Thu nhớ đến
số phận cô em gái đã đến thăm nàng sau ngày miền Nam bị chiếm đoạt. Em nàng cho hay, vào lúc chiến trường tại miền Nam khốc liệt,
để bổ sung quân số bị tổn thất, chính quyền miền Bắc đã đi khắp các địa phương,
bắt thanh niên đi nghĩa vụ quân sự, bất kể cả trường hợp trước đây được miễn.
Thanh niên
trong làng lẩn tránh nhiều lần. Sau khi
điểm danh các gia đình có con em tới tuổi không chịu thi hành nghĩa vụ, chính
quyền địa phương đã cắt giảm phần gạo cấp phát, lấy cớ gia đình không khuyến
khích con em làm nghĩa vụ. Nàng gặp người
em họ về Sài-gon chữa bệnh sau khi bị thương trên chiến trường Campuchia.
Thu cũng
không ngạc nhiên trước câu nói: “chúng tôi chờ miền Nam ra giải phóng. . .” và
những năm sau đó, khi người miền Bắc ghé thăm họ hàng ở miền Nam đã nói “tại
sao phải vượt biên, ở miền Nam không đủ sướng hay sao. Nếu cho tôi rời miền Bắc, tôi sẽ xin sống tại
miền Nam. . .” Em nàng cũng tâm sự:
“. . .Chúng
em ngỡ ngàng khi chính sách nhà nước không còn trước sau như một.
Em phải nói với chị một điều, dù tình nguyện hay bị ép buộc đi nghĩa vụ,
khi vào miền Nam, ít nhiều trong lòng chúng em, cũng có chút tình nghĩa đồng
bào dân tộc. Chính chúng em là những người
bị mất mát, đó là mất lòng tin vào chế độ. . . .”
Nhiều khi
Thu cũng không hiểu nổi tại sao nhà nước lại dối gạt người dân. Lợi dụng lòng tin của dân chúng hầu đạt được
mục đích của tập đoàn lãnh đạo. Ðó có phải
là yếu tố mà giới lãnh đạo miền Bắc xử dụng để chiến thắng miền nam. Liệu lòng tin của người dân đối với nhà nước
có còn bền vững hay không.
*
15.
(Sông Mã trước trại Thanh Cẩm) |
Thu và bạn dậy thật sớm, hai người từ giã bà chủ quán. Ðến bến xe trời vừa hừng sáng. Nàng thấy người gánh qùa nói nhỏ với tài xế,
và hắn vẫy hai người lên xe. Mặc cho người
tài xế la hét, hành khách vẫn chen lấn
mong có một chỗ trên xe. Thu
thông cảm sự vội vàng của khách, vì chỉ có một chuyến xe mỗi ngày.
Thấy quang
cảnh trước mắt, Vân-anh bảo Thu:
-“May có
người gánh thuê lo giúp, nếu bảo
mình chen vào mua vé giành giật như thế này thì cũng đành chịu. Không hiểu sao tại đây, vào thời điểm này, vẫn
còn cảnh không “xã hội chủ nghĩa” chút nào.”
Thu cười bảo
bạn:
-“Vân-Anh hẳn
còn nhớ một câu nói diễn tả sinh hoạt tại miền Bắc, nghe có vẻ tiếu lâm, nhưng
thật thấm thía: xếp hàng cả ngày, xếp hàng cả tháng, xếp hàng cả năm. Xếp hàng chửi nhau, xếp hàng choảng nhau,
Xã-hội Chủ-nghĩa.”
-“Mình cũng
nghe câu nói này. Chẳng qua mức cung không
đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của người dân.
Nhất là dưới chính sách kinh tế chỉ huy, nhà nước cho bao nhiêu thì người
dân được hưởng bấy nhiêu. Mình nhớ câu
chuyện thân nhân ngoài Bắc vào kể lại.
Anh xếp hàng để mua hàng, nhưng lần nào cũng vậy, cứ đến gần chỗ anh đứng
là không còn hàng bán. Vì vậy mới có người
đứng xếp hàng chuyên nghiệp, bán chỗ cho người tới sau.”
