Monday, March 14, 2016

HỒ XUÂN HƯƠNG


Bắc Giang
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ...

 
Tôi không phải là thi sĩ, cũng chẳng phải là ..nhà thơ, phòng thơ, hay building thơ gì cả nhưng cứ mỗi lần đọc hai câu trên là..tức lộn ruột, huyết áp lên cao ngất ngưởng. Ðấy là tôi đang sống ở một xã hội văn minh của thế kỷ thứ hai mươi mốt với quan niệm sống thật phóng khoáng, cởi mở, nam nữ bình quyền, nếu không muốn nói trọng nữ, khinh nam. 

Ðiều làm tôi khó chịu nhất là thái độ ngạo mạn, trịch thượng của tác giả khi dùng chữ "chị" trong thơ văn của mình, nghe nó ..tức anh ách làm sao ấy! Tôi đã được đọc rất nhiều thơ từ cổ chí kim, từ đông sang tây mà chưa hề thấy bất cứ một tác giả nào dám ..ngông cuồng như bà... Hồ Xuân Hương. 

Thử tưởng tượng nếu bà Ðoàn thị Ðiểm hay bà Huyện Thanh Quan cũng xưng “CHỊ” thì còn gì là thể thống, khuôn phép nữa? (chị Thanh Quan, chị Điểm). Ngược lại dòng thời gian vài trăm năm trước, các cụ ta với quan niệm cổ hủ: 
Nhất nam viết hữu
Thập nữ viết vô,

 
bà Hồ Xuân Hương đã.. phạm thượng một cách nặng nề, nếu có được đi học (bà bỏ học năm 13 tuổi vì bố mất sớm) và được đi thi chắc bà cũng sẽ cùng số phận với biết bao sĩ tử thời đó: Thi không ăn ớt thế mà cay!
 
Vì đã phạm húy, phạm trường qui, dám khinh thưòng các cụ ..tai to mặt lớn, bằng cấp đầy mình, văn thơ lai láng! Ðiều đó cũng dễ hiểu tại sao là một nữ sĩ có tài, cũng có chồng là quan Tri phủ (ông Phủ Vĩnh Tường) mà bà không được trọng vọng, ngồi chiếu trên, thơ văn không được làm khuôn mẫu giảng dạy trong các trường trung học như bà Huyện Thanh Quan, Bà Ðoàn thị Ðiểm. Hơn thế nữa, bà có hai đời chồng là ông Tổng Cóc: 
Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi

và ông Phủ Vĩnh Tường: 
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!
Cái nợ ba sinh đã trả rồi.

Vậy mà bà không bao giờ được vinh dự mang tên chồng trong lối xưng hô thông thường của người Việt Nam khi lập gia thất, hoặc chức tước mà đức ông chồng đã có trong xã hội như bà..Tổng Cóc hoặc lịch sự hơn nữa: bà Phủ Vĩnh Tường, cũng như bà Huyện Thanh Quan, mà gọi bằng một cái tên tục cộc lốc: Hồ xuân Hương! 
Tôi thấy ở đây có sự ..unfair của các cụ thời xưa. Nếu giả dụ bắt đầu từ ngày hôm nay, từ dòng chữ này tôi gọi bằng .."bà Tổng Cóc" chắc chẳng ai biết tôi muốn nói đến nhân vật nào trong văn học sử Việt nam, mà còn làm trò cười cho thiên hạ! 

Nói đến sự nghệp văn chương, phải thú thật, mặc dù các cụ ta bề ngoài không tán thành cho lắm nhưng trong lòng vẫn nể phục với lối làm thơ lãng mạn, dí dỏm, chua chát, mỉa mai, tiếu lâm (nếu không muốn nói là hơi..tục), một trường phái mà bà là giáo chủ duy nhất mà không có giáo dân! 

Với hai đời chồng đều làm quan lớn, không con cái hủ hỉ lúc tuổi già, đến khi chồng chết lại trắng tay mở quán nước bên đường mưu sinh qua ngày, phải nói bà không những là người văn hay chữ tốt mà còn là người biết tự lập, tháo vát, không phải là những con ký sinh trùng của xã hội lúc nhỏ sống nhờ cha mẹ, lớn lên nhờ chồng, chồng chết nhờ con! Trong cuộc tranh sống hàng ngày, một thân gái "dặm trường" quanh quẩn bên quán nước bà đã gặp biết bao văn nhân thi sĩ đương thời mượn trà, mượn rượu tán tỉnh, suồng sã như trường hợp ông Chiêu Hổ và đã bị bà chọc xỏ:
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chỗ ấy hang hùm chớ mó tay!

