Trần Nhật Kim
(Dẫy núi bên kia sông đối diện với cổng trại Thanh Cẩm) |
Tuy nhiên, tin đồn cũng làm nhiều người điêu đứng. Một người bạn cùng phòng với tôi được bạn hữu cho hay kỳ thả tù này sẽ có tên anh, vì nghe nói anh có người họ hàng giây mơ rễ má làm chức vụ gì đó ngoài Hà Nội, một chỗ dựa khiến anh tin tưởng.
Trông anh vui hẳn lên, niềm vui đã làm anh thay đổi. Anh cho bạn các thứ đồ dùng, chia một phần thức ăn, vì nếu được về anh cũng không cần những thứ này. Thời gian trôi qua, đến ngày lễ lớn không có đợt nào về, niềm thất vọng tác động mạnh, khiến anh xìu xuống như một người mang bệnh nặng.
Tin đồn thả tù lần này xuất hiện từ đầu
tháng 8. Mọi người nghĩ đến ngày 19
tháng 8, kỷ niệm “cách nạng mùa Thu”.
Không khí vui nhộn ngày một lan rộng, một hiện tượng tâm lý vì trông đợi
lâu ngày. Theo kinh nghiệm những người
miền Bắc, 6 năm không về sẽ phải đợi thời điểm 9 năm và như thế kéo dài sự chờ
đợi, 3 năm một lần. Người ta ví “án lệnh
3 năm tập trung cải tạo” như một sợi giây thung kéo dài vô tận. Ngày lễ 19 tháng 8 qua đi, vẫn không có một
dấu hiệu nào xẩy ra. Tin đồn lại hướng
về ngày 2 tháng 9.
Một ngày sau khi đi lao động về, anh
Đèo Văn Tsé nói riêng với tôi:
-“ Cán bộ cho tôi hay có đợt tha vào dịp lễ này.”
Tôi tin lời anh Tsé, một người “Dân
Tộc” miền Bắc. Tính anh hiền lành và
thẳng thắng nên được cán bộ tin tưởng, nhưng tôi vẫn hỏi anh:
-“Anh có nghe rõ không. Cán bộ
nói là ngày nào?”
-“ Tôi có hỏi nhưng cán bộ chỉ nói tới đó.”
Tôi bảo anh Tsé:
-“Ngày mai đi lao động, anh hỏi lại cán bộ là trong danh sách đợt tha
này có tên anh không?”
Ngày hôm sau anh Tsé cho tôi hay:
-“Tôi đã hỏi lại và cán bộ cho biết đợt tha này có tên tôi. Cán bộ còn nói Chuẩn úy Hòa phụ trách mua vé
tầu.”
Tôi nghĩ tin đồn lần này có thể tin
tưởng phần nào vì chính cán bộ quen anh Tsé nói. Tuy nhiên, tôi bảo anh Tsé:
-“Anh nói có quen cán bộ Hòa, nên đi hỏi cho chắc ăn.”
Đối với tôi hình ảnh “được tha” rất mơ
hồ, tôi nhớ tới ngày lãnh gói quà 3Kg mà vợ tôi gửi qua đường bưu điện. Khi Thiếu úy Lăng gọi tên tôi lên lãnh quà,
có sự hiện diện của Đại úy Bông, Trại Phó.
Thấy tôi, Đại úy Bông hỏi:
-“ Anh Kim đi lãnh quà phải không?”
-“ Thưa vâng.”
-“ Anh có nhận được quà thường xuyên không?”
Tôi tự nhủ, mới từ trại Quyết Tiến
(Cổng Trời: huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang) chân ướt chân ráo về trại này làm gì
có phiếu gửi quà. Trong mấy năm nay gia
đình tôi cũng không biết tôi ở đâu. Khi
về trại này, nhờ bạn có gia đình tới thăm nuôi nhắn tin dùm nên vợ tôi mới biết
tôi ở đây. Không hiểu vợ tôi lấy phiếu
gửi quà ở đâu, hay nàng mua chợ đen tại khu bưu điện Sài Gòn như lời đồn. Tôi chậm rãi trả lời:
-“ Mấy năm đi cải tạo, đây là lần đầu tiên tôi nhận được quà.”
Đại úy Bông đột nhiên đổi giọng với vẻ
giận giữ:
-“ Gia đình anh gửi quà cho anh nhiều vào, anh ăn cho khỏe để chống lại
nhà nước.”
Tôi im lặng mỉm cười. Qua khung cửa sổ, bên ngoài tấm vách ngăn,
hai anh Tô Tứ Hướng và Nguyễn Khắc Linh đang đợi đến lượt vào lãnh quà, đã nghe
rõ câu Trại Phó nói. Tôi nghe thấy hai
bạn nói nhỏ: “Chuyến này Kim thê thảm rồi, bị trại Phó ghim thì khó mà sống yên
thân.” Tôi quay nhìn ra ngoài, thấy anh
Hướng dơ cao ngón tay cái.
Dưới sự chứng kiến của trại Phó, gói
quà của tôi trong tay cán bộ Lăng đã trở thành một mớ xà bần. Ngay ống thuốc đánh răng cũng bị hắn tháo
phần đáy, lấy chiếc đũa tre ngoáy bên trong, không thấy gì, hắn liệng ống kem
vào gói quà. Bánh thuốc lào hiệu 3 số 8
cũng bị xé nhỏ. Hắn nghi ngờ trong gói
qùa của tôi có dấu những thứ trại cấm, như tiền hay tài liệu vo tròn trong thức
ăn. Dù sao gói quà đến với tôi thật đúng
lúc. Tôi đang ở trong tình trạng hạn hán
đợi mưa, như cây khô chờ từng giọt nước.
Phần thịt trên người đã để lại trên trại Cổng Trời, thân thể tôi chỉ còn
da bọc xương…
Tin đồn ngày một rõ. Một số anh cũng được cán bộ cho hay có đợt
tha vào dịp lễ này. Tôi cũng chỉ biết
vậy, không mấy hứng khởi, vì hồ sơ của tôi đã ghi đầy đủ nhận xét của những
trại tôi đi qua. Từ trại Ty lên Thành
với hàng chữ “CIA nằm vùng” in đậm bằng bút chì mầu đỏ, đến các trại miền Bắc,
cả “xấu lẫn kém”, kèm thêm hình ảnh một tên “Phản động, chống lại cách mạng và
nhà nước Cộng Sản”.
Vào
một buổi sáng đầu tháng 10, chúng
tôi được lệnh tập họp dưới sân trại vào trước giờ lao động. Khi Ban
giáo dục của trại đến. Một cán bộ đứng trước hàng chúng tôi nói lớn:
“Tôi gọi tên người nào, người đó đứng
lên bước sang bên xếp hàng. Các anh có
tên trong đợt tha kỳ này về phòng thu xếp đồ dùng cá nhân, sẽ được chỉ định chỗ
ở sau.”
Hắn cầm tờ giấy đánh máy đọc tên 34
người. Các anh Tô Tứ Hướng, Nguyễn Ngọc
Liên và anh Nguyễn Văn Thành cùng phòng 5 với tôi có tên trong danh sách về đợt
này. Một số tên khác được gọi tiếp. Tôi ngỡ ngàng khi nghe đọc tên mình. Tôi chưa kịp có phản ứng, thì người bạn ngồi
bên cạnh vỗ nhẹ lưng tôi, nhắc: “có tên anh”.
Tôi đứng lên theo các bạn được gọi tên trước ngồi theo hàng bên cạnh
hàng các đội đi lao động. Trong danh
sách có 34 tên nhưng chỉ có 32 người thuộc trại Thanh Cẩm, còn hai tên khác
nghe lạ hoắc. Mãi sau này tôi mới biết
có 2 người thuộc trại Thanh Cẩm được về kỳ này cho đủ số 34, nhưng bị đưa lầm
tên sang trại khác và 2 người thuộc trại khác lại có tên trong danh sách chúng
tôi.