Thu tiếp lời:
-“Chẳng bù
với miền Nam trước ngày 30/4, người dân đi xe đò có khi bực mình với bác tài
chú lơ. Mỗi khi khách tới bến, các chú
lơ đã chạy tới đón. Kẻ bế em bé, người
xách đồ cho khách tới xe mình. Dù sao sự
bực mình cũng dễ qua nhanh, đa phần khách hài lòng vì được săn sóc chu đáo.”
Giờ xe chạy
ấn định là 9.30 giờ, mà tới gần 11 giờ xe mới khởi hành. Trong xe chật ních, không còn một chỗ trống để
xoay người.
Ðường lộ trải
đá, nhưng những cơn mưa rừng đã làm trôi lớp đất phủ mặt đường, để lộ lớp đá lồi
lõm với những ổ gà rải rác trên mặt. Xe
phải tránh các ổ gà nên khó chạy nhanh, lắc qua lắc lại liên hồi. Gặp lúc xe chạy nhanh, người Thu hất lên như
đầu sắp chạm vào mui xe. Hai bên đuờng
chạy dài những mảnh ruộng nhỏ, nhiều thửa đang cầy vỡ cho vụ mùa sắp tới. Thu thấy người kéo cầy thay trâu, một hình ảnh
không thấy ở quê nàng trước ngày di cư vào Nam.
Bác tài nhắc
hai người khi tới trạm nhà máy xay. Hai
người gom các bao quà trước trạm. Thu hỏi cán bộ ở trạm để thuê xe trâu vào trại
Thanh-cẩm.
Chiếc xe
trâu nhỏ vừa đủ chở những bao quà nên không có chỗ cho hai người đỡ chân. Thu và Vân-anh đi bộ theo sau.
Rời đường lộ
trải đá, xe trâu rẽ vào con đường đất phủ đầy bóng cây, con đường cong cong như
rắn lượn len lỏi giũa khu rừng tre. Qua
khỏi khu rừng là những vườn mía, thân cây thẳng đã mọc cao ngang vai, để lộ những
lóng mầu nâu tía phủ mờ một lớp phấn bạc.
Những vườn cây khoai mì thân cây
nghiêng ngả, phần đất xung quanh gốc đã
hiện ra những đường nứt, báo hiệu đã tới mùa thâu hoạch. Những vườn rẫy khoai mì mầu xanh đậm trải rộng
xa xa, khiến con đường đất phía trước như co mình hẹp lại.
Thu và bạn
bước nhanh theo xe, nàng hỏi người đánh xe trâu:
-“Còn bao
lâu nữa mới tới trại Thanh-cẩm hả anh?”
-“Ði qua
khu rừng phía trước là tới con suối. Từ
suối tới trại phải đi mất một giờ.”
-“Anh ở gần
đây không. Anh làm nghề này đã lâu
chưa?”
-“Cháu được
cán bộ cho làm việc này sau khi cháu là tự giác. Trại cháu ở giữa đường từ đây đến trại
Thanh-cẩm.”
-“Anh cũng
đi “cải tạo” hay sao?”
-“Vâng,
cháu can tội hình sự. Cháu ở đây đã hơn
hai năm.”
Người đánh
xe cầm chiếc nón lá đội trên đầu xuống làm quạt, Thu mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt. Hắn còn quá trẻ, thân hình gầy ốm. Chiếc áo nâu mỏng đã bạc mầu, không che được
đầu xương vai nhô lên. Nàng hỏi hắn:
-“Anh bao
nhiêu tuổi, đi “cải tạo” bao lâu rồi?”
-“Năm nay
cháu 19 tuổi, đã đi cải tạo bẩy năm.”
Vân-anh ngạc
nhiên hỏi hắn:
-“Khi đi “cải
tạo” anh còn nhỏ mà?”
-“Năm cháu
bị bắt chưa đủ 12 tuổi.”
-“Anh can tội
gì mà ở lâu thế?”
-“Vì nhà
cháu nghèo lại đông anh em. Chúng cháu
không có gì ăn, nhất là miếng thịt cả đời chưa biết, nên cháu bắt trộm con gà
hàng xóm. Người mất gà đi thưa nên cháu
bị bắt. Vì chưa tới tuổi thành niên cháu
phải ở trường Bộ, và khi tới tuổi cháu được chuyển về trại này.”
Thu hỏi:
-“Anh có biết
khi nào được về không?”