 
Cái hay của thơ là bà đã dùng tên Hổ (tức là Hùm) để chỉ cái "ấy", một địa danh không được thanh tao cho lắm! Và cũng cái hay của bà là đã phản kháng một cách mãnh liệt rất ư là.. nghệ sĩ!
Này này chị bảo cho mà biết
Chỗ ấy hang hùm chớ mó tay!

Không như con gái thời nay chỉ biết ..say NO! NO! một cách yếu ớt! Rồi buông xuôi…tận hưởng !!! 
Nói về cuộc tình của nữ sĩ với ông Phủ Vĩnh Tường (chỉ vỏn vẹn có 27 tháng) tuy ngắn ngủi nhưng cũng nhiều giai thoại, điển hình là trong một ngày ông Phủ vắng nhà, có người đàn bà tên Nguyễn Thị Ðào đệ đơn lên quan phủ xin ly dị để lấy chồng khác, sau một hồi tra hỏi, lại gặp lúc thi hứng tràn trề, bà phóng bút chấp thuận: 
Phó cho con Nguyễn Thị Ðào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?
Chữ rằng "xuân bất tái lai"
Cho về kiếm chút, một mai kẻo già!

 
Tôi thích nhất lối dùng chữ hóm hỉnh, dễ thương của bà trong thơ mà hầu như ít có thi sĩ nào có khả năng đưa vào thơ của mình nếu không có một bộ óc vừa thông minh vừa khôi hài như chữ "khéo khéo" rất ư ..bắc kỳ trong: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
hay chữ "kiếm chút" nửa úp nửa mở làm cho người đọc phải dùng trí tưởng tượng một cách thích thú trong: Cho về "kiếm chút" một mai kẻo già!
 
“Kiếm chút” cái gì, tiền bạc chăng? danh vọng chăng? địa vị chăng? Chắc chắn là không phả; hoặc chữ "leo lẻo" bình dân, quê mùa. (Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai).

Tôi mở tự điển của Ðào Văn Tập, Nguyễn Văn Khôn, Ðào Duy Anh.. vân vân và vân vân, cũng không tìm ra chữ "leo lẻo" mà chỉ thấy mấy chữ leo cây, leo trèo, leo lét thật là.. vô duyên! 
Riêng đặc biệt với ông Cống Sinh vừa mới thi đỗ, xin phép làm  thịt trâu khao hàng xóm láng giềng, bà  phê ngay, trên đơn:
Người ta thì chẳng được đâu
Ừ thì ông Cống làm trâu thì làm!

 
Chữ "ừ thì" ở đây lại rất thân mật, giản dị, không khách sáo, thường dùng cho những người ngang hàng, trong trường hợp này bà Phủ Vĩnh Tường cho ông Cống Sinh được ngang hàng về phương diện văn chương  chữ nghĩa , khác với trường hợp "con" Nguyễn thị Ðào, một đứa nông  dân nghèo hèn vô học: Phó cho "con" Nguyễn Thị Ðào.
 
Nói về tài ứng đối thơ văn của bà, chắc không ai có thể sánh bằng, vừa lanh lẹ, vừa dí dỏm. 

Truyện kể một hôm nữ sĩ đi chơi gặp trời mưa trượt chân ngã, người lấm lem, chân xõng xoài dưới đất; hai tay, hai chân giơ lên trời, bạn bè, khách khứa được phen cười thỏa  thuê, bà từ từ đứng dậy khoan thai đọc hai câu thơ chữa thẹn: 
Dang tay với thử trời cao thấp
Soạc cẳng đo xem đất vắn dài.

 
Nếu ở trường hợp các cô gái khác, chắc vì xấu hổ sẽ đứng dậy .. khóc ròng, hoặc bỏ chạy một mạch về nhà.. mách mẹ!
Nhưng thơ Hồ Xuân Hương được nhiều người bết đến và làm đề tài tranh luận từ hàng trăm năm nay không phải là những bài thơ trên mà là những bài thanh-tục, tục-thanh như bài "Quả mít" , " Ốc nhồi", " Ðánh đu", " Ðèo Ba Dội" ... 
Thú thật, nếu bây giờ cho tôi viết tập làm văn với đề tài "trò hãy tả quả mít" chắc tôi sẽ..bí tịt chứ chưa cần phải làm thơ tả quả mít! Nữ sĩ chỉ với 4 câu ngắn ngủi đã diễn tả được hết quả mít một cách rành mạch, chi tiết mà lại còn làm cho người đọc liên tưởng đến "những chuyện" thần tiên đã bị.. dồn nén từ bao năm trong tâm khảm: 
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mắn mó, nhựa ra tay!