Chúng tôi được chuyển lên “khu Kiên
giam”, sẽ ở đây ít ngày để đợi tầu về miền Nam.
Khi lên khu kiên giam, anh Hướng nhắc
lại chuyện cũ:
-“Kể cũng lạ, khi rời trại Nam Hà trại thưởng công cho anh ở căn nhà mới
vài giờ vì anh đã đổ mồ hôi hoàn chỉnh, để có chỗ cho anh em từ Hoàng Liên Sơn
chuyển tới, còn bây giờ, anh lại được lên khu kiên giam ở vài ngày trước khi
về.”
Khi tới trại này, tôi và anh Hướng góp
“góp bữa ăn chung” và bây giờ chúng tôi lại về chung một chuyến tầu. 32 anh em chúng tôi chia nhau chỗ nằm trên
khu kiên giam, nơi mà 2 năm trước tôi và anh Hướng đã góp sức xây dựng.
Đứng trên khu kiên giam nhìn xuống, hai
dẫy nhà hai bên và cổng gác ôm trọn khoảng sân rộng. Ở giữa sân, căn hội trường chiếm một khoảnh
đất gần phía khu kiên giam, mái dốc đứng như căn nhà Rông của người Thượng vùng
Cao Nguyên Trung phần. Hội trường lâu
ngày không còn xử dụng, mái tranh xơ xác, tả tơi. Từ cổng trại, vượt qua con đường nhỏ chắn
ngang, giòng sông Mã nằm sâu phía dưới. Dòng
nước phù sa đục ngầu, cuồn cuộn như bóng ngựa phi.
Nhớ lại chuyện cũ, vì tình hình chiến
sự ngày một nghiêm trọng tại các tỉnh vùng biên giới phía Bắc, chúng tôi rời
trại Quyết Tiến chuyển về đây. Chúng tôi
xa dần vùng đất chết “Cổng Trời”, rũ bỏ được nỗi ám ảnh bỏ xác trên “đồi Bà
Then”. Tôi thoát được nơi rừng xanh núi
biếc quanh năm sương phủ của vùng biên giới, về đây, trại Thanh Cẩm với nắng
ấm, khí hậu ôn hòa bên dòng sông Mã. Tôi sống ở trại này đã 4 năm với nhiều kỷ
niệm.
Nhóm Quyết Tiến chúng tôi có 48 người,
chuyển tới trại Cổng Trời từ nhiều trại tại miền Bắc, được đưa vào căn nhà mang
số 5, căn nhà cao nhất dẫy về phía bên trái, sát với khu kỷ luật. Tại đây, chúng tôi được lập đội, mang tên “đội
16”, đội “xây
dựng nhẹ”. Một đội mà người nào người
nấy như bộ xương biết đi, thân xác tả tơi như những con “cò ma” gặp ngày mưa
bão, mà các bạn trong trại ưu ái đặt cho tên “Đại đội Trừng giới”.
Sau vài ngày ổn định chỗ nằm, một số
anh em trong nhóm “Quyết Tiến” đi kỷ luật, trong đó có các vị Linh Mục. Có phải đây là một hành động dằn mặt những
người mới tới, hay trại muốn ngăn ngừa hành động bất trị của chúng tôi có thể
lây lan trong trại. Đến lượt Nguyễn Tiến
Đạt, một người anh em trẻ nhất trong nhóm tôi, đã cùng tôi dắt díu nhau từ trại
Ty lên Thành rồi chuyển ra các trại miền Bắc, cũng vừa lên khu kỷ luật.
Chúng tôi chưa có công việc nào gọi là
ra hồn, vẫn chỉ làm vệ sinh trong khuôn viên trại. Vào một buổi lao động, một cán bộ trẻ đi qua,
thấy anh Nguyễn Đức Khuân đeo kính cận, hắn gọi anh tới gần, nói lớn:
-“ Sao anh đeo kính khi lao động?”
Khuân trả lời hắn:
-“ Tôi cận thị nên phải đeo kính.
Tôi đã đi qua nhiều trại trước khi tới đây, chưa có cán bộ nào thắc mắc
tôi đeo kính khi lao động.”
Hắn bực tức trước câu trả lời của
Khuân. Mọi người dừng tay chờ xem hành
động của hắn. Có tiếng nói trong đám anh
em:
“Nó ngu thật, cận mà không cho đeo kính
khác gì mù.”
Hắn nghe rõ câu nói, quắc mắt nhìn về
phía anh em như tìm người vừa buông lời sỉ nhục. Hắn quay qua Khuân, quát lớn:
-“ Đưa kính đây.”
Khuân đưa kính cho hắn. Hắn cầm kính ném xuống đất, đè gót giầy lên
rồi bỏ đi. Khuân như kẻ mù, mắt cận nặng
nên không nhìn rõ hình ảnh trước mắt, nhất là sau thời gian dài trong phòng
tối, cái đói và cái khổ cùng cực đã làm đôi mắt anh ngày càng tăm tối.
Mọi người đều tức giận. Sau vụ của Khuân, không khí sinh hoạt của đội
16 có vẻ căng thẳng. Trong một buổi sinh
hoạt hàng tuần, anh Lê Văn Khương (Chín Khương, tòng sự tại trại giam Côn Sơn)
đưa lời phản đối hành động của cán bộ trại, anh bảo anh thư ký buổi họp:
-“Xin anh ghi rõ và đầy đủ lời phát biểu của tôi.”
Mọi người chưa biết anh nói gì, nhưng
nét mặt anh đầy vẻ bất bình. Anh nói
tiếp:
-“ Từ sau ngày miền Nam bị xâm chiếm và trong suốt thời gian đi tù tại
các trại từ Nam ra Bắc, tôi xác định một điều, chế độ cộng sản là một chế độ vô
nhân đạo, tước bỏ quyền sống của con người.
Tôi không bao giờ chấp nhận và không thể sống chung với chế độ bạo tàn
này.”
Anh thư ký ngưng viết, nhìn anh Chín
như thầm hỏi anh có ý định thay đổi lời vừa phát biểu không. Anh Chín quay qua anh thư ký nhắc:
-“Xin anh ghi lời tôi phát biểu đầy đủ.”
Anh
thư ký vẫn chưa ghi vào biên bản,
quay nhìn anh em trong phòng như dò hỏi, để xem có lời nào can ngăn. Cả
phòng vẫn im lặng. Bất chợt, phút giây căng thẳng vụt biến mất,
trả lại không khí vui tươi cho mọi người.
Anh thư ký nhìn các bạn mỉm cười.
Tập thể “Đại đội trừng giới” đã vượt qua nhiều thử thách, “48 người” vẫn
chỉ là một.
Buổi họp vẫn sôi động. Đến lượt anh Ninh Vệ Vũ giơ tay xin phát
biểu, mọi người im lặng chờ nghe. Vũ
nói:
-“ Tôi quyết tâm. Thà chết không
chấp nhận chế độ cộng sản. Một chế độ
hủy diệt quyền tự do của con người…”
Tôi nhìn Vũ bắt gặp một nụ cười. Anh vẫn như ngày nào, hồi còn ở trại Phan
Đăng Lưu, Sài Gòn. Ra vào phòng kỷ luật
như cơm bữa. Anh đã hưởng mọi kiểu còng,
từ xích chân xích tay trong phòng tối, đến xích thành xâu người tại phòng 7 khu
A. Tôi nhìn anh Chín đến Vũ, nét mặt vẫn
cương quyết. Tôi cảm phục họ, những người
bạn cùng chung một chiếc thuyền, có chung bầu tâm huyết.