-“Cháu bị lệnh
“tập trung cải tạo” nên không biết trước ngày về. Lúc đầu cháu nghĩ, vì tuổi còn nhỏ, cháu ở một
lệnh là được tha. Nhưng sau khi ở quá một
lệnh cháu cũng không được tha. Cán bộ trại
bảo chưa “cải tạo” tốt nên chưa được về.”
-“Anh vừa
nói lệnh là thế nào?”
-“Một lệnh
là 3 năm tù.”
Vân-anh hỏi
hắn:
-“Cải tạo
thế nào mới cho là tốt?”
-“Khó mà biết
được khi nào là tốt. Chỗ cháu có người ở
3 lệnh mà vẫn chưa được về.”
-“Gia đình
anh có thường đến thăm nuôi không?”
-“Nhà cháu ở
xa lại nghèo. Cháu còn mấy đứa em nhỏ. Mẹ cháu chạy gạo cho mấy em cháu ở nhà đã hụt
hơi, lấy đâu lên thăm nuôi cháu. Mẹ cháu
lâu lắm mới lên thăm một lần.”
-“Trại cho
các anh ăn uống khá không?”
-“Chúng
cháu trồng được thứ gì ăn thứ đó. Bo bo,
sắn, ngô, khoai là thứ ăn chính. Còn
ngày lễ lớn hay Tết Nguyên đán mới được hai miệng bát cơm với vài miếng thịt
trâu kho muối. Ngày thường dù chỉ ăn sắn
luộc với muối cũng không được no. Tiêu
chuẩn ăn đã thấp mà còn xén đầu cắt đuôi.”
Thu tiếp lời:
-“Ngô khoai
sắn trại trồng nhiều như thế sao các anh không được ăn no?”
-“Mặc dầu
chúng cháu trồng rất nhiều, nhưng trại chỉ cho ăn theo tiêu chuẩn 11 ký chất bột
mỗi tháng. Phần ăn hàng ngày còn bị cắt
bớt để nuôi trâu nuôi lợn cải thiện vào dịp lễ Tết.”
-“Trại có
cho các anh học văn hóa hay một nghề chuyên môn nào, để khi về có phương tiện
kiếm sống không?”
-“Học nghề
chuyên môn thì không có. Suốt thời gian ở
trại chỉ có lao động mà phải đạt chỉ tiêu mức khoán, tối về mệt là lăn ra ngủ. Trong đời sống xô bồ thiếu hướng dẫn đúng mức,
chúng cháu bị ảnh hưởng bởi các bạn tù những cái xấu, những kinh nghiệm phạm tội. Cháu muốn trở thành người tốt cũng không có
cơ hội.”
Thu thông cảm
tâm trạng người tù trước mặt, ít ra còn ở nơi hắn một chút lương tâm, một ý tưởng
muốn trở thành người lương thiện. Nhưng
hắn phải sống hòa mình với tập thể để được yên ổn. Trong hoàn cảnh sống mạnh được yếu thua, nhất
là trong tâm tư hắn không còn một chút hy vọng ở ngày về, liệu hắn còn giữ được
lòng ngay thẳng. Hay với thời gian tù đầy
kéo dài, sẽ mất dần tính lương thiện. Kinh nghiệm tội phạm của tập thể sẽ tiêm
nhiễm, biến đổi con người hắn.
Qua khỏi
khu rừng tre, con suối lớn đã chắn ngang phía trước. Con suối rộng nước chẩy khá mạnh. Thu
không biết con suối sâu bao nhiêu, liệu có thể lội qua được không. Nàng quay qua nắm tay Vân-anh , bảo bạn:
-“Vân-anh cẩn
thận.”
Thấy hai
người ngần ngại, người đánh xe trâu nhắc chừng:
-“Hai cô lội
qua được, vịn vào xe mà đi. Vào mùa mưa
nước trên nguồn đổ xuống, có ngày mực nước cao ngang thắt lưng, nước chẩy rất mạnh. Bây giờ vào mùa nắng, con suối này không sâu
lắm. Buổi trưa khi cháu đi lấy trâu, mực
nước mới tới bắp chân.”