 
Tuyệt vời, tôi chưa thấy ai tả quả mít một cách đầy đủ, tài tình như vậy, từ da xù xì, đến múi dầy cơm vàng óng.
Ngày xưa ở nhà quê ta, các cụ mỗi lần hái quả mít từ trên cây xuống thường lấy cọc tre đóng vào cuống rồi phơi nắng cho nhựa trắng chẩy hết ra mới đem bóc vỏ, lấy từng múi mít béo ngậy thơm phức mà ăn. Hôm nay tôi ngồi đọc thơ Hồ xuân Hương mà thèm rỏ rãi! Có một điều lạ là không hiểu tại sao khi tả "quả mít" hay con "ốc nhồi" nữ sĩ đều liên tưởng đến  cái ấy và người.. quân tử: "Quân tử" có thương thì đóng cọc; và bây giờ thì: 
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi
Ðêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi
"Quân tử" có thương thì bóc yếm
Xin dừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.

Tôi thấy bài này có phần hay hơn bài trên ở chỗ tả một con ốc nhồi đen thui thủi ngày đêm bò lê bò càng trong đám cỏ hôi tanh, bẩn thỉu mà vẫn có người thương yêu, trìu mến, hôn hít, thậm chí dùng ngón tay ngó ngoáy mà chẳng sợ.. "hôi tanh mùi bùn"! 

Người ấy đâu phải là thường dân quê mùa ít học mà lại là những đấng hiền nhân quân tử! Tôi định xem lại Ðạo Ðức Kinh để tìm định nghĩa về người quân tử của Ðức Khổng Phu Tử nhưng bận quá lại thôi, nhờ các bạn tra khảo hộ xem người QUÂN TỬ có dư thì giờ làm cái chuyện bóc yếm, đóng cọc tầm thường ấy không??
Nói đến "bóc yếm" tôi lại nhớ hai câu thơ đã đọc được đâu đó từ thuở nhỏ: 
Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa
Mẹ tôi yếm thắm lên chùa đọc kinh.

 
Các cô gái thời xưa thường đeo yếm thắm xanh, đỏ trông rất đẹp mắt trong bộ áo tứ thân với chiếc nón quai thao lộng lẫy mà có ai đòi "bóc yếm" một cách công khai như thế này đâu!!

Trở lại chuyện ốc nhồi: Ngày xưa còn bé tôi ít được ăn ốc nhồi vì mẹ bảo ốc nhồi nhiều thịt béo ngậy, đắt tiền nên mẹ thường đi chợ mua một rổ ốc mút cả nhà mút xì xụp vui tai, hơn nữa ăn ốc mút giản dị hơn, chỉ việc cầm cái kìm nhỏ kẹp bể "cái lỗ trôn" rồi đổ nước mắm gừng pha tí ớt, xong cho lên miệng mút cái .."chụt" là thấy thấm thía đến cả lục phủ ngũ tạng! Tê mê tới tận trời xanh! 
Cái ngày còn mài đũng quần trong các lớp đệ ngũ, đệ tứ, tôi được học bài "Qua Ðèo Ngang" của bà Huyện Thanh Quan, sự thật không có gì xuất sắc (nếu không muốn nói là “TẦM THƯỜNG” , dưới trung bình, nhưng muốn có điểm cao cứ phải khen lấy khen để hầu làm vừa lòng thầy cô.  Thực ra, bà Huyện chỉ thấy gì tả nấy, như thấy con cóc trong hang nhẩy ra, ngồi đó, nhẩy đi, rồi lại ngồi đó, thì cứ thế thơ văn ào ào tuôn ra:
Con cóc trong hang