Mấy ngày sau anh Chín Khương đi “làm
việc”. Khi đội lao động về, chỗ nằm của
anh Chín trống trơn. Anh đã ra khỏi
phòng. Anh Chín Khương không có trên khu
kỷ luật. Anh đã chuyển trại. Sau này có người bạn cho hay, anh Chín chuyển
về trại Nam Hà (Xã Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam Ninh), anh trở lên ngơ
ngác, không nhớ điều gì. Tôi liên tưởng
chính sách “tẩy não” mà chúng tôi đang “được cải tạo”.
Sau khi anh Chín rời trại, đến lượt Vũ
đi “làm việc”. Trước khi đi lao động tôi
bảo Vũ:
-“ Chuyện đến đã đến. Có chuyện
gì anh nhắn cho anh em biết.”
Vũ mỉm cười trả lời:
-“ Chuyện cũ tái diễn. Tôi đã sửa
soạn tinh thần xa anh em một thời gian.
Dù sao chúng ta cũng vừa trải qua những ngày thật vui và đáng ghi nhớ.”
Nguyễn Đức Khuân và Nguyễn Tiến Đạt đi
kỷ luật nhiều năm tại trại Thanh Cẩm.
Chúng tôi hiểu, Bộ Nội vụ nắm giữ mạng sống của chúng tôi, nhưng thân
thể chúng tôi lại nằm trong tay của đám cán bộ trại, nên họ có quyền hành hạ
chúng tôi theo ý họ.
Số anh em đội 16 đi kỷ luật khá đông,
nhân số còn lại hơn 30 người, nên thường đảm nhận những công tác vệ sinh trong
khuôn viên trại, như dọn dẹp khu kỷ luật mới vừa hoàn tất, gạch đá còn ngổn
ngang. Nhìn xung quanh khu kỷ luật chỉ
thấy vòng tường cao, trên giăng nhiều hàng kẽm gai. Không nhìn thấy khung cảnh phía xa, ngoại trừ
những tàng cây trên sườn núi thấp thoáng trên đầu tường.
Đến giờ giải lao, anh Đặng Văn Tiếp đề
nghị tôi hát lại khúc hát, mà có lần tôi hát cho anh nghe khi còn ở trên trại
Quyết Tiến, ghi lại những giây phút đen tối của một kiếp người, khi tôi bị giam
nhiều tháng trong phòng tối của khu kỷ luật trại Băng Ky, Gia Định. Tôi trả lời anh Tiếp:
-“ Có lẽ trong hoàn cảnh này tôi muốn diễn tả tâm tư của tôi, và có lẽ
của cả chúng ta, một ngày nào đó, không sớm thì muộn, chúng ta sẽ lần lượt bước
vào chốn này, chung hưởng nỗi cay đắng với các bạn trong kia.”
Dù không phải là ca sĩ, nhưng “hát hay
không bằng hay hát”, nhất là khi con người không nghĩ tới ngày mai xa xôi của
mình. Tôi hát lại bài hát “Cacho” dựa
theo âm hưởng nhạc bản “Paloma”, để diễn tả tâm trạng của người tù trong chế độ
CS, bị đầy đọa trong phòng tối, mà sự sống vốn thê lương ngắn ngủi, dù thức hay
ngủ cũng chỉ là những giấc mộng phù du.
Tôi dứt tiếng ca, anh Tiếp cười vui vỗ
tay, như quên hẳn sau lưng mình là khu kỷ luật thuộc vùng đất nổi tiếng Lý Bá
Sơ. Mái tóc điểm muối nhiều hơn tiêu,
khuôn mặt xương xương pha mầu trắng xanh xao thể hiện quãng thời gian khổ ải đã
qua, thêm đôi kính cận trông thật hiền hòa thân ái. Anh Tiếp cười vui:
-“ Mẹ kiếp, hát được quá đi chứ, đúng là ca sĩ thứ thiệt ngoài đời. Nếu có chiếc “kèn sắc” phụ họa thì hay biết
mấy. Nhưng không hiểu sao, với nhạc điệu
Tango trang trọng, vui tươi mà lời ca anh đặt lại đau thương như con tim đang
rỉ máu. Và giọng ca của anh lại tan nát
thê lương, diễn tả đúng kiếp sống không ngày mai của chúng mình. Phải! Chúng mình đang đi tới con đường
cùng. Chua xót thật…”
Tôi nhận ra, cũng nhờ tinh thần của
những lời ca, những bản nhạc làm trong tù đã giúp chúng tôi xoa dịu phần nào
lòng căm hờn luôn trỗi dậy trong một cuộc sống quá khắc nghiệt.
Rồi anh Tiếp đi kỷ luật. Anh tử nạn vào sáng ngày 2 tháng 5 năm 1979
vì những trận đòn thù trong một lần trốn trại.
Cùng trốn với anh có LM. Nguyễn Hữu Lễ, Đại tá Trịnh Tiếu, giáo sư
Nguyễn Sĩ Thuyên và anh Lâm Thành Văn.
Anh Tiếp bị đánh chết tại chỗ, thân xác anh được trật tự Bùi Đình Thi
kéo lê trên những bậc tam cấp qua cửa phòng 5, đường lên khu kỷ luật.
LM. Nguyễn Hữu Lễ không khá hơn bao
nhiêu. Cũng như anh Tiếp, LM. Lễ bị đám
cán bộ trẻ đánh hội đồng ngay bờ sông Mã.
Kéo qua cổng gác và tiếp tục đánh cho đến khi ngất xỉu, rũ xuống như xác
không hồn. LM. Lễ thật may mắn, trật tự
Thi tưởng ông đã chết nên ném xác anh Tiếp đè lên người ông. LM. Lễ được trật tự Thi kéo lên khu kỷ luật,
liệng bỏ vào phòng như một hành động phủi tay.
Sau này các nạn nhân sống sót sau lần trốn trại kể lại, trật tự Bùi đình
Thi cũng tiếp tay cán bộ, hành hạ thân xác các bạn tù.
Sau nhiều ngày trăn trở giữa sự sống và
cái chết trên nền đá nhơ nhớp, LM. Lễ tỉnh lại.
Thương tích bầm tím đầy người, tiêu và tiểu pha máu kéo dài cả
tháng. Không có thuốc chữa trị, cầm bằng
thần chết cận kề. Nghe Nguyễn Tiến Đạt,
một người bạn trẻ trong nhóm Cổng Trời chúng tôi kể lại, mỗi lần trật tự Thi
gánh phần ăn lên khu kỷ luật, hắn không dám vào phòng LM. Lễ vì xú uế xông lên
nồng nặc, nên gọi Đạt bị giam kỷ luật ở phòng bên cạnh sang làm vệ sinh phòng
LM. Lễ. Lợi dụng khi trật tự Thi ra
ngoài, Đạt nhúng chiếc khăn mang theo vào tô nước muối, và vắt những giọt nước
muối vào miệng LM. Lễ trước khi lau chùi người ông và dọn dẹp căn phòng. Có lẽ nhờ những giọt nước muối ấy phần nào đã
làm dịu những vết thương đang loang máu trong cơ thể LM. Lễ, và cũng nhờ ý chí
sống còn mạnh mẽ, ông đã thoát khỏi lưỡi hái của tử thần.
Anh Lâm Thành Văn chết sau đó một
tuần. Anh bị đau dạ dầy nên phần ăn cứng
càng làm dạ dầy của anh chẩy máu. Khi
chết chân của anh Văn vẫn còn trong vòng cùm.
Đại tá Trịnh Tiếu và giáo sư Nguyễn Sĩ Thuyên cũng chẳng khá hơn. Thân thể bầm dập vì những trận đòn thừa sống
thiếu chết, bị cùm xích lâu ngày trong phòng kỷ luật, sức khỏe yếu dần sau lần
trốn trại.