Ði hết khu
rừng, phía trước mặt trống trải, hai bên đường chỉ thấy trồng sắn và mía. Thu đã thấy từng đám nguời cải tạo có cán bộ
võ trang canh chừng. Vượt qua đám người
này anh đánh xe trâu mới nói:
-“Cán bộ trại
cấm chúng cháu nói chuyện với các cô các bác.
Ban quản giáo không muốn mọi người ở ngoài biết về sinh hoạt cải tạo lao
động của trại. Những người cải tạo vừa rồi
là tù hình sự thuộc trại của cháu.”
-“Trại các
anh ở có cách xa đây không?”
-“Cô thấy ở
phía xa, khu nhà bên trái là trại của cháu.
Từ đây đến đó còn hơn một cây số nữa.”
Khi tới gần
trại tù hình sự, số tù nhân lao động càng nhiều hơn. Họ đang quốc lật các gốc sắn lấy củ. Nàng không thể tưởng tượng được thân hình họ
gầy ốm dến thế, hai mắt trũng sâu, chiếc
đầu trông quá to so với thân người. Quần
áo rách vá chằng chịt. Thu hỏi người
đánh xe trâu khi thấy cán bộ võ trang đánh đập tàn nhẫn một người hình sự :
-“Các anh
thường bị đánh đập như thế sao?”
-“Vâng,
chúng cháu bị đánh khi phạm lỗi, như đi
lao động ăn trộm củ sắn sống. Chẳng qua
chỉ vì quá đói, cần một chút gì nhét vào dạ dầy để có sức lao động.”
Vân-anh động
lòng hỏi hắn tiếp:
-“Nghe nói
làm lỗi chỉ bị phạt kỷ luật, chứ đâu bị đánh tàn nhẫn như thế?”
-“Cuộc đời
chúng cháu bị khinh rẻ. Cán bộ trại thường
nói: “nuôi chúng cháu không bằng nuôi một con chó, vì nuôi chó còn được ăn thịt.”,
nên khi đánh chúng cháu cán bộ không bao giờ nương tay. Có người bị một trận đòn phải bỏ ăn mấy
ngày. Mặc dầu bị đòn, chúng cháu vẫn phải
ăn trộm hoa mầu mỗi khi đi lao động.”
Thu nhớ đến
chồng, không hiểu giờ này anh ra sao.
Thân hình anh có giống mấy người hình sự này không. Thấy đi đã lâu, nàng hỏi người đánh xe:
-“Từ đây tới
trại trong đi mất bao lâu nữa?”
-“Khoảng chừng
3 cây số nữa. Cô đi thăm bác trai lần đầu
phải không?”
-“Ðây là lần
đầu chúng tôi đi thăm nên chưa biết nơi này.
Anh có vào trại trong thường không?”
-“Cháu vào
trại trong mỗi ngày để lấy trâu kéo xe.”
-“Trại
trong có giống như trại các anh ở không?”
-“Trại các
bác ở đã có từ lâu nên toàn nhà xây.
Vòng tường trại cao gần mười thước, trên có vọng gác ngày đêm. Các bác ăn tiêu chuẩn như chúng cháu, nhưng
khi đi lại lao động cán bộ canh giữ cẩn thận hơn. Nếu hai cô gặp các bác lao động dọc đường, có
nói chuyện đừng để cán bộ thấy. Cán bộ bắt
gặp có thể cấm gặp mặt thân nhân, có khi còn bị phạt giam kỷ luật.”
-“Các bác ở
trại trong có được đối xử tử tế không?”
-“Các bác
“cải tạo” miền Nam thuộc diện chính trị nên khác với chúng cháu. Ðám hình sự chúng cháu mạng sống như con sâu
cái kiến, chẳng có gì quan trọng. Nhờ vậy
chúng cháu dù bị đánh đập tàn nhẫn nhưng sống thoải mái hơn các bác nhiều.
Với các bác, sự thù hận vẫn còn, nên khi vi phạm
kỷ luật khó lòng được dễ dãi. Trước đây
trại trong có vụ trốn trại, một người bị đánh chết tại chỗ. Người thứ hai bị đánh đập rất tàn nhẫn, bị bỏ
đói và chết một tuần sau đó. Hôm qua gia
đình người bị chết tới đây, chắc hiện giờ vẫn còn ở nhà thăm nuôi.”
Thu chợt
rung động khi nghe tin này. Nơi đây sinh
mạng con người không có một chút giá trị nào.