Con cóc nhẩy ra

Con cóc nhẩy ra

Con cóc ngồi đó

Con cóc ngồi đó

Con cóc nhẩy đi.
Thơ thật là đúng niêm luật, cụ Nguyễn Du có sống lại thì cũng phải …bái phục, bái phục !!!
Trở lại bài QUA ĐÈO NGANG của Bà Huyện Thanh Quan,  tôi có thể khẳng định mà nói rằng bài này không thể  nào so sánh với bài "Ðèo Ba Dội" của Bà Phủ Vĩnh Tường, rất ví von, nhẹ nhàng, thanh thoát, hóm hỉnh, tượng hình, tượng thanh, thôi thì đủ cả.
Chúng ta thử theo gót Bà Huyện Thanh Quan đến Ðèo Ngang vào một buổi chiều, mặt trời xế bóng, nhìn phong cảnh bao la, hùng vĩ của sông núi, những tia nắng vàng yếu ớt xuyên qua từng kẽ lá phản chiếu trên mặt nước long lanh của một con suối róc rách chẩy đâu đó, tạo thành một bức tranh sơn thủy tuyệt vời, âm thanh dịu dàng, tâm hồn người thơ như chìm đắm trong cái đẹp mơ màng của buổi hoàng hôn. Vậy mà Bà Huyện chỉ viết được vài câu tầm thường, không có gì  là lãng mạn, bóng bẩy:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà  
Nhìn xuống dưới thung lũng thấy cỏ cây hoa lá chen chúc mọc, bà đề:
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Xa hơn nữa vài chú tiều ốm-o gầy còm đang lom khom làm rẫy:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Nhìn chung quanh thấy vài căn nhà lác đác trên bờ sông, bà phóng bút:
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà. 
Thú thật tôi chẳng có một tí.. feeling nào hết!! Làm thơ như vậy ai làm mà chả được!! Thế mà cũng có không ít người xuýt xoa khen lấy khen để, làm ra vẻ ta đây cũng là người có… văn học ???
Ta hãy để tâm hồn lắng đọng lại, tưởng tựơng mình đang đi về miền quê ngoạn cảnh, qua miền đồi núi hương thơm ngào ngạt, xa xa con đường đất nhỏ uốn khúc chạy xuyên qua hết đèo này tới đèo khác lên cao bất tận, bà Phủ Vĩnh Tường đã phải dùng ba lần chữ "một đèo" để tả cảnh non nước hữu tình trùng trùng điệp diệp này của Ðèo Ba Dội: 
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạo cảnh cheo leo.

 
Thật là tuyệt vời !!
Ðến đây khách lữ hành xin hãy dừng chân ở một quán nước bên đường uống ly trà xanh nóng hổi, nhìn lại con đường cheo leo vừa trèo lên mà tự khen thầm "mình còn dẻo dai lắm chứ! ". Khác với bà Huyện , bà Phủ đến Ðèo Ba Dội lúc bình minh, mặt trời bừng sáng mở ra một vũ trụ mênh mông tươi mát, tiếng chim hót líu lo trên cành chào mừng một ngày mới, những cánh hoa muôn sắc đua nhau nở rộ như muốn quên đi cơn bão lốc đêm qua, đâu đó còn sót lại vài cành thông còn rơi tơi tả điểm những giọt sương mai trắng xóa long lanh trên cành liễu u sầu! 
Lắt lẻo cành thông, cơn gió thốc
Ðầm đìa lá liễu giọt sương mai

 
Ai qua cảnh Ðèo Ba Dội nên thơ hữu tình như vậy mà không xúc động, làm ngơ cho được: 
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo.

Cũng chẳng phải hiền nhân quân tử , đến như kẻ pham tục tử như chúng ta cũng vẫn muốn trèo để thưởng lãm cái đẹp, cái nên thơ của tạo hóa!! Tôi rất tiếc không có tài làm thơ để có thể họa lại bài này, và tôi cũng chưa được đọc bài thơ nào từ đông sang tây tả cảnh " trèo đèo" hay như thế, tình tứ , lãng mạn như vậy. Ðỗ Phủ, Lý Bạch, Thôi Hiệu .. làm sao sánh bằng! Quả thật thiên tài như Bà Phủ chỉ có một không hai. 
Tôi không biết phải viết gì để kết luận cho thiên phiếm luận này, khen, chê là công việc của những nhà phê bình văn học nghệ thuật, nhưng dù sao chăng nữa ta cũng thấy sự thiên vị rõ ràng giữa hai bà một Phủ, một Huyện, cái lỗi rành rành của bà Phủ Vĩnh Tường là không chịu theo khuôn phép do các cụ đặt ra cho "nàng thơ" nên mới ra nông nỗi này!
Tiếc lắm thay !!!!     
Bắc Giang

No comments:

Post a Comment