Vì không đủ nhân số cho một đội lao
động, trại đã chuyển một số anh em từ các phòng khác lên phòng 5. Anh Nguyễn Cao Quyền chuyển từ khu kiên giam
xuống đội 16. Dáng người cao nên trông
anh càng gầy. Anh luôn vui vẻ, thân ái
đối với anh em trong phòng. Rất may anh
còn đi lại được. Trong đợt chuyển phòng
lần này còn có anh Nguyễn Văn Thành, dược sĩ Phạm Văn Diệm và bác sĩ Trương
Khuê Quan. Theo nội quy của trại, bác sĩ
Trương Khuê Quan không được “hành nghề”, nhưng ông thường xem bệnh và cho lời
khuyên khi anh em bị bệnh.
Tôi nhớ tới bác sĩ Trương Khuê Quan có
lần nói: “nhiều người sợ không dám gần nhóm Cổng Trời các anh vì họ sợ bị ảnh
hưởng tới ngày về của họ. Nhưng tôi muốn
gần các anh, để được lây cái hên vì các anh thoát chết ở trại Cổng Trời. Tôi cũng thích câu anh thường nói: trời sập
cũng thế thôi.” Đây là câu tôi thường tự
nhắc nhở, vì cuộc đời của chúng tôi không còn nằm trong tầm tay của chúng tôi
nữa. Nên còn gì để lo, để sợ.
Đội 16 làm công tác xây dựng, các bác
Phạm Văn Diệm và Trương Khuê Quan trở thành phụ hồ trong tổ xây với tôi. Tôi đứng trên giàn giáo, kéo phụ hai bác
những thùng vữa đầy lên dàn dáo trước khi xây, tôi nhận ra sự thay đổi một cuộc
đời thật dễ dàng và chua xót:
“
Bác
sĩ Quan cuốc
đất,
Dược
sĩ Diệm phụ hồ…”
Phòng 5 ngày một đông. Các anh từ Hoàng Liên Sơn chuyển về đây, được
thành lập đội 15, ở một nửa căn phòng 5 gần cổng ra vào. Nhờ có thêm anh em ở phòng khác tới, không
khí đội 16 vui hẳn lên. Văn nghệ cũng
khởi sắc. Theo nhu cầu của các bạn trong
phòng, anh Nguyễn Cao Quyền đã chuyển lời các bản nhạc quen thuộc của miền Nam
từ tiếng Việt qua tiếng Pháp.
Ngày chủ nhật sân trại vắng tanh vì
trại cấm các phòng qua lại. Tôi nhìn về
phía cổng gác, tìm lúc cán bộ trực gác đi khuất, băng qua khoảng sân rộng cuối
hội trường để sang phòng 4. Một số bạn
“mê” giọng ca của Nguyễn Hữu Phúc, “Phúc giặc lái”, đã quây quần ở sàn
trên. Chúng tôi yên tâm vì có một số anh
em ngồi nơi cổng ra vào buồng, canh chừng cán bộ tới kiểm soát.
Bên ly trà bốc khói, chúng tôi lắng
nghe Phúc hát, giọng hát trầm ấm, êm dịu diễn tả nỗi lòng thương nhớ cố
nhân. Mà hiện tại chỉ còn là “Hoài Cảm”,
âm hưởng nghe như đứt đoạn “…chờ hoài
nhau trong mơ, nhưng có bao giờ thấy nhau lần nữa…” Tất cả chỉ còn lại ngậm ngùi để “…nhớ nhau muôn đời mà thôi…”
Khi Phúc hát đến khúc ca “Sài Gòn ơi!
Vĩnh biệt” của nhạc sĩ Nam Lộc. giọng ca của Phúc trở lên day dứt, uất nghẹn
như tiếng nấc tự đáy lòng làm nhạt nhòa nước mắt. Tất cả đã chìm vào dĩ vãng với những tiếc
nuối “…Sài
gòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời. Sài gòn ơi, thôi đã hết thời
gian tuyệt vời. .…”
Sài Gòn đã trở thành bất diệt, không
thể thiếu trong tâm tư người miền Nam, đã lưu lại trong lòng người tới đây
những hình ảnh dịu dàng nhưng trung thực.
Cũng nhờ tính “Người Sài Gòn” ấy, đã chan hòa một thứ tình cảm quyến
luyến, bao dung của người mẹ hiền, dang rộng vòng tay ấp ủ những đứa con lạc
lõng. Và chính “Người Sài Gòn” ấy cũng
thể hiện sự mời gọi của một người tình tha thiết thủy chung. Sài Gòn là nơi chốn đượm tình yêu
thương. Vì vậy, xa Sài Gòn vẫn nhớ, vẫn
mong muốn trở về.
Đời sống tinh thần của người tù cải tạo
khi vui lúc buồn bất chợt, phấn khởi lo âu lẫn lộn. Tâm tư luôn bị giao động với ý nghĩ không có
ngày về. Đang im lặng chịu đựng, bỗng
chốc lòng căm hờn trỗi dậy. Đêm 30 Tết
là đêm khó ngủ. Mọi người tưởng nhớ tới
khung cảnh gia đình xum họp đầm ấm. Sau
bữa cơm chiều, khi cửa phòng đã khóa phía ngoài, từng nhóm xúm quanh ngọn đèn
dầu nhỏ nhắc lại chuyện cũ, những thăng trầm trong thời gian tù đầy, những tăm
tối khổ ải đã qua. Bác Trần Duy Đôn chợt
lên tiếng:
-“Bác Kim, bác Quyền ơi! Hát cho
anh em nghe đỡ buồn. Nhớ nhà quá…”
Không riêng gì bác, vào giờ phút thiêng
liêng này, ai cũng liên tưởng tới gia đình.
Rồi chẳng cần men rượu, trên chiếu nằm sàn trên, Huỳnh Thế Hùng ngồi
quay lưng ra phía cửa sổ mở rộng, cất tiếng ca bản nhạc “Việt Nam – Việt
Nam”. Mọi người trong nhóm ca theo. Có lẽ đó là bản nhạc đầu tiên được ca vang
trong thời gian tù đầy. Tiếng hát trầm
hùng bùng lên, gợi nhớ tất cả một dĩ vãng đau thương với mảnh đất quê hương
miền Nam, mà những đứa con đã tận tụy một đời hy sinh bảo vệ, đang trầm luân
khổ ải trong kiếp sống nửa vời.
Vòng người được nới rộng, như muốn đóng
góp cho khí thế hào hùng, như men rượu lâng lâng thấm bầu nhiệt huyết. Mọi người thay nhau đơn ca những bản nhạc
tình cảm miền Nam, nhuộm thắm tình yêu quê hương đất nước. Rồi bất chợt lời ca uất hận, căm hờn trong
các bản nhạc sáng tác trong tù, diễn tả những thân xác tả tơi trong phòng tối,
quằn quại trên mặt nền nhơ nhớp vì trận đòn thù.
Nhạc bản “Đôi Giầy Dũng Sĩ” vừa cất
lên, tôi nhớ đến anh Nguyễn Văn Hồng, một sĩ quan trẻ tuổi, đã làm bài ca
này. Cả trại truyền nhau hát. Cán bộ trại bắt anh vào kỷ luật, cùm xích
ngày đêm. Anh đã gục ngã trong xà lim
tăm tối của trại Nam Hà (Xã Ba Sao, Hà Nam Ninh). Khi sáng tác bài ca này, anh chỉ có ước mơ
nhỏ bé, được là đôi giầy dưới chân lớp trẻ mai sau, đập tan xiềng xích, khôi
phục đời sống tự do hạnh phúc của quê hương.