Nàng hỏi hắn tiếp:
-“Trại
trong có đông người không anh?”
-“Trước kia
chúng cháu ở trong đó với các bác. Khi
các bác ở trại Quyết-tiến Hà-giang chuyển về, chúng cháu phải dồn phòng, nhường
các bác một căn. Và khi các bác ở trại
Hoàng-liên-sơn tới, chúng cháu mới chuyển hẳn ra trại ngoài. Trại trong bây giờ lên tới cả ngàn người. Từ đây trở vào các cô sẽ thấy các bác lao động
dọc theo bên đường.”
Ðường đê
nâng cao dần. Khi tới đỉnh cao chỗ núi xẻ,
một phần núi bạt phẳng để làm đường, hai bên vách chỗ núi xẻ dựng đứng thẳng tắp. Phía dưới kia giòng sông Mã mầu nước đỏ đục
ngầu. Giờ này thủy triều đang lên, mặt
nước lấn dần vào bìa làng phía bên kia bờ sông, phủ kín cánh đồng cỏ rộng. Mặt sông trông càng rộng thêm.
Thu chỉ tay
về phía trước nói với bạn:
-“Vân-anh
thấy không, khu trại hiện ra ở đằng xa một mầu xám đậm, trông chẳng khác gì một
tòa lâu đài đồ sộ, cao ngất. Một bên là
giòng sông Mã nước mênh mông chẩy xiết, còn một bên là những cánh rừng trùng điệp
tiếp giáp với ngọn núi cao.”
-“Mình cũng
có ý nghĩ như Thu. Khung cảnh ở đây quá
huyền bí. Khu trại trông thật đơn độc, nổi
bật trên nền xanh thẫm của ngọn núi cao phủ mờ sương khói. Con đường đê nổi lên rõ rệt giữa cánh đồng cỏ
dại. Cảnh trí xung quanh tạo cho khu trại
vốn nổi tiếng hãi hùng càng thêm ghê sợ.”
-“Vân-anh
nói đúng. Người ta nghĩ tên Thanh-cẩm có
vẻ đẹp hơn, nghe êm dịu hơn, hay ít ra cũng làm cho người nghe ít sợ hơn. Nhưng thực ra chỉ mới đổi được cái nhãn bên
ngoài, còn bình với rượu vẫn là thứ cũ.”
-“Thu thấy
không, mấy ai biết tới tên trại này, còn người ngoại quốc chỉ được tới trại
“trình diễn”. Có ai đến nơi này để biết
sự thật về chính sách tù đầy của cộng-sản.”
-“Nhưng người
ta quên làm sao được ở trên kia là “Ðầm đùn” của vùng đất chết Chi-nê Hòa-bình,
còn dưới này là Lý-bá-sơ của Thanh-hóa.
Còn bao nhiêu trại khác nữa, có nghe thấy tên bao giờ đâu. Như trại Quyết-tiến thuộc tỉnh Hà-giang chẳng
hạn, mang danh là trại kỷ luật số 1 của Bộ công-an Hà-nội.”
Thu bước
nhanh theo xe, nàng hỏi người đánh xe:
-“Trại
trong chỉ có lối này vào phải không anh?”
-“Từ
Thanh-hóa vào trại có hai lối. Các cô đi
từ ga Thanh-hóa tới đây không qua phà là đường gần nhất. Còn lối đi qua ngả bến phà Cẩm-thủy, theo con
đường trải đá tới ngã ba, rẽ tay trái sẽ tới trại Lam-sơn, còn đi thẳng sẽ về
trại Thanh-cẩm. Phần đất này có tên là
Bái-thượng, đi không xa là tới biên giới Lào-Việt.”
-“Chúng tôi
muốn mua ít gạo, nghe nói trong làng Ngọc có bán, anh có thể chỉ đường đi vào
làng được không?”
-“Làng Ngọc
cách nhà thăm nuôi không xa lắm, chỉ hơn 1 cây số. Trong đó người làng có bán gạo và gà. Dân làng không cho tù hình sự chúng cháu vào
làng, lấy cớ đám tù chúng cháu vào phá phách hoa mầu của họ. Cán bộ trại cũng ít vào làng, vì biết dân
làng chẳng ưa thích gì mình. Bây giờ dân
làng chỉ cho các bác cải tạo miền Nam vào làng mà thôi.”