Lời ca diễn tả:
“………
“Này em, ta
không quên đâu những ngày tù tội…”
“Này em, ta
không quên đâu mối thù muôn đời…”
“Cho tôi xin
một lần được chết,
“Cho em tôi
một trời yêu thương…” (*)
(*) Nguyệt San Chính Việt (Bản nhạc “Đôi giầy dũng sĩ”: trang 57-
Tháng1&2 2007)
Ngoài hiên, trong không khí giá lạnh
của ngày cuối năm, một cán bộ võ trang trẻ tuổi im lặng, thỉnh thoảng dừng lại
lắng nghe những dòng nhạc trữ tình của miền Nam. Hắn không có một phản ứng nào. Anh em trong phòng thấy hắn từ lâu, làm như
không biết có hắn đứng ngoài. Mọi người
vẫn say sưa ca hát, cố tận hưởng những giây phút quý báu hiếm có trong cuộc đời
“tù cải tạo”. Thấy hắn, tôi nhớ tới lời
của một cán bộ trẻ tâm sự: “Các bác được ở trong phòng ấm áp trong khi cháu
phải đứng gác ngoài trời vào mùa đông giá rét.
Các bác có nơi chốn để về, còn cháu có nơi nào đâu.”
Trong phòng vẫn ồn ào, tiếng đàn guitar
của anh Nguyễn Ngọc Liên chợt nổi lên, xoa dịu những tâm hồn đang ngút lửa với
thương hận tủi hờn. Tiếng đàn êm dịu hòa
theo tiếng hát của anh Nguyễn Cao Quyền trong bản nhạc “Khi Người Yêu Tôi Khóc”
chuyển qua lời Pháp với tựa đề “Larmes d’Amour”. Âm hưởng lời ca như những giọt nước mắt ân
tình của người vợ hiền đang ngóng đợi chồng về:
“Quand tes larmes tombent, le ciel est sombre. Ces perles d’amour froissent mes jours. Tes beaux jeux en larmes, c’est si
charmant. Sais tu, je t’aime si
doucement et si tendrement.
“Comme
l’éclair qui brille dans l’ombre du soir. Toi, pourquoi tu viens si
près de moi. Puis tu me donnes tant de désespoir. Vois tu tes larmes
de bonheur ravagent mon coeur…”
Nhạc bản “Nước mắt mưa ngâu”của Nguyễn
Đức Khuân nói lên tâm trạng người tù trong phòng kỷ luật, với chân xích tay
xiềng. Tương lai quả thật xa vời. Mọi thứ như vuột khỏi tầm tay. Có chăng chỉ còn hình ảnh yêu thương của
người vợ hiền. Lời ca diễn tả:
“Trời mưa hiu hắt như lệ em khóc đêm thâu.
Tiếng mưa tí tách tiếng mưa nhẹ khơi cơn sầu
Lòng ta tê tái với bao nhiêu nỗi thương đau
Bóng đêm mênh mông không gian chìm sâu
Đời cho ta biết bao ngày xa vắng âm u
Còn đem mưa bão táp trên cuộc sống lao tù….”
(Cuồng sĩ Thanh Cẩm)
Khuân đã sáng tác nhiều bản nhạc trong
tù, và khi chuyển các bản nhạc này ra ngoài bị bắt gặp, anh phải chịu thêm
nhiều năm đầy ải trong phòng kỷ luật.
Tiếng hát có khi lên cao, có lúc trầm
lắng, tắc nghẹn như tiếng thở dài. Mọi
người như bị khích động, lôi cuốn hòa nhịp với niềm vui, quên hẳn những hiểm
nguy đang rình rập lúc này, sẽ tới vào ngày mai hay những ngày kế tiếp.
Tôi ở căn nhà 5 này đã lâu, cùng với
các bạn cũ mà tình thân như ruột thịt, những người bạn đã chia sẻ với tôi những
giây phút đau thương của quãng đời “tù cải tạo” từ Nam ra Bắc. Như
“LM. Nguyễn Hữu Lễ, các anh: Tô Tứ Hướng, Vũ Văn Vang, Nguyễn Tốn Tính,
Mai Văn An, Dương Văn Lợi, Ngô Đình Thiện, Nguyễn Văn Hà, Trần Phụng Tiên, Mai Ngọc
Y, Nguyễn Tiến Đạt, Nguyễn Đức Khuân, Phạm Văn Thông, Đỗ Duy Hùng, Huỳnh Thế
Hùng, Phạm Hồng Thọ, Ninh Vệ Vũ, Nguyễn Sĩ Thuyên và Nguyễn Văn Huyền”.
Và những người bạn mới quen trong 4 năm
qua như các anh Nguyễn Cao Quyền, Nguyễn Ngọc Liên, Nguyễn Văn Thành, Đèo Văn
Tsé, Phan Công Tôn, Lê Ngọc Thạch, Phạm Phú Minh, Đỗ Việt Anh, Nguyễn Ngọc
Xuân, Nguyễn Khắc Linh, Nguyễn Văn Bảy, Lê Sơn, Nguyễn Văn Vững… đã cùng tôi
san sẻ những niềm vui hiếm hoi trong quãng đường nhiều cay đắng. Mà có những người bạn tôi đã không còn cơ hội
gặp lại, như tôi đã chia tay với những người bạn thân thiết vào mỗi khi đổi
phòng hay chuyển trại.
Sau một tuần chờ đợi vé tầu, chúng tôi
ra khu cơ quan, mỗi người nhận 23$ tiền ăn 3 ngày trên tầu và giấy ra
trại. Khi cầm giấy ra trại tôi nói với
các bạn, “đây là giấy biên nhận” chúng ta đã để lại vùng núi rừng này cả mồ
hôi, máu và nước mắt, đã chôn vùi quãng đời tuổi trẻ đẹp nhất của mình, để trở
về một nhà tù lớn hơn.
Khi đưa giấy ra trại cho tôi, cô cán bộ
Tư thấy tôi mặc bộ bà ba xanh trại phát, xé ngắn tay đã bạc mầu, trong khi các
bạn tôi mặc quần áo dân sự, cô hỏi tôi:
-“ Anh không có quần áo dân sự mặc về hay sao?”
-“ Thưa không. Tôi chỉ có bộ quần
áo đang mặc.”
-“ Anh mặc quần áo này về coi sao được.
Anh đợi tôi một lát.”
Cô chạy sang phòng bên lấy một bộ quần
áo nâu mới, thứ quần áo danh cho tù hình sự miền Bắc khi được tha. Cô bảo tôi:
-“ Anh mặc tạm bộ quần áo này, còn mới nên dễ nhìn hơn.”
Tôi nhận bộ quần áo nâu và cám ơn
cô. Nhưng tôi vẫn muốn mặc bộ quần áo
xanh trại phát cho tù cải tạo miền Nam trên đường về, mặc dù đã bạc mầu. Tôi muốn mặc vì hãnh diện là một người miền
Nam đã đi tù dưới chế độ CSVN.
Tôi nhớ mãi lời nhận xét của cô Tư, người mà
tôi, anh Hướng và anh Cảnh đã sửa nhà cho gia đình cô vào dịp Tết vừa qua. Khi công việc đã xong, cô Tư tỏ lời cám ơn và
hỏi:
-“ Gia đình các anh đã ra thăm nuôi chưa?”
Tôi trả lời cô Tư:
-“ Tôi có nhận được quà của gia đình gửi qua bưu điện. Trong 3 chúng tôi, chỉ có gia đình anh Hướng
mới ra thăm.”
-“ Tôi thấy gia đình các anh ra thăm mang hàng trăm ký quà, ăn cả năm
chưa hết. Khi khám quà tôi thấy đầy đủ
mọi thứ.”
Anh Hướng góp lời:
-” Chúng tôi thiếu dinh dưỡng đã lâu,
không thể ăn dè được. Hơn nữa anh em
chia nhau mỗi người một chút cho vui. Vì
vậy, gói quà cả trăm ký chỉ được 1, 2 tháng.”
Tôi có cùng ý nghĩ như anh Hướng, cuộc
đời tù cải tạo “no nhất thời, đói muôn thuở”, nay ở mai đi, di chuyển bất
thường, biết cách nào mà mang, mà giữ để ăn dè.
Cô Tư nói tiếp:
-“ Nhìn thân nhân các anh tới thăm nuôi, tôi biết gia đình các anh rất
khá giả, mặc dù các anh đã đi cải tạo mấy năm nay…” cô nhìn quanh căn nhà tiếp
lời: “nhà cửa của các anh trong Nam hẳn là khang trang đẹp đẽ, chẳng bù cho
chúng tôi, nhà cửa nghèo nàn, chật hẹp.”
Tôi nhìn cô Tư đang diễn tả thực trạng
đời sống của mình, nét mặt chứng tỏ lời nói.
Vì ở địa vị cô, là người đang có quyền, không cần phải nói một lời
“xuống nước” trước mặt người tù cải tạo.
Nên khi nói ra, phải là lời thành thật, một nhận xét sau thời gian chung
đụng với tù cải tạo miền Nam.
Tôi tiếp lời cô Tư:
-“ Chúng ta ở hai hoàn cảnh đời sống khác nhau, nhưng có điều cần thiết
là phải sống vui, cô hãy sửa soạn để các cháu vui Xuân.”
-“ Cám ơn các anh đã sửa nhà giùm tôi.
Sau khi quét vôi và làm lại nền, căn phòng sáng sủa hẳn lên.”
Chúng tôi ra nhà thăm nuôi, ngủ tại đây
một đêm, sáng sớm mai xe tới đón đưa chúng tôi ra ga Thanh Hóa. Anh Hướng đề nghị tôi sang khu gia đình cán
bộ mượn gạo để nấu bữa cơm tối nay, vì đã lâu chúng tôi không biết tới mùi hạt
gạo, nhất là trong không khí này. Tôi
tới nhà cán bộ Chương. Thấy tôi cán bộ
Chương hỏi:
-“ Anh Kim. Ngày mai các anh về
phải không?”
-“ Vâng. Sáng mai chúng tôi sẽ
rời đây.”
Cán bộ Chương hỏi tiếp:
-“ Anh cần gì không?”
-“ Trời đã tối, chúng tôi không thể vào làng mua gạo, định mượn cán bộ
vài lon nấu ăn tối nay. Sáng sớm mai
chúng tôi vào làng mua gạo sẽ hoàn lại cán bộ.”
Tôi thấy hắn ngưng giây lát, sau đó kéo
tôi vào căn trong gần bếp, mở nắp chum đựng gạo bảo tôi:
-“Đúng
ra tôi phải có chút quà mừng các anh được về. Rất tiếc nhà không còn
một hột gạo. Cả ngày hôm nay chúng tôi phải ăn sắn.”
Tôi thấy chum đựng gạo trống trơn, biết
hắn nói thật. Tôi bảo cán bộ Chương:
-“ Không sao cán bộ. Chúng tôi
muốn có bữa ăn để kỷ niệm ngày cuối cùng ở đây.
Cán bộ đừng để tâm.”
Tôi chào hắn và chúc vợ chồng hắn có
đời sống hạnh phúc. Chúng tôi có một đêm
chuyện vãn để sáng mai sẽ ra ga Thanh Hóa, sau đó mỗi người mỗi ngả, mỗi người
một cuộc sống khác biệt trong một xã hội mọi thứ đã thay đổi.
Chúng tôi dậy thật sớm uống ly trà
nóng. Phải 10 giờ xe mới tới đón. Hành trang của tôi chẳng có gì nhiều, ngoài
chiếc mền nỉ, chiếc màn lưới của Mỹ và bộ quần áo nâu cô Tư đưa ngày hôm qua,
tất cả để trong túi vải.
Tôi bước lên bậc tam cấp trước nhà thăm
nuôi. Trời còn tối. Khu gia đình cán bộ bên kia đường vẫn im lìm
say ngủ. Nhớ lại chuyện cũ. Khi sửa mái tranh khu gia đình cán bộ, tôi đã
chứng kiến nhiều cảnh xum họp rồi chia ly nơi nhà thăm nuôi. Và cả tiếng sáo miệng theo âm điệu bản nhạc “Người
Yêu Tôi Đâu” của các bạn tù đang ngóng đợi người thân. Tôi nhớ mãi gương mặt đầm đìa nước mắt của vợ
tôi khi chia tay vào lần thăm nuôi năm vừa rồi, cũng ẩn chứa nét đau khổ như
đêm tôi bị bắt tại nhà. Một hình ảnh
tưởng chừng đây là sự chia ly không hẹn ngày gặp lại.
Chúng tôi rời trại Thanh Cẩm vào lúc 10
giờ sáng trên một chiếc xe chở hàng không mui che, thẳng đường tới ga xe lửa
Thanh Hóa. Cùng đi với chúng tôi có
Trung Úy Tuy, Ban giáo dục và cán bộ Ba.
Khi tới ga, cán bộ Ba đi lo vé tầu.
Chúng tôi mời cán bộ Tuy vào một quán ăn đối diện ga xe lửa dùng bữa ăn
tối, vì từ sáng đến giờ tôi không có gì vào bụng. Trong túi tôi chỉ có 23$, chắc đủ ăn một
ngày. Tôi nhờ bà chủ quán bán hộ tôi
chăn màn và bộ quần áo nâu để có thêm tiền ăn đường.
Tôi gọi một ly nước đá chanh lớn, Sài
Gòn gọi là “ly cối”. Đã lâu tôi chưa
được nếm vị thơm của mùi chanh và cảm giác lành lạnh của viên đá tan dần trong
miệng. Tôi uống một hơi cạn ly nước
trước sự ngạc nhiên của bà bán quán.
Thấy cán bộ Tuy nhìn khi tôi uống ly đá chanh, tôi nói:
-“ Tôi thèm ly nước chanh này đã hơn 6 năm.”
Tôi lấy chiếc khăn mặt lớn còn mới, một
vật duy nhất còn lại trong bọc, mà vợ tôi mang ra khi thăm nuôi. Tôi đưa cán bộ Tuy và nói:
-“ Tôi chỉ còn cái khăn này biếu cán bộ.”
Cán bộ Tuy cầm chiếc khăn ngắm nghía,
chắc cảm thấy khác lạ đối với những chiếc khăn thường gặp. Tôi chỉ dấu hiệu mang chữ “Canon” phía đầu
cái khăn nói tiếp:
-“ Chiếc khăn này hiệu Canon. Sản xuất tại Mỹ.”
Tôi nhớ mãi lần chở phần gỗ trại cho
cán bộ Tuy trước khi hắn về hưu. Hắn mời
tôi bát trà xanh nóng hổi, loại trà tươi gia đình tôi thường uống tại miền
Nam. Trong câu chuyện hắn nói, khi giảng
dậy trên hội trường đã nói theo chính sách.
Chúng tôi chào cán bộ Tuy và CB Ba
trước khi lên tầu. 32 chúng tôi ngồi vào
một toa, chia nhau những hàng ghế gỗ có lưng tựa. Hai hàng ghế đối diện nhau, giữa có một bàn
gỗ nhỏ. Tôi và anh Hướng ngồi một ghế.
Tôi chọn chỗ ngồi sát bên cửa sổ, mong tìm một cơn gió nhẹ. Bây giờ đã vào cuối năm, mùa Đông miền Bắc đã
bắt đầu. Tầu chuyển bánh, đã gần nửa
đêm. Tôi tựa vào lưng ghế, duỗi chân lên chiếc bàn
nhỏ. Tôi nhắm mắt mong tìm một giấc
ngủ. Suốt đêm hôm qua chúng tôi không
chợp mắt, mải mê nói chuyện vì biết rất hiếm cơ hội gặp lại.