Thu nghĩ, tất
cả những điều xẩy ra trong làng chỉ là hậu quả của chính sách “cải cách ruộng đất”,
đã làm thương tổn đến truyền thống của người địa-phương. Các hợp-tác xã nông nghiệp được thành lập
nhưng không thành công. Những năm gần
đây, để thích ứng với hoàn cảnh, nhà nước đưa ra chính sách cho người dân được một phần tư hữu, và đóng góp một phần công sức
cho hợp-tác xãCuối cùng ruộng tư thì tốt, còn ruộng hợp-tác xã chỉ thâu hoạch bằng
một nửa.
Khi tới gần
chỗ núi xẻ, người đánh xe chợt nhắc:
-“Hai cô để
ý, từ chỗ núi xẻ tới nhà thăm nuôi, các bác miền Nam hay lao động dọc theo đường
đi. Không chừng các cô gặp các bác lao động ở đây.”
Qua khỏi chỗ
núi xẻ, một phần đã bạt xuống làm đường.
Mặt kia của ngọn núi, phần hướng về phía sông Mã, một số đông anh em “cải
tạo” đang lao động. Người đứng trên đỉnh
cao đào đá đẩy xuống dưới. Những người ở
dưới chân núi khênh vác, hay xúm đẩy những xe ba bánh chất đầy đá tảng đổ xuống
triền dốc. Một nền đất cùng độ cao với mặt
đường được san phẳng nhô ra phía bờ sông.
Trại muốn nới rộng mặt bằng để có thêm diện tích.
Họ im lặng
lao động, chỉ nghe tiếng xà beng đục xuống thềm đá, hòa lẫn tiếng cuốc xẻng và
tiếng hò đẩy những xe đá nặng. Anh em “cải
tạo” đi lại trong phạm vi lao động, trong khi công-an võ trang đứng gác xung
quanh. Thấy có gia đình thăm nuôi đi
qua, các anh dơ tay như chào hỏi. Thân
hình người nào người ấy đen xạm, gầy ốm.
Thu quay
qua nói với Vân-anh:
-“Chị Tâm
nói có gặp nhà tôi lao động trên quãng đường này khi chị ra đây. Ðã hơn một tuần rồi, không hiểu anh còn làm ở
đây không.”
-“Bạn để ý
xem, may gặp anh ấy ở đây.”
Thu nhìn về
phía anh em “cải tạo” lao động tìm kiếm hình bóng chồng nàng, nhưng nơi lao động
khá xa với đường đi, khó nhìn rõ mặt.
Phía trước mặt là ngã ba. Ði thẳng
là đường tiếp giáp với phía sau trại, còn ngả bên phải ôm sát giòng sông
Mã. Ðường bên trái vắng hoe, còn đường
bên phải nhộn nhịp các anh “cải tạo” đang lao động.
Khi thấy xe
trâu đi ngả bên trái, nàng hỏi:
-“Sao anh
không đi đường bên kia?”
-“Ðường này
đi tới nhà thăm nuôi nằm ngoài vòng trại.
Cháu không được phép đưa các cô đi đường kia, vì phải đi qua trước cổng
trại, mặc dù đường đó cũng đi tới nhà thăm nuôi.”
Thu đi sau
xe trâu qua chỗ ngã ba. Con đường bên
trái như một bờ đê cao hình cánh cung ôm trọn khu trại. Còn lối bên phải ở thấp phía dưới, chạy song
song với giòng sông Mã. Khi tới gần khu
trại, bức tường xây quá cao che khuất những mái ngói phía trong. Chỉ thấy vòng rào kẽm gai và các vọng gác
trên đầu tuờng.
Qua hết
vòng tường trại, tới một ngã ba Thu và bạn theo xe trâu rẽ về bên trái. Sân vận động nằm về bên phải chạy dài theo
con đường đất, nhà thăm nuôi nằm sâu dưới mặt đường nơi đầu kia sân vận động. Người đánh xe trâu giúp hai người mang những
bao quà vào nhà thăm nuôi. Nàng cho hắn chút tiền tiêu và một ít thuốc
lào.