Hướng chợt quay qua tôi:
-“ Anh ngủ được không?”
-“ Mặc dù chúng mình thức trắng đêm hôm qua và cả ngày hôm nay trên xe
di chuyển, nhưng tôi vẫn cảm thấy khó chợp mắt.”
Hướng tiếp lời, giọng như chùng xuống:
-“ Chúng mình như vừa trải qua một giấc mơ, một thoáng đã hơn 6 năm qua
đi.”
-“ Tôi có cùng ý nghĩ như bạn.
Niềm vui đến với chúng ta thật bất chợt, cuộc sống của chúng ta như đang
ở ngoài tầm tay.” Tôi hỏi Hướng:
-“ Anh có ý định gì không?”
-“ Để về nhà xem hoàn cảnh gia đình ra sao rồi mới tính được.”
-“Các cháu của anh ở Mỹ ra sao?”
-“ Chúng ở với các em của tôi, ngoan và rất chăm học.”
Tôi mừng cho bạn đã có những hạt giống
tốt ở vùng đất hứa. Tôi chợt nhớ tới lời
cán bộ Chương: “Hồ sơ cá nhân của các anh sẽ chuyển về địa phương nơi các anh
cư ngụ để địa phương quản lý…”, tôi nhận ra một điều, đời sống riêng tư của
người dân luôn bị theo rõi, nhất là hoàn cảnh của chúng tôi, những người có nợ
máu với đảng và nhà nước cộng sản khó thoát khỏi cặp mắt của công an khu
vực. Tôi quay qua Hướng:
-“ Khi về, chúng ta bị địa phương theo rõi từng bước, chưa chắc đã sống
yên thân.”
Chúng tôi trở lên yên lặng. Khó nói ra những điều suy nghĩ riêng tư vào
lúc này khi mà hoàn cảnh xã hội đã hoàn toàn thay đổi.
Tầu đỗ ở ga Đồng Hới khá lâu, chúng tôi
có đủ thời gian tắm gội vì đã 2 ngày ngồi bó chân trên ghế và tối ngủ trên tấm
báo trải xuống sàn tầu.
Con tầu mải miết chạy, khi tới địa phận
Long Khánh, không còn bao lâu nữa sẽ tới Sài Gòn. Lòng tôi nôn nóng về nhà. Tôi chợt thèm hương vị cà phê, nên cùng các
bạn vào toa ăn. Theo lịch trình tầu
chạy, giờ này toa ăn cũng sắp đến giờ đóng cửa để thu dọn trước khi tới Sài
Gòn. Chúng tôi tới toa ăn, trong toa
không còn khách. Thấy chúng tôi, một cô
tiếp viên hỏi:
-“ Các anh cần gì không?”
-“ Chúng tôi muốn mua ly cà phê.”
Cô quay vào trong hỏi các bạn. Tôi nghe thấy một giọng nữ nói vọng ra:
-“ Mời các anh vào.”
Cô đứng bên cửa mời chúng tôi vào. Trong toa ăn có 5, 6 cô cả giọng miền Nam và
Bắc. Tôi ngồi vào bàn với các anh Nguyễn
Văn Thành, Tô Tứ Hướng, Nguyễn Ngọc Liên, anh Ngô Trung Định và các bạn khác... Thấy tôi mặc bộ áo tù, một cô hỏi:
-“ Các anh vừa đi cải tạo về?”
-“ Vâng, chúng tôi vừa rời trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa là lên tầu về Nam.”
Chúng tôi được tiếp đón thật nồng
hậu. Ngoài thức uống, cô trưởng toán còn
mời chúng tôi một chai Champagne của Liên Xô đã ướp lạnh với tôm khô và củ
kiệu, để mừng ngày chúng tôi trở về. Chúng tôi chuyện vãn, dù chỉ trong khoảnh
khắc nhưng thấm đượm tình người. Chúng
tôi được biết quý danh các cô, nguyên là học sinh trường Gia Long-Sài Gòn,
những người đã mang đến cho chúng tôi một thứ tình cảm thật gần gũi, khó quên,
hiếm có trong cuộc sống nhiều thay đổi này.
Chúng tôi hy vọng có dịp gặp lại: Cô Oanh: 138/2 Cô Bắc, Phú Nhuận – Cô
Cúc: 116/33/25 Tô Hiến Thành, Q.10 – Cô Duyên: 530 Lý Thái Tổ, Q.10 – Cô Liên: 212/11/27
Nguyễn Thiện Thuật, Q.3 – Cô Lan: 195/32 Hoàng Đạo (Cống Bà Xếp.)
Bất chợt có tiếng gõ cửa toa ăn. Qua ô cửa kính nơi cánh cửa, một vị khách mặc
quân phục muốn vào toa ăn. Tôi nghe rõ
câu trả lời của cô tiếp viên:
-“ Toa ăn đóng cửa vì sắp tới ga chính.”
Vị khách nói:
-“Những người ngồi trong toa thì sao?”
-“ Những người này khác.”
Sau câu trả lời, cô quay vào làm tiếp
công việc đang làm. Chúng tôi cám ơn các
cô tiếp viên đã dành cho chúng tôi một sự ưu đãi đặc biệt. Đây là hình ảnh đẹp nhất sau một thời gian
dài chìm đắm trong sự hà khắc. Một thứ
hình ảnh gợi nhớ tình cảm thân thiết của quê hương miền Nam.
Tầu dừng lại ga Long Khánh, một người
đàn ông lên tầu, tới cửa sổ chỗ tôi ngồi, đón nhận những bó củi, bao than và
nhiều thứ khác được chuyển từ dưới sân ga qua cửa sổ. Đây là những món hàng được chuyển về bán tại
thành phố.
Tới ga Bình Triệu trong túi tôi không
còn một đồng. Tôi đứng trước cửa ga tìm
phương tiện về nhà. Một chiếc xe xích lô
máy chạy tới bên tôi. Người tài xế còn
rất trẻ, mặc chiếc áo trận xanh đã bạc mầu, da mặt nhuộm nâu vì nắng gió. Anh dừng xe và hỏi:
-“ Bác về đâu?”
-“ Tôi về đường Tự Đức, Phú Nhuận.”
-“ Cháu biết đường này. Bây giờ
đường Tự Đức đã đổi tên là Nguyễn Thị Huỳnh.”
-“ Tôi không có sẵn tiền. Anh chở
tôi về nhà lấy tiền được không?”
-“ Không sao. Bác yên tâm.”
Anh chợt hỏi tôi:
-“ Bác mới đi cải tạo về?”
-“ Tôi vừa về tới.”
Thấy tôi tay không, anh tài xế hỏi:
-“ Hành lý của bác để đâu, chỉ chỗ cháu xách cho.”
-“ Tôi không có gì mang
theo.”
Anh tỏ vẻ ngạc nhiên, có lẽ tôi là người đầu tiên, khác với những
người anh gặp trước đây. Bất chợt anh
lấy từ túi áo trận gói thuốc lá “Basto xanh”, thứ thuốc tôi bắt đầu hút từ sau
ngày 30-4-1975. Anh đưa gói thuốc hỏi tôi:
-“Bác hút thuốc không?”
Tự nhiên tôi thấy thèm khói thuốc.
Từ lúc rời toa ăn ở Long Khánh đến giờ tôi chưa hút điếu thuốc nào. Tôi rút điếu thuốc và nói:
-“ Cám ơn anh. Trời về chiều se lạnh. Hút điếu thuốc vào giờ phút này sẽ ngon vô cùng.”