Nhà thăm
nuôi đã có gia đình tới trước. Thu và
Vân-anh gặp cán bộ phụ trách thăm nuôi ghi danh xin gặp thân nhân. Cán bộ cho hay nàng sẽ gặp chồng lúc 9 giờ
sáng, sau đó tới Vân-anh.
Sau khi sắp
xếp chỗ nằm, Thu bảo bạn:
-“Vân-anh
hãy nằm nghỉ cho khỏe.”
-“Bạn cũng
nên ngả lưng một chút. Mấy ngày nay bạn
cũng mệt mỏi lắm rồi.”
-“Nhân lúc
chưa hết giờ lao động, mình muốn lại chỗ ngã ba xem có gặp nhà tôi không. Bạn nằm nghỉ, tôi đi một lát về ngay.”
Thu đi ngược
lại con đường vừa rồi. Tới ngã ba, nàng
di theo ngả bên phải sát giòng sông Mã về phía cổng trại. Nàng gặp một số anh em cải tạo đang lao động
bên đường. Họ im lặng nhìn nàng đi
qua. Chắc họ cũng mong đợi thân nhân, mặc
dù niềm hy vọng thật mong manh. Cũng như
chồng nàng, nếu không gặp người quen thì nàng biết đâu mà tìm đến.
Thu nhìn
quanh không thấy có cán bộ dứng gần, nàng hỏi một anh cải tạo trẻ tuổi:
-“Tôi là
thân nhân của anh Kim ở đội xây dựng, anh có biết đội anh lao động ở đâu
không?”
Anh mỉm cười,
chỉ tay về hướng cổng trại. Thu cám ơn
anh. Lòng bừng vui, nàng rảo mắt tìm kiếm
hình bóng chồng. Hai bên đường chạy dài
những hố cá nhân, từng nhóm ba người đang lui cui đào đất.
Nàng không
hiểu trại bắt họ đào làm gì những hố tránh bom đạn này, ở vào những năm đầu của
nền hòa bình vừa chiếm đoạt. Hay chỉ dự
phòng một trận không tập của người anh em Trung-hoa, đã từng là “hậu-phương lớn”
của nước Cộng-hòa Xã-hội Chủ-nghĩa Việt-nam anh hùng.
Thu chợt dừng
bước. Phía trước cách nàng chừng ba chục
thước, từ dưới hố một bóng áo xanh nhẩy lên.
Anh nhẩy lần đầu không thoát khỏi miệng hố, mặc dầu hố đào sâu chưa tới thắt lưng. Anh nhẩy lần thứ hai, hất chiếc nón lá ra khỏi
đầu vừa gọi tên nàng. Thu nhận ra chồng. Anh vừa nhớm chạy, nhưng chợt dừng lại khi
phía sau lưng có tiếng quát gọi tên anh. Nàng muốn chạy tới bên chồng, đuợc nắm tay anh
cho thỏa lòng mong đợi từ lâu. Khi thấy
chồng nàng dừng lại, Thu cũng vừa nhớ tới lời người đánh xe trâu nhắc nhở nên dừng
bước. Chỉ nghe anh nói: “Anh gặp em ngày
mai” trước khi rời con đường. Anh bước
vào căn nhà tranh nằm sau dẫy hố đào.
Còn lại
mình nàng đứng ngẩn ngơ, trơ trọi giữa đường.
Nhìn thấy vóc dáng chồng lòng nàng thật chua xót. Tại sao anh lại ra nông nỗi này. Chiếc áo xanh anh mặc cắt ngắn tay đã bạc mầu,
lưng và vai áo vá một miếng khá lớn bằng vải kẻ ô vuông. Nàng nhớ đã mang tấm khăn rằn này vào lần
thăm đầu tiên ở trại Gia-rai Long-khánh năm năm về trước. Anh mặc chiếc quần đùi vải xanh cắt ngắn hai ống
từ chiếc quần dài trại phát. Chân tay
anh khẳng khiu, đen đúa. Không hiểu anh có
bị một trận đau nặng nào không, hay chỉ vì đói ăn mà lao động lại quá cực nhọc.
Thu không
ngờ gặp chồng trong hoàn cảnh này. Nàng
không nói thêm được lời nào, ngoài tiếng “anh” nàng gọi phút giây đầu. Tiếng gọi của nàng như tắc nghẹn nơi cuống họng, không thoát ra khỏi
miệng. Nàng xững xờ để rơi hai hàng lệ,
niềm xót thương dâng lên trong lòng. Thu
nhìn lại nơi hố chồng nàng vừa nhẩy lên, hai bạn tù vẫn im lặng tiếp tục lao động. Dáng dấp gầy ốm, chắc tuổi đã cao vì mái tóc
gần như bạc trắng.
Thu nhìn về
phía chồng, anh đang đứng trước mặt người cán bộ áo vàng. Có thể anh đang nhận một lời khiển trách vì
vi phạm kỷ luật trại. Nàng lo sợ, liệu
anh có bị cấm gặp mặt thân nhân không.
Thu rời chỗ
chồng lao động, vì biết ở lại cũng chẳng ích gì. Nàng tiếp tục đi theo đường bên phải, con đường
như ôm sát giòng sông Mã. Nước sông chẩy
xiết đang dâng cao. Triền sông thoải dốc,
những đám lau sậy mọc chen chúc che khuất một phần bờ sông.
Vòng tường
trại thật cao, trên giăng nhiều lớp kẽm gai.
Ðầu cọc rào có gắn bóng đèn điện.
Các vọng gác có gắn bóng đèn cao thế, chia đều khoảng cách trên đầu tường. Cổng trại thật lớn, khung cửa gỗ dầy có chấn
song sắt lớn bằng cổ tay. Hai bên cổng
có trạm gác.
Qua khung cổng
trại, một sân đất rộng, hai bên hai dẫy nhà mái ngói vượt lên khỏi vòng tường
ngăn. Giữa sân trống là một hội trường,
mái tranh lợp thẳng đứng như kiểu nhà Rông của đồng bào miền cao nguyên Trung
phần. Phía sau hội trường, trên nền đất
cao, một dẫy nhà nóc bằng nhô lên khỏi bức tường dài chắn phía trước. Nghe người đánh xe trâu nói đây là khu kiên
giam, hiện giam giữ mấy chục vị Linh mục, tuyên úy Công-giáo. Giờ này còn lao động nên khu trại thật vắng vẻ. Không thấy một bóng áo xanh nào qua lại.
Qua khỏi bức
tường trại, Thu đã tới ngã ba, chỗ đường rẽ vào nhà thăm nuôi phía bên
trái. Trước mặt là khu cơ quan, gồm những
căn nhà mái ngói nằm lấp xấp từng dẫy.
Vân-anh hỏi
Thu khi gặp nơi cửa nhà thăm nuôi:
-“Bạn có gặp
anh ấy không?”
-“Mình có gặp nhưng chẳng nói được gì.”
-“Bạn gặp ở
chỗ nào?”
-“Từ chỗ
ngã ba đường rẽ về đây, mình theo đường bên phải, đi độ năm chục bước là gặp. Anh và hai người bạn đang đào hố cá nhân ở
bên đường. Anh chạy lại khi nhận ra
mình.”
-“Anh có khỏe
không. Bạn có nói chuyện không?”
-“Anh chạy
tới nhưng bị cán bộ bắt gặp. Mình không
hiểu có chuyện gì xẩy ra cho anh không.
Chỉ thấy anh đứng truớc cán bộ như đang nhận một lời khiển trách.”
-“Cũng mong
không có gì xẩy ra. Hy vọng cán bộ thông
cảm vợ chồng lâu ngày mới gặp. Bạn hãy
yên tâm. Mình vào làng mua vài thứ cần
thiết trước khi trời tối.”
Sau mấy
ngày trên tầu Thu cảm thấy quá mệt mỏi,
nàng thèm một giấc ngủ ngon tối nay.
Nhà thăm nuôi nhỏ lại đông người tới thăm, chỉ còn chiếc giường dành cho hai người. Nàng gật đầu chào thiếu phụ trạc tuổi nàng, đầu
quấn khăn trắng. Thu nhớ tới câu chuyện
người đánh xe trâu kể lại, chồng chị mới mất cách đây không lâu.
Xin xem tiếp VŨNG LẦY NƯỚC MẮT (PHẦN 2)
Xin xem tiếp VŨNG LẦY NƯỚC MẮT (PHẦN 2)
*
No comments:
Post a Comment