Anh lấy chiếc bật lửa Zippo đưa cho tôi mồi lửa. Như một thói quen, tôi bật lửa bằng hai ngón
tay. Vẫn âm thanh quen thuộc đã một thời
theo tôi với gói thuốc Pall Mall. Tôi hít một hơi dài, nuốt
trọn phần khói trong miệng. Dĩ vãng như
quyện trong khói thuốc, vừa thơm ngon đậm đà của một thời huy hoàng yêu thương
thuở trước, nhưng cũng dậy lên vị đắng của cơn mê “Thiên đường hoang tưởng”
hiện tại.
Thấy cách tôi hút thuốc, anh hỏi:
-“ Bác thường hút thuốc
trong trại?”
-“ Tôi thường hút thuốc
lào 3 số 8, vì thời tiết ngoài Bắc vào cuối năm rất lạnh. Thuốc điếu hút không
đã.”
-“ Trước kia bác hút thuốc
loại nào?”
-“ Tôi hút Pall Mall, nhưng sau 30-4 tôi đổi qua thuốc Basto
xanh.”
-“ Cháu cũng như bác. Bây giờ cháu hút thuốc này, dù không ngon
nhưng không nhạt nhẽo như Điện Biên hay Vàm Cỏ.”
Tự nhiên tôi thấy gần gũi với người tài xế này. Tôi hỏi anh:
-“ Anh cho tôi biết tên
được không?
-“ Cháu tên Thành.”
-“ Anh Thành trước kia có
vào quân đội không?”
-“ Cháu vào lính được hơn
một năm thì miền Nam mất.”
-“ Anh ở đơn vị nào?”
-“ Cháu thuộc sư đoàn 18.”
-“ Hiện giờ gia đình anh
Thành ra sao?”
-“ Cháu có 2 cháu nhỏ, nhà
cháu buôn bán nhỏ ở chợ gần nhà. Cháu cố kiếm đủ sống cho gia đình.”
Thấy tôi đứng đã lâu, Thành mời tôi lên xe, nói:
-“ Trời còn sớm. Cháu chạy một vòng Sài Gòn để bác nhớ lại
khung cảnh ngày xưa.”
-“ Cám ơn anh Thành. Tôi xa nhà đã lâu, mọi thứ đều khác lạ.”
*
Tôi nắm chặt tay Thành khi chia tay anh, một người tuổi trẻ đã đóng
góp phần mình để bảo vệ mảnh đất thân yêu này.
Tôi cảm nhận một điều, miền Nam mới chính là quê hương của tôi, mặc dù tôi
sinh ra và lớn lên tại miền Bắc, nhưng vẫn cảm thấy lạc lõng khi trở về quê cũ.
Tôi bước vào nhà. Vợ tôi nét
mặt vui tươi, ngấn lệ long lanh khóe mắt.
Nàng và các con vây quanh. Tôi
xúc động ôm chặt các con vào lòng, để tận hưởng hơi ấm gia đình xum họp, mà
trong suốt thời gian tù đầy vừa qua, những hình ảnh thân yêu gia đình đã là đốm
lửa cuối đường để tôi nhắm tới mà hy vọng.
Lòng tôi hân hoan. Chúng tôi thật
may mắn, vừa tìm lại được tình yêu thương mà tưởng chừng đã mất.
Trần Nhật Kim
***
---------------------------
Chú Thích:
Trại Thanh Cẩm
Trại Thanh Cẩm nằm trong xã Cẩm Thành bên bờ sông Mã, thuộc huyện Cẩm Thuỷ tỉnh Thanh Hoá.
Trại Thanh Cẩm nằm trong xã Cẩm Thành bên bờ sông Mã, thuộc huyện Cẩm Thuỷ tỉnh Thanh Hoá.
Xã Cẩm
Thành:
Năm 1964 xã Cẩm Thành và xã Cẩm Liên được tách ra từ xã Cẩm
Thạch. Sau khi được thành lập, xã Cẩm Thành gồm có 14 xóm:
Chanh, Én, Muối, Vạc, Ngọc, Nấm, Phâng, Bọt, Bèo, Trẹn, Khạt, Chiềng Tràm, Cò
Cánh và Hồng Thái.
Diện tích xã Cẩm
Thành: 30, 64 km2.
Phía Bắc giáp các xã: Điền
Trung và Lương Trung, (huyện Bá Thước). Phía Đông giáp xã Cẩm Lương
(huyện Cẩm Thuỷ). Phía Nam
giáp các xã: Cẩm Thạch và Cẩm Liên (huyện Cẩm Thuỷ). Phía Tây giáp:
xã Điền Hạ và Điền Trung (huyệ Bá Thước).
Xã Cẩm Thành nằm về phía
Tây Bắc Huyện Cẩm Thuỷ, phần lớn nằm về hữu ngạn sông Mã. Xã Cẩm Thành có tỉnh
lộ 217 chạy qua.
Huyện Cẩm Thuỷ: là một thị trấn của tỉnh Thanh Hoá, gồm 19 xã: Cẩm Bình, Cẩm Châu, Cẩm Giang, Cẩm Liên, Cẩm Long, Cẩm Lương, Cẩm Ngọc, Cẩm Phong, Cẩm Phú, Cẩm Quý, Cẩm Sơn, Cẩm Tâm, Cẩm Tân, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Tú, Cẩm Vân, Cẩm Yên và Phúc Dó.
Huyện Cẩm Thuỷ: là một thị trấn của tỉnh Thanh Hoá, gồm 19 xã: Cẩm Bình, Cẩm Châu, Cẩm Giang, Cẩm Liên, Cẩm Long, Cẩm Lương, Cẩm Ngọc, Cẩm Phong, Cẩm Phú, Cẩm Quý, Cẩm Sơn, Cẩm Tâm, Cẩm Tân, Cẩm Thạch, Cẩm Thành, Cẩm Tú, Cẩm Vân, Cẩm Yên và Phúc Dó.
Cẩm Thuỷ có diện tích 425.03 km2. Dân tộc gồm: Mường, Kinh và
Dao.
Về giao thông, huyện Cẩm Thủy có đường Liên vận 217 nối vùng Thượng
Lào với Biển Đông.
Huyện Cẩm Thuỷ nằm về phía Tây Bắc tỉnh Thanh Hoá, cách thành phố
Thanh Hoá 80Km. 80o/o diện tích huyện
Cẩm Thủy là đồi núi.
Trại Quyết Tiến (Cổng Trời)
Trại Quyết Tiến nằm trong địa phận xã Quyết Tiến, một xã thuộc
huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.
Xã Quyết Tiến: Bắc giáp xã Tùng Vải (thị trấn Tam
Sơn). Đông giáp xã Quản Bạ, xã Đông Hà
và xã Thuận Hòa (Vị Xuyên). Nam giáp xã Thuận Hòa (Vị Xuyên) và Minh
Tân. Tây giáp xã Minh Tân. Diện tích:
60Km2.
Huyện Quản Bạ:
Nằm về phía Bắc tỉnh Hà Giang. Phía Bắc
và Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam (TQ). Phía Nam giáp Vị Xuyên. Phía Đông giáp huyện Yên Minh. Diện tích: 550Km2.
Tọa độ: 22o 10’ đến 23o 30’ vĩ độ Bắc và 104o 20’ đến 105o 34’ kinh độ Đông.
Diện tích toàn tỉnh: 7.884, 37Km2.
Với các quốc lộ chính: QL 2, QL
34, QL 4C, QL 279. Với 2 sông: sông
Lô và sông Gầm. Hà Giang là tỉnh miền
núi, có ngọn Tây Côn Lĩnh cao 2.418m. Độ
cao trung bình khoảng 800m so với mặt nước biển.
No comments:
Post a Comment